However rare true love may be, it is less so than true friendship.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23: Tinh Vân Đầu Ngựa
arry thức giấc khi nghe tiếng chuông điện thoại và hé mắt nhìn đồng hồ. Bảy rưỡi. Là Øystein. Anh ta đã rời khỏi căn hộ của Harry chỉ vừa ba tiếng trước. Sau đó, anh ta đã xác định được vị trí của máy chủ ở Ai Cập và lúc này thì anh ta đã khám phá ra nhiều hơn.
“Tôi đã email một người bạn cũ. Anh ta sống ở Malaysia và có làm mấy vụ hack vặt. ISP nằm ở El Tor, trên bán đảo Sinai. Ở đó có khá nhiều ISP, nó kiểu như một trung tâm vậy. Cậu đang ngủ à?”
“Gần như vậy. Làm thế nào để lần ra khách hàng của chúng ta?”
“Chỉ có một cách, tôi e là vậy. Tới đó và mang theo một xấp đô Mỹ thật dày.”
“Bao nhiêu?”
“Đủ để cạy miệng ai đó cho cậu biết cậu cần nói chuyện với ai. Và để cho người mà cậu nói chuyện đó nói cho cậu biết cậu thật sự cần nói chuyện với ai. Và để người mà cậu thật sự…”
“Tôi hiểu ý cậu rồi. Bao nhiêu?”
“Một nghìn, có thể đạt được một bước tiến nào đó.”
“Cậu nghĩ vậy chứ?”
“Theo tôi nhớ thì là như vậy. Tôi thì biết cái mẹ gì chứ.”
“Thôi được. Cậu có nhận vụ này không?”
“Đương nhiên.”
“Tôi trả bèo thối đấy. Cậu sẽ đi máy bay giá rẻ và ở trong khách sạn rẻ tiền.”
“Xong.”
○○○
Đã mười hai giờ và căng tin Sở Cảnh sát chật ních người. Harry nghiến răng đi vào. Anh không ưa đồng nghiệp không phải nguyên tắc; anh không ưa họ từ trong bản năng. Và, sau nhiều năm, điều này càng lúc càng tệ hơn.
“Chứng hoang tưởng hoàn toàn bình thường,” Aune đã gọi tên căn bệnh đó như vậy. “Chính tôi cũng có cảm giác tương tự. Tôi nghĩ là tất cả các nhà tâm lý học đều đang tấn công tôi, trong khi trên thực tế thì có lẽ là không quá một nửa số họ.”
Harry nhìn khắp lượt căn phòng và phát hiện ra Beate với món bánh kẹp và lưng của một người đang ngồi ăn cùng cô. Harry cố gắng không để ý tới những ánh mắt anh nhận được từ những chiếc bàn anh đi qua. Có ai đó lẩm bẩm một câu “Xin chào”, nhưng Harry đoán câu đó có hàm ý mỉa mai nên không đáp lại.
“Tôi có làm phiền không?”
Beate ngước lên nhìn Harry như thể bị bắt quả tang.
“Không hề.” Một giọng quen thuộc cất lên. “Tôi cũng đang định đi đây.”
Tóc gáy Harry dựng đứng - không phải theo nguyên tắc mà là theo bản năng.
“Tối gặp lại nhé.” Tom Waaler mỉm cười, nụ cười chớp nhoáng trắng lốp trước khuôn mặt đỏ bừng của Beate. Anh ta nhấc cái khay của mình lên, gật đầu với Harry và rời khỏi bàn.
Beate dán mắt vào món pho mát dê và cố hết sức soạn ra một vẻ mặt biết điều trong lúc Harry ngồi xuống.
“Thế nào?”
“Thế nào gì cơ?” Cô thỏ thẻ, cường điệu quá mức cái vẻ ngu ngơ không hiểu gì.
“Cô đã nhắn vào máy trả lời tự động của tôi là cô có một tin mới,” Harry nói. “Tôi đoán là chuyện gấp.”
“Tôi đã tìm ra rồi.” Beate uống cốc sữa. “Những bức phác họa khuôn mặt của Kẻ Hành quyết mà chương trình đó đã vẽ. Tôi đang vắt óc nghĩ xem những bức phác họa đó khiến tôi nghĩ tới ai.”
“Ý cô là dữ liệu in ra mà cô đã cho tôi xem ấy hả? Hoàn toàn chẳng có gì giống với một khuôn mặt cả, chỉ toàn là những đường kẻ lung tung trên giấy.”
“Kể cả thế.”
Harry nhún vai. “Cô là người có hồi hình thoi. Nói ra đi.”
“Đêm qua tôi chợt nghĩ ra kẻ đó là ai.” Cô uống một ngụm sữa nữa và lấy khăn ăn lau cái miệng lem sữa, mỉm cười.
“Sao?”
“Trond Grette.”
Harry tròn mắt nhìn cô. “Cô đang đùa hả?”
“Không,” cô đáp. “Tôi chỉ nói là có một sự giống nhau nhất định. Dù sao thì Grette cũng ở cách Bogstadveien không xa vào thời điểm xảy ra án mạng. Nhưng, như tôi đã nói, tôi đã phát hiện ra.”
“Và bằng cách nào…?”
“Tôi đã kiểm tra thông tin ở bệnh viện Gaustad. Nếu đó chính là người đã tấn công chi nhánh DnB ở Kirkeveien thì không thể là Grette. Lúc đó anh ta ngồi trong phòng xem ti vi với ít nhất ba người chăm sóc. Và tôi đã cử hai anh chàng từ bên Pháp y tới chỗ Grette để lấy dấu vân tay. Weber vừa so sánh với dấu vân tay trên chai Coca. Hoàn toàn không khớp.”
“Vậy là lần đầu tiên cô đã nhầm?”
Beate lắc đầu. “Chúng ta đang tìm một người có rất nhiều đặc điểm ngoại hình giống với Grette.”
“Xin lỗi phải nói thế này, Beate, nhưng Grette chẳng có đặc điểm ngoại hình hay bất cứ loại đặc điểm nào hết. Anh ta là một nhân viên kế toán với bề ngoài như mọi nhân viên kế toán thôi. Tôi đã quên mất trông anh ta thế nào rồi.”
“Phải,” Cô nói, bóc mảnh giấy không thấm dầu ra khỏi miếng bánh kẹp tiếp theo. “Nhưng tôi thì không. Đó mới là điểm quyết định.”
“Ừm. Có lẽ tôi có tin tốt đây.”
“Ồ, vậy sao?”
“Tôi sẽ tới Botsen. Raskol muốn nói chuyện với tôi.”
“Chà. May mắn nhé.”
“Cảm ơn cô.” Harry đứng dậy. Lưỡng lự. Hít một hơi sâu. “Tôi biết tôi không phải cha cô, nhưng cho phép tôi nói một điều được không?”
“Cứ thoải mái.”
Anh ngó quanh, để đảm bảo là không có ai nghe thấy. “Nếu tôi là cô thì tôi sẽ dè chừng với Waaler.”
“Cảm ơn anh,” Beate cắn một miếng bánh rõ to. “Và cái phần nói về anh và cha tôi là chính xác đấy.”
○○○
“Tôi đã sống ở Na Uy suốt cuộc đời mình,” Harry nói. “Lớn lên ở Oppsal. Cha mẹ tôi là giáo viên. Cha tôi đã nghỉ hưu và từ lúc mẹ tôi mất, ông sống như một người mộng du, chỉ thỉnh thoảng tới thăm xứ sở của người sống. Em gái tôi nhớ ông lắm. Tôi cho là tôi cũng vậy. Tôi nhớ cả hai người. Họ nghĩ tôi sẽ làm giáo viên. Tôi cũng vậy. Nhưng tôi lại học trường Cảnh sát. Và học luật một thời gian nữa. Nếu ông hỏi tôi tại sao tôi lại đi làm cảnh sát thì tôi sẽ có thể đưa ra cả chục câu trả lời hợp lý, nhưng chính tôi thì lại chẳng tin nổi câu nào. Tôi không còn nghĩ về điều đó nữa. Nó là một công việc, người ta trả lương cho tôi, thỉnh thoảng tôi nghĩ tôi đang làm một việc tốt - ta có thể sống nhờ điều đó trong một thời gian dài. Tôi nghiện rượu từ trước khi sang tuổi ba mươi. Có lẽ từ trước khi tôi hai mươi, tùy vào cách nhìn nhận sự việc. Người ta bảo nó có sẵn trong gien rồi. Có lẽ vậy. Khi lớn lên tôi mới biết ông tôi ở Andalsnes ngày nào cũng say khướt suốt năm mươi năm trời. Hè nào tôi cũng tới đó cho tới khi tôi mười lăm tuổi mà chẳng bao giờ nhận ra điều gì. Không may là tôi lại không được thừa hưởng tài năng đó. Tôi đã làm những việc không hẳn là không ai phát hiện ra. Nói tóm lại việc tôi vẫn còn được ở trong ngành là một điều kỳ diệu.”
Harry ngước nhìn tấm biển KHÔNG HÚT THUỐC và châm lửa.
“Anna và tôi cặp với nhau trong sáu tuần. Cô ấy không yêu tôi. Tôi cũng chẳng yêu cô ấy. Khi tôi chấm dứt, tôi đã nghĩ cho cô ấy nhiều hơn là cho tôi. Nhưng cô ấy lại không nhìn nhận chuyện đó như vậy.”
Người đàn ông kia trong phòng gật đầu.
“Tôi đã từng yêu ba người đàn bà trong đời,” Harry nói tiếp. “Người đầu tiên là một mối tình trúc mã thanh mai mà tôi định lấy làm vợ, cho đến khi mọi thứ trở nên rối tung lên với cả hai chúng tôi. Sau khi tôi thôi cô ấy một thời gian dài, cô ấy tự sát, nhưng chuyện đó không liên quan gì tới tôi cả. Người thứ hai bị giết bởi một gã mà tôi đang truy đuổi ở phía bên kia bán cầu. Chuyện tương tự cũng xảy ra với một nữ đồng nghiệp của tôi - Ellen. Tôi không biết tại sao phụ nữ xung quanh tôi cứ chết như vậy. Có lẽ đó là do gien.”
“Còn người thứ ba?”
Người thứ ba. Chiếc chìa khóa thứ ba. Harry vuốt ve những chữ cái đầu tên A.A, và rìa chiếc chìa khóa mà Raskol đã đưa cho anh trên mặt bàn khi anh được dẫn vào phòng. Harry đã hỏi xem nó có giống với cái chìa mà hắn đã nhận được hay không, và Raskol gật đầu.
Rồi hắn đề nghị Harry kể về mình.
Giờ thì Raskol đang ngồi, khuỷu tay chống lên bàn và những ngón tay đan vào nhau như thể đang cầu nguyện. Cái đèn tuýp bị trục trặc đã được thay và ánh sáng trên mặt hắn lúc này giống như lớp phấn màu trắng xanh.
“Người thứ ba đang ở Moscow,” Harry nói. “Tôi nghĩ cô ấy sẽ sống sót.”
“Cô ta là của anh à?”
“Tôi không muốn nói như vậy.”
“Nhưng hai người gắn bó với nhau chứ?”
“Đúng.”
“Và hai người dự định sẽ dành phần còn lại của đời mình bên nhau?”
“Ừm. Chúng tôi không dự định. Còn quá sớm để làm thế.”
Raskol mỉm cười với anh vẻ u buồn. “Ý anh là anh không dự định. Nhưng phụ nữ thì có. Phụ nữ lúc nào cũng dự định.”
“Như ông à?”
Raskol lắc đầu. “Tôi chỉ biết cách lên kế hoạch cho các vụ cướp ngân hàng thôi. Tất cả đàn ông đều lơ mơ trong chuyện chiếm giữ trái tim. Chúng ta có thể tin rằng mình là kẻ chinh phục, như một viên tướng chiếm được thành, nhưng rồi chúng ta nhận ra khi đã quá muộn - đó là nếu chúng ta còn nhận ra được - rằng chúng ta đã bị ăn quả lừa. Anh đã từng nghe nói tới Tôn Tử chưa?”
Harry gật đầu. “Tướng Trung Quốc và là một nhà chiến lược trong việc dụng binh. Ông ta là tác giả cuốn Binh pháp.”
“Người ta nói rằng ông ta đã viết Binh pháp. Tôi thì tôi tin đó là một phụ nữ. Bề ngoài, Binh pháp là một cuốn cẩm nang về những mưu lược trên chiến trường, nhưng ở tầng sâu nhất nó mô tả cách giành chiến thắng trong xung đột. Hoặc nói chính xác hơn là nghệ thuật chiếm được cái ta muốn mà ít hao tổn nhất. Kẻ thắng trong một cuộc chiến không nhất thiết phải là người chiến thắng. Nhiều người đã giành được vinh quang, nhưng mất đi nhiều quân đến nỗi họ chỉ có thể lãnh đạo được theo điều kiện của kẻ thù tưởng đã bị khuất phục. Trong lĩnh vực quyền lực, phụ nữ không phù phiếm như đàn ông. Họ không cần phải phô trương quyền lực, họ chỉ muốn có thứ quyền lực có thể đem lại những thứ khác mà họ muốn. An toàn. Thực phẩm. Vui thú. Trả thù. Bình yên. Họ là những kẻ trù tính chuyện tìm kiếm quyền lực đầy lý trí, nghĩ xa hơn chuyện giao chiến, xa hơn những cuộc ăn mừng chiến thắng. Và bởi, họ có một năng lực bẩm sinh là nhìn ra điểm yếu của nạn nhân, nên bản năng mách bảo cho họ biết khi nào thì nên tấn công và tấn công như thế nào. Và khi nào thì dừng lại. Điều đó anh không học nổi đâu, Spiuni.”
“Có phải vì thế mà ông vào tù không?”
Raskol nhắm mắt lại và cười không thành tiếng. “Tôi có thể dễ dàng cho anh câu trả lời, nhưng anh không được tin lời nào tôi nói. Tôn Tử nói rằng nguyên tắc đầu tiên của chiến tranh là lừa đảo. Tin tôi đi - tất cả dân Di gan đều dối trá.”
“Ừm. Tin ông ư? Như trong nghịch lý của người Hy Lạp ấy hả?”
“Ái chà, một tay cảnh sát lại biết nhiều hơn bộ luật hình sự này. Nếu tất cả dân Di gan đều dối trá mà tôi lại là dân Di gan, thế thì tức là định kiến đó không đúng. Vì vậy sự thật là tôi sẽ nói thật và khi đó thì lại đúng là dân Di gan luôn nói dối. Tức là tôi đang nói dối. Một lập luận vòng tròn không thể phá vỡ. Cuộc đời tôi là thế đó và đó là sự thật duy nhất.” Hắn cười dịu dàng, gần như tiếng cười của phụ nữ.
“Giờ thì ông đã thấy được nước đi khai cuộc cờ của tôi rồi. Đến lượt ông đấy.”
Raskol nhìn Harry. Hắn gật đầu.
“Tôi tên là Raskol Baxhet. Đó là một cái tên Anbani, nhưng cha tôi không chịu thừa nhận rằng chúng tôi là người Anbani. Ông ấy bảo Anbani là cái lỗ đít của châu Âu. Vì thế tôi và tất cả các anh chị em tôi đều được dặn rằng chúng tôi sinh ra ở Rumani, được rửa tội ở Bungary và cắt bao quy đầu ở Hungary.”
Raskol giải thích rằng gia đình hắn có lẽ là người Meckari, nhóm người Di gan gốc Anbani lớn nhất. Cả gia đình đã bỏ chạy trong cuộc thảm sát người Di gan của Enver Hoxha, vượt núi để tới Montenegro và bắt đầu đi về phía Đông để làm ăn.
“Chúng tôi bị truy đuổi ở bất cứ nơi nào chúng tôi tới. Người ta bảo chúng tôi ăn trộm. Đương nhiên là thế, nhưng họ thậm chí còn chẳng thèm thu thập bằng chứng. Việc chúng tôi là dân Di gan chính là bằng chứng. Tôi nói với anh chuyện này là bởi để nhìn nhận một người Di gan, anh phải biết rằng từ lúc sinh ra hắn đã có trên trán cái dấu hiệu của kẻ hạ lưu. Chúng tôi bị mọi chế độ ở châu Âu ngược đãi. Chẳng có gì khác biệt giữa phát xít, cộng sản hay dân chủ. Chỉ có điều phát xít hành động hiệu quả hơn. Dân Di gan chẳng nhặng xị lên về vụ Diệt chủng thời Thế Chiến là vì sự khác biệt của nó với những sự khủng bố mà chúng tôi thường phải hứng chịu không lớn lắm. Anh có vẻ không tin tôi nhỉ?”
Harry nhún vai. Raskol khoanh tay lại.
“Năm 1589, Đan Mạch ban bố án tử hình dành cho các thủ lĩnh của các nhóm dân Di gan,” hắn nói. “Năm mươi năm sau, người Thụy Điển quyết định rằng tất cả đàn ông Di gan đều phải bị treo cổ. Ở Moravia, họ cắt tai trái của phụ nữ Di gan, ở Bô hem thì cắt tai phải. Tổng Giám mục của xứ Mainz tuyên bố rằng tất cả mọi người dân Di gan đều phải bị hành quyết không qua kết án vì cách sống của họ nằm ngoài vòng pháp luật. Năm 1725, một đạo luật được thông qua ở nước Phổ rằng mọi người dân Di gan quá mười tám tuổi đều phải bị hành quyết mà không cần xét xử, nhưng sau đó đạo luật này đã bị bãi bỏ - giới hạn tuổi bị giảm xuống còn mười bốn. Bốn trong số các anh em trai của cha tôi đã chết trong tù. Chỉ có một người trong số đó là chết trong Thế Chiến. Tôi có cần kể tiếp nữa không?”
Harry lắc đầu.
“Nhưng ngay cả đó cũng là vòng tròn khép kín,” Raskol nói. “Nguyên nhân khiến chúng tôi bị ngược đãi và giúp chúng tôi sống sót là một. Chúng tôi là - và muốn - khác biệt. Chính vì chúng tôi bị đẩy ra ngoài giá lạnh mà đám gadio không thể lọt vào cộng đồng của chúng tôi. Dân Di gan là kẻ xa lạ bí ẩn, đầy đe dọa, anh chẳng biết gì về họ, nhưng lại có đủ loại tin đồn thêu dệt về họ. Bao thế hệ vẫn tin rằng người Di gan là những kẻ ăn thịt người. Nơi tôi lớn lên - Balteni, ngoại ô Bucharest - người ta bảo rằng chúng tôi là hậu duệ của Cain và tất yếu phải bị diệt vong. Những vị hàng xóm gadio của chúng tôi trả tiền để chúng tôi tránh xa họ.”
Raskol đưa mắt liếc nhìn khắp lượt những bức tường không có cửa sổ.
“Cha tôi là thợ rèn, nhưng ở Rumani ông chẳng kiếm nổi việc làm. Chúng tôi phải tới một bãi rác bên ngoài thành phố nơi những người Di gan tộc Kalderash sinh sống. Ở Anbani, cha tôi tìm Bulibas, tức thủ lĩnh và quan tòa địa phương của người Di gan, nhưng giữa những người Kalderash thì ông chỉ là một gã thợ rèn không công ăn việc làm.”
Raskol thở một hơi dài.
“Tôi sẽ không bao giờ quên được ánh mắt của ông khi dẫn về một con gấu nâu nhỏ đã thuần. Ông mua nó bằng chút tiền cuối cùng còn lại của mình từ một nhóm Di gan Ursari. “Nó biết nhảy múa,” Cha tôi bảo vậy. Stefan, anh trai tôi, đã cố cho con gấu ăn, nhưng nó không chịu, và mẹ tôi đã hỏi liệu có phải nó bị ốm không. Cha tôi bảo rằng ông đã dắt nó cuốc bộ từ Bucharest về và nó chỉ cần được nghỉ ngơi thôi. Bốn ngày sau thì con gấu chết.”
Raskol nhắm mắt lại và mỉm cười với vẻ u uất quen thuộc.
“Mùa thu năm đó, tôi và Stefan bỏ trốn. Bớt đi hai miệng ăn. Chúng tôi đi về phía Bắc.”
“Lúc đó ông bao nhiêu tuổi?”
“Tôi lên tám, anh ấy mười hai. Dự định là tới Tây Đức. Hồi đó người ta cho người tị nạn từ khắp thế giới tới đó và cho họ ăn. Tôi đoán rằng đó là cách họ đền bù. Stefan nghĩ rằng chúng tôi càng nhỏ thì càng có cơ hội được cho vào. Nhưng chúng tôi bị chặn lại ở biên giới Ba Lan. Chúng tôi đã tới Vácxava, ngủ dưới một gầm cầu, mỗi đứa một chiếc chăn, trong khu vực được bao bọc bằng tường rào cạnh Wschodnia, ga cuối của tuyến xe lửa miền Đông. Chúng tôi biết chúng tôi có thể tìm được một schlepper - kẻ làm nghề buôn người. Sau vài ngày tìm kiếm, chúng tôi tìm được một người biết tiếng Di gan tự xưng là người dẫn đường qua biên giới và hứa sẽ đưa chúng tôi tới Tây Đức. Chúng tôi không có tiền để trả, nhưng hắn bảo sẽ có cách; hắn biết một số người đàn ông sẽ trả hậu cho những chú nhóc Di gan xinh trai. Tôi không hiểu hắn nói về điều gì, nhưng rõ ràng Stefan thì hiểu. Anh ấy kéo gã dẫn đường qua một bên và họ to tiếng bàn bạc gì đó trong lúc gã dẫn đường chỉ trỏ vào tôi. Stefan lắc đầu quầy quậy và cuối cùng gã dẫn đường đành giơ hai tay lên tỏ ý nhượng bộ. Stefan bảo tôi đợi cho đến khi anh ấy đi xe về. Tôi đã làm theo lời dặn của anh, nhưng hàng tiếng đồng hồ trôi qua. Tới đêm rồi, tôi bèn nằm xuống và ngủ. Trong hai đêm đầu tiên ngủ dưới gầm cầu, tôi đã bị đánh thức bởi tiếng phanh rít lên chói tai của những chiếc xe chở hàng, nhưng đôi tai trẻ con của tôi nhanh chóng nhận ra rằng đó không phải là những mà tôi cần phải cảnh giác. Vì vậy tôi cứ ngủ li bì cho đến lúc nghe thấy tiếng bước chân rón rén giữa đêm khuya. Đó là Stefan. Anh ấy chui vào chiếc chăn và nằm nép sát vào bức tường ẩm thấp. Tôi nghe thấy anh ấy khóc, nhưng cứ nhắm chặt mắt lại và không dám động cựa. Rồi tôi lại nhanh chóng nghe thấy tiếng tàu hỏa.” Raskol ngẩng đầu lên. “Anh có thích tàu hỏa không, Spiuni?”
Harry gật đầu.
“Hôm sau, gã dẫn đường quay lại. Hắn cần thêm tiền. Stefan lại lên chiếc xe đó đi mất. Bốn ngày sau, tôi tỉnh giấc lúc rạng sáng và thấy Stefan. Hẳn là anh ấy đã thức suốt đêm. Anh ấy nằm như mọi khi, mắt nhắm hờ và tôi thấy hơi thở của anh ấy lơ lửng trong làn không khí buổi sáng sớm đầy sương giá. Trên đầu anh ấy có vết máu và một bờ môi sưng phồng. Tôi cầm chiếc chăn của mình lên và đi ra ga chính nơi có một gia đình Di gan Kalderash đang nương náu phía ngoài khu vực nhà vệ sinh, đợi đi về phía Tây. Tôi nói chuyện với thằng con lớn nhất. Nó bảo cái gã mà chúng tôi tưởng là một người dẫn đường là một tên ma cô ở địa phương thường lảng vảng ở khu vực nhà ga; hắn từng đề nghị trả ba mươi zloty cho hai thằng em bé nhất của nó. Tôi đưa cho thằng nhóc đó xem chiếc chăn của tôi. Nó dày dặn và còn tốt, ăn trộm từ một xưởng giặt là ở Lublin. Nó thích chiếc chăn. Sắp tới tháng Chạp. Tôi đề nghị được xem con dao của nó. Nó để bên trong áo sơ mi.”
“Làm sao ông biết là thằng nhóc đó có dao?”
“Dân Di gan ai cũng có dao. Để ăn. Ngay cả người thân trong nhà cũng không dùng chung dao kéo - họ có thể mắc marime, bị ô uế. Nhưng trong vụ đổi chác đó nó hời. Con dao nhỏ lại cùn. May thay, tôi đã mài sắc nó ở chỗ người thợ rèn trong xưởng đường sắt.”
Raskol lướt móng tay dài nhọn hoắt trên ngón út bàn tay phải dọc sống mũi. “Đêm đó, sau khi Stefan bước lên chiếc xe, tôi hỏi gã ma cô là hắn có khách nào cho cả tôi nữa không. Hắn cười toét miệng và bảo tôi đợi. Khi hắn quay lại, tôi nấp trong bóng tối dưới gầm cầu nhìn những chuyến tàu ra vào ga.
‘Lại đây, Sinti,’ hắn gọi to. ‘Tao có một vị khách tốt lắm. Một ông nghị giàu có. Đi nào, chúng ta không có nhiều thì giờ đâu!’
Tôi bèn đáp: ‘Chờ chuyến tàu Krako đã.’
Hắn bèn đi tới chỗ tôi và túm lấy cánh tay tôi. ‘Mày phải đi ngay, mày có hiểu không hả?’
Tôi chỉ cao đến ngang ngực hắn. ‘Đây rồi,’ tôi nói, chỉ tay. Hắn buông tôi ra và nhìn lên. Một chuỗi những toa xe bằng thép đen sì lăn qua trước hai khuôn mặt trắng nhợt của tôi và hắn trong lúc cả hai cùng nhìn lên. Rơi khoảnh khắc tôi chờ đợi đã tới. Tiếng thép nghiến lên thép rít chói tai khi tàu hãm phanh. Âm thanh đó sẽ át đi tất cả.”
Harry nheo mắt, như thể để dễ bề nhìn xem Raskol có nói dối không.
“Khi những toa tàu cuối cùng chầm chậm lăn qua, tôi thấy khuôn mặt một người phụ nữ đang nhìn tôi chằm chằm qua một ô cửa sổ. Trông bà ta giống một hồn ma. Giống mẹ tôi. Tôi giơ con dao vấy máu lên cho bà ta thấy. Và anh biết sao không, Spiuni? Đó là thời khắc duy nhất trong đời tôi từng cảm thấy hoàn toàn sung sướng.” Raskol nhắm mắt lại như thể để hồi tưởng lại khoảnh khắc đó. “Koke per koke. Mạng đổi mạng. Đó là câu ngạn ngữ của người Anbani về việc đòi nợ máu. Đó là chất men say sưa nhất và cũng nguy hiểm nhất mà Chúa đã ban cho loài người.”
“Sau đó chuyện gì đã xảy ra?”
Raskol lại mở mắt ra. “Anh có biết baxt là gì không, Spiuni?”
“Không hề.”
“Số mệnh. Địa ngục và nghiệp chướng. Đó là những thứ điều khiển cuộc đời mỗi chúng ta. Khi tôi móc ví của tên ma cô, có tới ba nghìn zloty trong đó. Stefan quay về và chúng tôi mang cái xác qua đường tàu rồi vứt vào một trong những chiếc xe chở hàng đi về phía Đông. Rồi chúng tôi đi lên phía Bắc. Hai tuần sau chúng tôi lẻn lên một chiếc thuyền từ Gdansk tới Gothenburg. Từ đó chúng tôi tới Oslo rồi tới một cánh đồng ở Tyen nơi có bốn cái nhà lưu động, ba cái đã có dân Di gan ở. Cái thứ tư đã cũ kỹ và bị bỏ hoang, một trục xe đã gãy. Đó là nhà của chúng tôi trong suốt năm năm. Đêm Giáng sinh năm đó, chúng tôi đã mừng sinh nhật lần thứ chín của tôi tại căn nhà, với bánh quy và một cốc sữa bên dưới chiếc chăn duy nhất còn lại vào buổi sáng Giáng sinh, chúng tôi đột nhập vào cửa hàng đắt tiền, và chúng tôi biết rằng mình đã tới đúng chỗ.” Raskol cười rạng rỡ. “Chuyện đó dễ như lấy kẹo của một đứa bé sơ sinh vậy.”
Họ ngồi im lặng hồi lâu.
“Trông anh vẫn có vẻ như không tin tôi hoàn toàn,” cuối cùng Raskol nói.
“Chuyện đó có quan trọng không?” Harry hỏi lại.
Raskol mỉm cười. “Làm sao anh biết được là Anna không yêu anh?” hắn hỏi. Harry nhún vai.
Tay bị còng với nhau, họ bước đi trong đường hầm Culvert.
“Đừng giả định tôi biết tên cướp là ai,” Raskol nói. “Đó có thể là một kẻ ngoài giới.”
“Tôi biết,” Harry nói.
“Tốt.”
“Vậy nếu như Anna là con gái của Stefan và ông ta sống ở Na Uy thì tại sao ông ta lại không tới đám tang của con gái?”
“Vì anh ấy qua đời rồi. Vài năm trước anh ấy bị ngã nhào xuống từ một mái nhà đang được sửa lại.”
“Thế còn mẹ Anna?”
“Chị ta đã chuyển về miền Nam Rumani cùng với em gái và em trai sau khi Stefan qua đời. Tôi không có địa chỉ của chị ta. Tôi cũng không tin là chị ta có địa chỉ.”
“Ông đã nói với Ivarsson rằng lý do gia đình Anna không tới đám tang là vì chị ấy đã làm ô danh họ.”
“Tôi đã nói vậy à?” Harry có thể thấy vẻ thích thú trong cặp mắt nâu của Raskol. “Anh có tin tôi không nếu tôi bảo là tôi đã nói dối?”
“Có.”
“Nhưng tôi không nói dối. Anna đã bị gia đình từ thật. Cha con bé coi nó như không tồn tại nữa. Anh ấy không thèm nhắc đến tên nó. Để ngăn chặn marime. Anh có hiểu không?”
“Có lẽ là không.”
Họ bước vào đồn cảnh sát và đứng đợi thang máy. Raskol lẩm bẩm gì đó một mình rồi nói to lên. “Sao anh lại tin tôi, Spiuni?”
“Tôi đâu được lựa chọn?”
“Lúc nào anh cũng có lựa chọn.”
“Quan trọng hơn là: tại sao ông tin tôi? Chiếc chìa khóa ông nhận từ tôi có thể giống với chiếc chìa được gửi tới cho căn hộ của Anna, nhưng nhỡ đâu tôi đã không tìm thấy nó trong căn hộ của kẻ sát nhân.”
Raskol lắc đầu. “Anh nhầm rồi. Tôi chẳng tin ai cả. Tôi chỉ tin vào bản năng của mình. Và nó mách bảo tôi rằng anh không phải một gã ngốc. Ai cũng sống vì một điều gì đó. Một thứ có thể bị lấy đi. Anh cũng vậy. Thế thôi.”
Cửa thang máy mở ra và họ bước vào trong.
Harry chăm chú nhìn Raskol trong cảnh tranh tối tranh sáng.
Hắn ngồi xem cuốn băng ghi hình về vụ cướp ngân hàng, lưng thẳng, hai lòng bàn tay chắp lại, mặt không biểu hiện gì. Thậm chí ngay cả khi tiếng súng nổ đã bị bóp méo vang lên trong Nhà Đau đớn.
“Ông có muốn xem lại không?” Harry hỏi khi họ xem tới những hình ảnh cuối cùng của Kẻ Hành quyết mất hút trên phố Industrigata.
“Không cần đâu,” Raskol đáp.
“Thế nào?” Harry nói, cố gắng không lộ giọng phấn khích.
“Anh còn gì khác nữa không?”
Harry cảm thấy sắp sửa phải đón nhận tin xấu.
“Ừm, tôi có một cuốn băng ghi hình của siêu thị 7-Eleven ở góc phố đối diện với ngân hàng, nơi hắn đã đứng canh chừng trước vụ cướp.”
“Bật lên đi.”
Harry cho cuộn băng chạy hai lần. “Thế nào?” Anh hỏi lại khi sóng nhiễu như một trận bão tuyết dữ dội hiện lên trên màn hình trước mặt họ.
“Tôi biết cảnh sát cho là hắn đứng sau những vụ cướp khác và chúng ta cũng có thể xem cả những cuốn băng đó,” Raskol nói, nhìn đồng hồ đeo tay. “Nhưng làm vậy chỉ phí thời gian thôi.”
“Tôi tưởng ông bảo thời gian là thứ duy nhất mà ông có đủ.”
“Một lời nói dối trắng trợn,” hắn nói, rồi đứng dậy và đưa tay ra. “Thời gian là thứ duy nhất mà tôi không có. Tốt hơn hết là anh nên tra còng lại đi, Spiuni ạ.”
Harry rủa thầm. Anh sập cái còng vào tay Raskol và họ nghiêng người lách giữa chiếc bàn và bức tường để ra cửa. Harry nắm lấy tay cầm trên cánh cửa.
“Hầu hết các tên cướp ngân hàng đều có tâm hồn đơn giản,” Raskol nói. “Đó là lý do vì sao chúng trở thành cướp ngân hàng.”
Harry khựng lại.
“Một trong những tên cướp ngân hàng lừng danh nhất thế giới là Willie Sutton người Mỹ,” Raskol nói. “Khi hắn bị bắt và đưa ra tòa, thẩm phán hỏi hắn tại sao lại đi cướp ngân hàng. Sutton trả lời: Vì ở đó có tiền. Câu đó trở thành câu cửa miệng trong tiếng Anh Mỹ hằng ngày và tôi cho rằng ý nghĩa của nó là cho chúng ta thấy ngôn ngữ có thể thẳng thắn và dễ dàng một cách tài tình đến mức nào. Với tôi, nó chỉ cho thấy một thằng ngu đã để mình bị bắt. Những tên cướp ngân hàng siêu hạng thì không nổi tiếng cũng không có gì để trích dẫn cả. Anh chẳng bao giờ nghe nói tới chúng vì chúng chẳng bao giờ bị bắt cả. Vì chúng không thẳng thắn và đơn giản. Kẻ mà anh đang tìm kiếm là một trong số đó.”
Harry chờ đợi.
“Grette,” Raskol nói.
○○○
“Grette ư?” Beate chằm chằm nhìn Harry, mắt như muốn nhảy ra khỏi tròng. “Grette?” Mạch máu nơi cổ cô phồng lên. “Grette có chứng cứ ngoại phạm mà! Trond Grette chỉ là một gã kế toán thỏ đế, không thể là cướp ngân hàng được! Trond Grette… là… là…”
“Kẻ vô tội,” Harry nói. “Tôi biết.” Anh đóng cửa văn phòng lại sau lưng và ngồi tụt sâu xuống chiếc ghế tựa trước bàn làm việc. “Nhưng chúng ta không nói về Trond Grette.”
Miệng Beate khép lại với một tiếng ực ướt át, nghe rõ mồn một.
“Cô đã nghe nói tới Lev Grette bao giờ chưa?” Harry hỏi. “Raskol bảo rằng hắn chỉ cần xem ba mươi giây đầu tiên là đủ biết, nhưng hắn muốn xem phần còn lại để chắc chắn bởi vì đã mấy năm nay chưa ai nhìn thấy Lev Grette cả. Theo tin đồn mới nhất mà Raskol nghe được, Grette đang sống đâu đó ở nước ngoài.”
“Lev Grette,” Beate nói, cái nhìn của cô lơ đễnh hướng ra xa. “Hắn là một gã phi thường. Tôi nhớ có nghe cha tôi kể về hắn. Tôi đã đọc những bản báo cáo về các vụ cướp mà hắn bị tình nghi là có dính líu hồi hắn mới mười sáu tuổi. Hắn là một huyền thoại vì cảnh sát chẳng bao giờ bắt được hắn, và khi hắn lặn không sủi tăm thì chúng ta thậm chí còn chẳng có nổi dấu vân tay của hắn.” Cô nhìn Harry. “Làm sao tôi có thể ngu ngốc đến thế nhỉ? Cùng vóc người. Cùng những nét tương tự. Anh trai của Trond Grette, phải không?”
Harry gật đầu.
Beate cau mày. “Nhưng thế thì có nghĩa là Lev Grette bắn chết em dâu.”
“Điều đó làm cho một số thứ khớp vào đúng vị trí, phải không?”
Cô chầm chậm gật đầu. “Khoảng cách hai mươi xăng ti mét giữa hai khuôn mặt. Họ biết nhau.”
“Và nếu như Lev Grette biết hắn đã bị phát hiện…”
“Đương nhiên,” Beate nói. “Cô ta là nhân chứng. Hắn không thể liều lĩnh để cô ta có thể tố giác hắn.”
Harry đứng dậy. “Tôi sẽ bảo Halvorsen pha thứ gì đó thật đặc cho chúng ta. Giờ thì cùng xem cuốn băng đó nào.”
“Tôi đoán là Lev Grette không biết Stine làm việc ở đó,” Harry nói, mắt vẫn dán vào màn hình. “Điều thú vị là hắn có lẽ đã nhận ra cô ta mà vẫn chọn sử dụng cô ta làm con tin. Hẳn là hắn đã biết cô ta sẽ nhận ra hắn ở khoảng cách gần, nếu không phải là vì điều gì khác thì cũng là qua giọng nói.”
Beate lắc đầu tỏ vẻ không hiểu trong lúc mải mê xem những hình ảnh của căn phòng lớn của ngân hàng, nơi mọi thứ đã tạm thời trở nên im lặng, và August Schulz, với cái dáng đi lệt xệt đã đi được nửa quãng đường. “Vậy thì tại sao hắn lại làm thế?”
“Hắn là một kẻ chuyên nghiệp. Không để cho bất cứ chuyện gì phụ thuộc vào may rủi. Từ giây phút này, Stine Grette coi như xong.” Harry dừng hình đúng lúc tên cướp vừa bước qua cửa và nhìn khắp lượt căn phòng. “Khi Lev Grette nhìn thấy cô ta và nhận thấy có khả năng hắn sẽ bị phát giác, hắn đã biết là cô ta sẽ phải chết. Vì vậy hắn cứ sử dụng cô ta làm con tin rồi.”
“Lạnh như băng.”
“Âm bốn mươi. Điều duy nhất tôi không hiểu nổi là tại sao hắn lại sẵn sàng giết người để tránh bị phát giác trong khi hắn đã bị truy nã vì những vụ cướp ngân hàng khác.”
Weber đi vào với khay cà phê.
“Đúng thế, nhưng Lev Grette đâu có bị truy nã vì cướp ngân hàng,” Ông ta nói, giữ cái khay thăng bằng cho đến khi đặt nó lên cái bàn uống nước. Căn phòng trông như thể đã từng được trang trí một lần từ hồi thập niên năm mươi rồi sau đó chẳng có ma nào đụng tới nữa. Những cái ghế tựa bọc vải nhung lông, cái đàn piano và những cái cây phủ kín bụi trên bậu cửa sổ tỏa ra một sự tĩnh lặng kỳ quái. Ngay cả con lắc của chiếc đồng hồ tủ nằm trong góc phòng cũng đu đưa không một tiếng động. Người phụ nữ tóc trắng với đôi mắt tươi cười trong tấm kính lồng khung trên bệ lò sưởi cười không thành tiếng.
Sự tĩnh lặng dường như đã ngự ở đây từ khi Weber góa vợ tám năm trước khiến mọi thứ xung quanh ông cũng trở nên câm lặng. Thậm chí còn khó có thể làm một nốt nhạc đàn ngân lên thành tiếng trên chiếc piano. Căn hộ nằm ở tầng trệt của một tòa chung cư cũ ở Tyen, nhưng tiếng xe cộ bên ngoài chỉ càng làm nổi bật hơn sự tĩnh lặng đó. Weber ngồi xuống một chiếc ghế tựa có tay vịn, một cách thận trọng, như thể nó là vật trưng bày trong bảo tàng vậy.
“Chúng ta chưa bao giờ tìm thấy bất cứ bằng chứng cụ thể nào rằng Grette có dính líu tới bất cứ vụ cướp nào. Không có lời khai của nhân chứng, không tay trong nào nắm được gì về hắn, không dấu vân tay và cũng không có manh mối pháp y nào. Các báo cáo chỉ khẳng định rằng hắn là một kẻ tình nghi.”
“Ừm. Vậy, miễn là Stine Grette không tố giác hắn thì hắn vẫn là một người có lý lịch trong sạch?”
“Đúng thế. Bánh quy nhé?” Beate lắc đầu.
Hôm đó là ngày nghỉ của Weber, nhưng Harry đã gọi điện nài nỉ đòi tới nói chuyện với ông ta ngay tức khắc. Anh biết Weber ngại tiếp khách ở nhà, nhưng chuyện này không đừng được.
“Chúng tôi đã nói chuyện với nhân viên trực ở Phòng Giám định Pháp y so sánh những dấu vân tay trên chai Coca với dấu vân tay trong những vụ cướp trước đó mà Lev Grette bị nghi là đã thực hiện,” Beate nói. “Hoàn toàn không khớp.”
“Như tôi đã nói,” Weber nói, kiểm tra xem nắp của bình cà phê đã đóng kín chưa, “Không hề tìm thấy dấu vân tay của Lev Grette tại hiện trường vụ cướp.”
Beate lật giở cuốn sổ ghi chép. “Ông có đồng tình với Raskol rằng Lev Grette là gã mà chúng ta đang truy tìm không?”
“Ừm, sao lại không?” Weber bắt đầu rót cà phê.
“Vì hắn chưa bao giờ dùng vũ lực trong bất cứ vụ cướp nào mà hắn bị tình nghi cả. Và vì cô ta là em dâu của hắn. Giết người vì sợ có thể bị nhận ra - đó chẳng phải là một động cơ khá yếu ớt cho hành vi giết người sao?”
Weber ngừng rót và nhìn cô. Ông liếc Harry vẻ hơi giễu cợt nhưng anh chỉ nhún vai.
“Không,” ông ta đáp. Và lại rót tiếp.
Mặt Beate đỏ lựng.
“Weber xuất thân từ trường đào tạo điều tra viên kinh điển,” Harry nói gần như xin lỗi. “Quan điểm của ông ấy là giết người, về bản chất, không bao gồm các động cơ có lý trí. Chỉ có những động cơ không rõ ràng theo mức độ, và thỉnh thoảng có thể gần giống như lý trí.”
“Nó là thế đấy,” Weber nói, đặt bình cà phê xuống.
“Tôi băn khoăn,” Harry nói, “Là tại sao Lev Grette lại rời khỏi Na Uy nếu cảnh sát chẳng có bằng chứng nào để buộc tội hắn?”
Weber phủi những hạt bi vô hình trên tay vịn của chiếc ghế. “Tôi cũng không biết chắc chắn.”
“Chắc chắn ư?”
Weber giữ chặt cái quai sứ mỏng manh của tách cà phê bằng ngón cái to, mập và ngón trỏ ám nicotine. “Hồi đó rộ lên một tin đồn. Chúng tôi chẳng tin chút nào cả. Người ta cho rằng hắn không chạy trốn cảnh sát. Có người đã nghe nói rằng vụ cướp ngân hàng cuối cùng đã không diễn ra theo đúng kế hoạch. Grette đã bỏ cộng sự của hắn trong hoạn nạn.”
“Theo kiểu nào?” Beate hỏi.
“Không ai biết. Một số người nghĩ rằng Grette đảm trách lái chiếc xe chạy trốn và đã lái xe đi mất khi cảnh sát tới, bỏ lại gã cộng sự trong ngân hàng. Những người khác lại bảo vụ cướp đó thành công, nhưng Grette đã ôm toàn bộ số tiền chuồn ra nước ngoài.” Weber nhấp một ngụm cà phê và cẩn thận đặt chiếc tách xuống. “Khía cạnh thú vị của vụ cướp mà chúng ta đang nói tới có lẽ không phải bằng cách nào mà là kẻ nào. Kẻ nào là người thứ hai đó?”
Harry nhìn sâu vào mắt Weber. “Ý ông đó là…?”
Vị chuyên gia pháp y kỳ cựu gật đầu. Beate và Harry đưa mắt nhìn nhau.
“Mẹ kiếp,” Harry kêu lên.
○○○
Beate để ý phần đường bên trái, đợi có khoảng trống trong dòng xe bên phải trên phố Tøyengata. Mưa quất rào rào xuống nóc xe. Harry nhắm mắt lại.
Anh biết nếu tập trung thì anh có thể làm cho dòng xe đang lao vùn vụt kia trở thành những con sóng vỗ vào mũi phà trong lúc anh đứng trong gió nhìn chằm chằm xuống lớp bọt trắng xóa, nắm chặt tay ông nội. Nhưng anh không có thời gian.
“Vậy là Raskol từng có việc dang dở với Lev Grette,” Harry nói, mở mắt ra. “Và chọn hắn ta là tên cướp đó. Có thật là Grette chính là kẻ ở trong cuốn băng hay chỉ là Raskol đang trả thù? Hay đó lại là một trò bịp bợm nữa của Raskol với chúng ta?”
“Hoặc như Weber nói - chỉ là một tin đồn,” Beate nói. Những chiếc xe tiếp tục đi từ bên phải tới trong lúc cô sốt ruột gõ gõ mấy ngón tay lên bánh lái.
“Có lẽ cô nói đúng,” Harry nói. “Nếu Raskol muốn trả thù Grette thì hắn đã chẳng cần mượn tay cảnh sát. Cứ cho đó chỉ là tin đồn thì tại sao hắn lại chọn Grette, nếu Grette không làm việc đó?”
“Một ý nghĩ bất chợt chăng?”
Harry lắc đầu. “Raskol là một người luôn tính toán trước sau. Hắn sẽ không chỉ nhầm người mà không có lý do chính đáng đâu. Tôi không chắc Kẻ Hành quyết đang hành động đơn độc.”
“Ý anh là sao?”
“Có lẽ có ai đó đã lên kế hoạch cho các vụ cướp. Một phần của một mạng lưới nhập khẩu vũ khí. Xe chạy trốn. Căn hộ bí mật. Một kẻ dọn dẹp, đảm trách việc hô biến những bộ quần áo và vũ khí sau đó. Và một kẻ rửa tiền, có nhiệm vụ tuồn tiền đi.”
“Raskol ư?”
“Raskol muốn đánh lạc hướng chúng ta khỏi nhóm tội phạm thật sự, còn gì hay hơn là đẩy chúng ta vào việc tìm kiếm một gã mà chẳng ai biết là đang ở đâu, đã chết hay bị chôn hay đã định cư ở nước ngoài dưới cái tên mới, một kẻ tình nghi mà chúng ta sẽ không bao giờ loại được ra khỏi cuộc điều tra? Bằng cách quẳng cho chúng ta một thứ vô dụng khó lòng tìm ra hắn có thể đẩy chúng ta đuổi theo những cái bóng thay vì người của hắn.”
“Vậy anh nghĩ là hắn đang nói dối?”
“Dân Di gan ai chẳng nói dối.”
“Vậy sao?”
“Tôi đang trích dẫn câu nói của Raskol.”
“Hắn cũng có khiếu hài hước đấy chứ. Vậy thì việc gì mà hắn không nói dối anh, nếu hắn đã nói dối tất cả mọi người?”
Harry không trả lời.
“Cuối cùng cũng có chỗ trống rồi,” Beate nói, khẽ đạp chân ga.
“Đợi đã!” Harry nói. “Rẽ phải đi. Vào đường Finnmarkgata.”
“Được.” Cô chán chường đáp, và rẽ vào con đường trước mặt công viên Teyen. “Chúng ta đi đâu đây?”
“Chúng ta sẽ tới thăm Trond Grette tại nhà anh ta.”
○○○
Tấm lưới trên sân tennis đã bị tháo đi. Và cửa sổ nhà Grette chẳng thấy đèn đóm gì cả.
“Anh ta đi vắng rồi,” Beate kết luận sau khi bấm chuông hai lần. Cửa sổ nhà hàng xóm mở ra.
“Trond đang ở nhà đấy,” cái giọng láy rền phát ra từ khuôn mặt nhăn nheo của người phụ nữ mà Harry nghĩ là còn nâu hơn cả lần trước anh gặp. “Chỉ là anh ta không ra mở thôi. Cứ nhấn chuông liên tục thì anh ta sẽ ra.”
Beate nhấn nút và họ nghe thấy tiếng chuông inh ỏi trong nhà. Cửa sổ nhà hàng xóm đóng lại và ngay sau đó họ thấy một khuôn mặt nhợt nhạt với hai bọng mắt thâm xanh bên dưới hai con mắt đờ đẫn. Trond Grette đang mặc một chiếc áo choàng trong nhà màu vàng. Trông anh ta như thể vừa ra khỏi giường sau khi ngủ cả tuần trời. Và thế vẫn chưa đủ. Không nói một lời, anh ta giơ tay lên vẫy họ vào. Ánh mặt trời chiếu vào chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay út của bàn tay trái anh ta, làm nó lóe lên.
“Lev rất khác người,” Trond nói. “Hồi mười lăm tuổi anh ấy đã định giết một người đàn ông.”
Anh ta mỉm cười bâng quơ, như thể đang hồi tưởng lại một ký ức thân thương.
“Hình như chúng tôi chỉ có một bộ gien hoàn chỉnh để chia cho hai anh em. Cái gì không có ở anh ấy thì sẽ có ở tôi - và ngược lại. Chúng tôi lớn lên ở ngay Disengrenda, trong chính ngôi nhà này. Lev là một huyền thoại của cả khu, nhưng tôi chỉ là thằng em nhỏ của anh ấy. Một trong những điều đầu tiên tôi có thể nhớ được là hồi đi học, Lev đi trên nóc nhà ở trường trong giờ nghỉ. Đó là một ngôi nhà bốn tầng và không có giáo viên nào dám lên đưa anh ấy xuống. Chúng tôi đứng bên dưới hò reo trong lúc anh ấy nhảy múa vòng quanh, hai cánh tay dang rộng hai bên. Đến giờ tôi vẫn nhớ như in thân hình của anh ấy trên nền trời xanh thẫm. Trong một lúc, tôi quên cả sợ hãi; thậm chí tôi còn không nghĩ ra rằng anh tôi có thể ngã lộn cổ. Tôi nghĩ những người khác cũng có cảm tưởng như vậy. Lev là người duy nhất dám đương đầu với anh em nhà Gausten trong khu chung cư ở Traverveien, mặc dù bọn chúng lớn hơn anh ấy ít nhất hai tuổi và từng vào trại giáo dưỡng dành cho trẻ vị thành niên. Hồi mười bốn tuổi, Lev lấy xe của bố tôi, lái tới Lillestrøm và trở về với một túi kẹo Twist mà anh ấy chôm được trong một cửa hàng ở nhà ga. Bố tôi không hề biết gì. Lev đưa chỗ kẹo cho tôi.”
Trond Grette dường như cố gượng cười. Cả ba đã ngồi xuống quanh bàn. Trond đã pha ca cao. Anh ta vừa đổ bột ca cao từ một cái hộp mà anh ta đứng nhìn trân trân hồi lâu. Có ai đó đã viết chữ CA CAO lên mặt lon thiếc bằng bút dạ. Nét chữ gọn ghẽ, mềm mại.
“Điều tệ nhất là lẽ ra Lev đã có thể thành người khá,” Trond nói. “Vấn đề của anh ấy là anh ấy chán mọi thứ rất nhanh. Mọi người bảo anh ấy là cầu thủ bóng đá giỏi nhất từng có ở Skeid trong bao năm trời, nhưng khi được chọn cho đội tuyển quốc gia thì anh ấy thậm chí còn chẳng thèm có mặt. Hồi mười lăm tuổi, anh ấy mượn một cây đàn ghi ta và hai tháng sau anh ấy đã biểu diễn những ca khúc do chính mình sáng tác ở trường rồi. Sau đó, anh ấy được một gã tên Waaktar rủ tham gia vào một ban nhạc ở Grorud, nhưng anh ấy lại từ chối vì họ không xứng tầm. Lev là loại người có thể làm được mọi việc. Lẽ ra anh ấy đã có thể học hành xong xuôi dễ như bỡn nếu anh ấy chịu làm bài tập về nhà và đừng trốn học nhiều quá.” Trond nhếch miệng cười buồn. “Anh ấy bảo tôi bắt chước chữ viết của anh ấy để làm bài luận hộ và trả cho tôi bằng những món đồ ăn trộm được, ít ra thì điểm môn tiếng Na Uy của anh ấy cũng được an toàn.” Trond bật cười, nhưng lấy lại vẻ nghiêm nghị ngay sau đó. “Rồi anh ấy lại chán đàn hát và bắt đầu giao du với một nhóm choai choai lớn hơn ở khu Ảrvoll. Lev dường như không bao giờ nghĩ có gì nguy hiểm khi buông bỏ những gì anh ấy có. Luôn luôn có thứ gì đó khác, thứ gì đó hay ho hơn, thú vị hơn ở ngã rẽ tiếp theo.”
“Có thể điều này thật là ngớ ngẩn khi đem hỏi một cậu em, nhưng liệu anh có chắc là anh hiểu rõ anh trai mình không?” Harry hỏi.
Trond ngẫm nghĩ “Không, đó không phải là một câu hỏi ngớ ngẩn đâu. Đúng, chúng tôi lớn lên cùng nhau. Và đúng, Lev là người cởi mở, vui vẻ, và tất cả mọi người - con trai cũng như con gái - đều muốn được chơi với anh ấy. Nhưng thật ra Lev là một con sói cô độc. Có lần anh ấy bảo tôi rằng anh ấy chưa bao giờ có một người bạn thật sự, chỉ có người hâm mộ và bạn gái mà thôi. Có nhiều điều tôi không biết về Lev. Như khi anh em nhà Gausten tới gây lộn. Tụi nó có ba thằng và đều lớn hơn Lev. Tôi và những thằng nhóc khác trong khu hễ thấy bóng chúng là chuồn cho nhanh. Nhưng Lev vẫn ở yên chỗ cũ. Suốt năm năm trời, chúng đánh anh ấy nhừ tử. Rồi một hôm, thằng lớn nhất trong ba anh em nhà đó - Roger - đi một mình. Chúng tôi chuồn vội như mọi lần. Khi tôi núp trong góc của ngôi nhà đó ngó lại, tôi thấy Roger nằm ngửa ra đất, Lev cưỡi trên người nó. Lev đè hai đầu gối xuống hai cánh tay Roger và cầm một cái que. Tôi lại gần để xem. Ngoại trừ hơi thở nặng nề, không một âm thanh nào phát ra từ cả hai. Đó là lúc tôi thấy Lev đã chọc cái que vào hốc mắt Roger.”
Beate ngọ nguậy trên ghế.
“Lev cực kỳ tập trung, như thể đang làm một việc gì đó đòi hỏi sự chính xác và cẩn thận ghê gớm. Anh ấy dường như đang cố gắng nạy cái con mắt đó ra. Roger máu chảy ròng ròng từ mắt xuống tai và nhỏ từ vành tai xuống mặt đường rải nhựa. Im lặng đến độ có thể nghe thấy cả tiếng máu rơi chạm xuống nền đất. Tách, tách, tách.”
“Lúc đó anh đã làm gì?” Beate hỏi.
“Tôi nôn thốc nôn tháo. Tôi chưa bao giờ chịu nổi cảnh tượng máu me; nó khiến tôi sây sẩm mặt mày và nôn nao.” Trond lắc đầu. “Lev thả cho Roger đi và về nhà cùng với tôi. Roger đã chữa lành con mắt, nhưng chúng tôi không bao giờ còn nhìn thấy anh em nhà Gausten trong địa bàn của mình nữa. Nhưng tôi sẽ không quên được hình ảnh Lev cầm cái que đó. Trong những lúc như thế, tôi nghĩ ông anh của mình đôi khi có thể trở thành một người nào khác, một người mà tôi không biết, chỉ thỉnh thoảng bất chợt ghé thăm. Không may thay, sau lần đó, những chuyến ghé thăm như vậy ngày một thường xuyên hơn.”
“Anh đã nhắc đến chuyện anh ta từng định giết một người.”
“Đó là một buổi sáng Chủ nhật. Lev cầm theo một cái tua vít và một cái bút chì đạp xe xuống cầu dành cho người đi bộ trên đường Ringveien. Các vị biết những cây cầu này phải không? Chúng hơi đáng sợ vì người ta phải đi trên những tấm lưới kim loại có lỗ hình vuông và nhìn xuống mặt đường nhựa cách bảy mét ở phía đưới. Như tôi đã nói, đó là một buổi sáng Chủ nhật, và không có nhiều người quanh đó. Anh ấy đã nới lỏng những cái đinh ốc của một trong những tấm lưới đó và để lại mỗi bên hai cái ốc cái bút chì ở trong cái góc phía dưới tấm lưới. Rồi anh ấy đợi. Đầu tiên, một người phụ nữ đi qua, trông như ‘vừa mới được phịch,’ anh ấy bảo vậy. Diện ngất, tóc rối bù, chửi thề và khập khiễng trên đôi giày gót cao nhọn hoắt đã gãy.” Trond bật cười khe khẽ. “So với một thằng nhóc mười lăm thì Lev biết quá nhiều.” Anh ta cầm cốc đưa lên miệng và nhìn ra ngoài cửa sổ căn bếp với vẻ ngạc nhiên; một chiếc xe tải chở rác đã đỗ lại trước những thùng rác để ở phía sau mấy cái lồng sấy xoay. “Hôm nay là thứ Hai phải không?”
“Không,” Harry đáp, vẫn chưa đụng tới cốc nước của mình. “Chuyện gì đã xảy ra với cô gái đó?”
“Có hai lưới kim loại. Cô ta bước vào đường nằm ở bên trái. Xui xẻo, Lev bảo vậy. Anh ấy bảo anh ấy thích cô ta hơn gã kia. Rồi gã đàn ông xuất hiện. Gã đi về phía bên phải. Vì cái bút chì nằm trong góc của tấm lưới đã tháo lỏng cao hơn một chút so với những cái khác. Lev nghĩ rằng gã đã nhìn ra mối nguy hiểm nên càng tới gần, gã càng đi chậm lại. Đúng lúc gã định nhấc bước cuối cùng thì dường như gã đã đóng băng trong không trung.”
Trond chậm rãi lắc đầu trong lúc quan sát chiếc xe tải kẽo kẹt xực hết số phế thải trong toàn bộ khu nhà. “Khi gã hạ bàn chân xuống thì tấm lưới lập tức bung ra như một cái cửa lật. Các vị biết đấy, giống như những cái cửa lật người ta sử dụng trong những vụ treo cổ. Rơi xuống đường, người đàn ông đó bị gãy cả hai chân. Nếu đó không phải là sáng Chủ nhật thì hẳn là gã đã bị xe cán bẹp rồi. Xui xẻo, Lev bảo vậy.”
“Anh ta có nói thế với cảnh sát không?” Harry hỏi.
“Cảnh sát ư, có chứ,” Trond nói, nhìn chằm chằm vào trong cốc. “Hai ngày sau thì cảnh sát đến. Tôi ra mở cửa. Họ hỏi tôi có phải cái xe đạp bên ngoài là của người nào đó trong nhà tôi không. Tôi bảo đúng. Hóa ra đã có một nhân chứng nhìn thấy Lev đạp xe ra khỏi cái cầu đó và tả lại cái xe đạp cùng thằng nhóc mặc áo khoác màu đỏ. Vì vậy, tôi chỉ cho họ cái áo khoác chăn bông mà Lev đã mặc.”
“Anh ư?” Harry hỏi. “Anh tố giác chính anh trai mình sao?”
Trond thở dài. “Tôi bảo đó là xe đạp và áo khoác của tôi. Lev và tôi trông rất giống nhau.”
“Vì quái gì anh lại làm thế?”
“Tôi mới mười bốn tuổi, còn quá nhỏ để họ làm gì được. Là Lev thì ắt hẳn sẽ bị tống vào trại giáo dưỡng nơi Roger Gausten từng vào.”
“Thế cha mẹ anh đã nói gì?”
“Họ có thể nói gì được chứ? Mọi người quen nhà tôi đều biết là Lev đã làm việc đó. Anh ấy chính là cái thằng khùng đã thó kẹo và ném đá, còn tôi là thằng em hiền lành, tử tế chịu khó làm bài tập về nhà và giúp đỡ các bà già sang đường. Về sau chuyện đó không bao giờ được nhắc đến nữa.”
Beate hắng giọng. “Việc anh nhận tội là ý của ai?”
“Của tôi. Tôi yêu quý Lev hơn bất cứ thứ gì trên đời. Nhưng vì vụ đó đã được khép lại nên giờ tôi mới nói ra. Và thực ra là…” Trond lại mỉm cười thẫn thờ. “Đôi khi tôi cũng ước ao chính mình dám làm việc đó.”
Harry và Beate mân mê cốc nước của mình trong im lặng. Harry tự hỏi anh hay Beate sẽ là người hỏi. Nếu Ellen ở cạnh anh lúc này thì hẳn là họ đã biết bằng trực giác.
“Anh trai…?” Họ đồng thanh nói.
Trond chớp mắt nhìn cả hai.
Harry gật đầu ra hiệu với Beate.
“Anh trai anh hiện giờ sống ở đâu?” Cô hỏi.
“Lev… sống ở đâu ư?” Trond nhìn họ với vẻ bối rối.
“Vâng,” cô đáp. “Chúng tôi biết là anh ta đã đi vắng một thời gian rồi.”
Grette quay sang Harry. “Anh không nói rằng buổi gặp này là để nói về Lev.” Giọng anh ta có vẻ trách móc.
“Chúng tôi bảo chúng tôi muốn nói chuyện này chuyện kia,” Harry nói. “Chúng tôi đã hỏi xong chuyện này, giờ đến chuyện khác.”
Trond đứng bật dậy khỏi ghế, vớ lấy cái cốc, đi ra bồn rửa bát và đổ hết ca cao đi. “Nhưng Lev… dù sao thì anh ấy cũng là anh ấy thì dính dáng quái gì tới…?”
“Có lẽ là không có gì,” Harry nói. “Nếu có, chúng tôi muốn anh giúp loại anh ta ra khỏi danh sách điều tra của chúng tôi.”
“Anh ấy thậm chí còn không sống trong nước,” Trond rên lên, quay lại đối diện với họ.
Beate và Harry nhìn nhau.
“Vậy anh ta đang sống ở đâu?” Harry hỏi.
Trond lưỡng lự chính xác một phần mười giây rồi mới trả lời, “Tôi không biết.”
Harry quan sát chiếc xe tải chở rác màu vàng chạy qua bên ngoài. “Anh không giỏi nói dối lắm phải không?”
Trond đáp lại bằng cái nhìn đờ đẫn.
“Ừm,” Harry nói. “Có lẽ chúng tôi không thể mong đợi là anh sẽ giúp chúng tôi tìm ra anh trai anh. Mặt khác, chính vợ anh đã bị giết. Và chúng tôi có một nhân chứng đã chỉ ra rằng anh trai anh là kẻ giết người.” Anh ngước lên nhìn Trond lúc nói ra từ cuối cùng đó và thấy yết hầu của anh ta giật thót dưới làn da trắng xanh. Trong sự im lặng tiếp nối, họ có thể nghe thấy tiếng đài ở căn hộ kế bên.
Harry ho hắng. “Nếu có bất cứ điều gì anh có thể cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ vô cùng cảm kích.”
Trond lắc đầu.
Họ ngồi nán thêm vài phút rồi Harry đứng dậy. “Thôi được. Anh biết phải tìm chúng tôi ở đâu nếu anh nghĩ ra điều gì.”
Ra đến bậc thang bên ngoài căn hộ, Trond trông không có vẻ mệt mỏi như lúc họ mới đến. Harry ngước cặp mắt đỏ hoe lên nhìn vầng mặt trời đang lặn nhô ra giữa những đám mây.
“Tôi hiểu chuyện này không hề dễ dàng gì với anh, nhưng có lẽ đã đến lúc anh cởi cái áo khoác đỏ ra rồi.”
Grette không đáp lại, và cảnh cuối cùng họ nhìn thấy khi họ lái xe ra khỏi bãi đỗ xe là Grette đang đứng trên bậc cửa và mân mê chiếc nhẫn kim cương trên ngón út, và loáng thoáng một khuôn mặt rám nắng, nhăn nheo phía sau cửa sổ của nhà hàng xóm.
○○○
Đến tối, mây đã tan hết. Harry dừng lại đầu phố Dovregata trên đường từ quán Schrøder về nhà và ngước nhìn lên.
Những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời không trăng. Một trong số những đốm sáng đó là chiếc máy bay đang bay về hướng Bắc tới sân bay Gardermoen. Tinh vân Đầu ngựa thuộc chòm sao Thợ săn Orion. Tinh vân Đầu ngựa. Chòm sao Thợ săn.
Ai đã kể cho anh nghe chuyện này nhỉ? Có phải Anna không, anh tự hỏi. Về tới nhà anh bật ti vi lên để xem tin tức trên kênh NRK.
Mấy câu chuyện hùng tráng về đám lính cứu hỏa Mỹ. Anh tắt ti vi. Có tiếng đàn ông hét lên gọi tên một người đàn bà ở dưới phố, nghe có vẻ đang say. Harry lục túi áo tìm mẩu giấy anh ghi lại số mới của Rakel và phát hiện ra anh vẫn còn chiếc chìa khóa khắc hai chữ cái A.A. Anh bèn đặt cái chìa khóa đó vào sâu trong ngăn kéo trên chiếc bàn để điện thoại trước khi quay số. Không ai nghe máy. Khi điện thoại kêu, anh không chắc liệu đó có phải là cô không; thay vào đó, anh lại nghe tiếng Øystein trên đường dây rè rè.
“Bố khỉ, ở đây người ta lái xe khiếp thật!”
“Cậu không cần phải hét lên thế, Øystein.”
“Ở đây người ta đang định giết chết mẹ nó cái thằng tôi hay sao ấy! Tôi đã bắt taxi từ Sharm el-Sheikh tới đây. Một chuyến đi tuyệt vời, tôi nghĩ vậy - xuyên qua sa mạc, không có nhiều xe cộ lắm, đường thẳng băng. Trời, tôi nhầm to. Tôi có thể nói cậu hay chuyện tôi sống sót được quả là kỳ tích đấy. Mà lại còn nóng chảy mỡ! Mà cậu đã nghe tiếng bọn châu chấu ở đây chưa - lũ dế sa mạc ấy? Chúng cứ ra rả thứ âm thanh chói tai nhất quả đất. Xuyên thủng não luôn, kinh người. Nước ở đây mới tuyệt chứ. Tuyệt cú mèo! Trong vắt, chỉ hơi ngả xanh. Ấm ngang thân nhiệt, nên cậu sẽ không cảm thấy gì hết. Hôm qua tôi bước lên khỏi biển mà thậm chí còn không dám chắc là mình vừa xuống đó…”
“Quên cái vụ nhiệt độ nước biển đi, Øystein. Cậu đã tìm ra cái máy chủ đó chưa?”
“Rồi và chưa.”
“Thế là thế nào?”
Harry không có được câu trả lời. Rõ ràng là họ đã bị cắt ngang bởi một cuộc nói chuyện ở đầu dây bên kia. Harry nghe lõm bõm được mấy từ “sếp” và “tiền”.
“Harry? Xin lỗi nhé, cái gã này hơi hoang tưởng. Tôi cũng thế. Trời nóng khủng khiếp, thật đấy! Nhưng tôi nghĩ là tôi đã tìm ra đúng cái máy chủ. Luôn có khả năng người ta đang tìm cách bịp tôi, nhưng ngày mai tôi sẽ xem tận mắt và gặp riêng lão chủ. Chỉ cần ba phút trên bàn phím là tôi sẽ biết nó có phải là cái máy ta tìm không. Và phần còn lại chỉ là vấn đề tiền. Tôi hy vọng là vậy. Mai gọi cho cậu nhé. Cậu phải thấy những con dao của dân Bedouin ở đây mới được…”
Tiếng cười của Øystein nghe giả tạo.
Việc cuối cùng Harry làm trước khi tắt đèn là tra cứu trên bách khoa toàn thư. Tinh vân Đầu ngựa là một đám mây đen. Không có nhiều thông tin về nó lắm, cũng như về chòm sao Thợ săn Orion, ngoại trừ nó được xem là một trong những chòm sao đẹp nhất. Orion là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, một Titan, và là thợ săn vĩ đại. Vị thần này bị Eos quyến rũ, khiến nữ thần Artemis nổi cơn thịnh nộ giết chết. Harry đi ngủ với cái cảm giác rằng có ai đó đang nghĩ về anh.
Sáng hôm sau, khi mở mắt ra, anh cảm thấy những ý nghĩ của mình tản mát khắp nơi, như những mảnh vụn và những hình ảnh loáng thoáng của những cảnh tượng đã gần như bị lãng quên. Tưởng như ai đó đã xới tung bộ não của anh lên, và những thứ chứa trong đó, vốn được sắp xếp gọn gàng trong các ngăn kéo và ngăn tủ, nay vung vãi khắp nơi. Hẳn là anh đã mơ. Điện thoại ngoài sảnh cứ kêu mãi. Harry bắt mình rời khỏi giường.
Lại là Øystein: anh ta đang ở trong văn phòng ở El Tor. “Chúng ta có rắc rối đây,” anh ta nói.
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù