Nguyên tác: The Hunger Games - Mockingjay
Số lần đọc/download: 4588 / 244
Cập nhật: 2015-09-12 22:22:02 +0700
Chương 24
C
ơn ớn lạnh chạy dọc toàn thân tôi. Tôi thực sự lạnh lùng và tính toán đến thế sao? Gale không nói, “Katniss sẽ chọn bất kỳ ai mà nếu phải từ bỏ cô ấy sẽ tan nát cõi lòng,” hay thậm chí “bất kỳ ai mà cô ấy không thể sống thiếu”. Những lời đó ám chỉ rằng tôi hành động theo sự thúc đẩy của tình cảm. Đằng này bạn thân nhất của tôi lại đoán rằng tôi sẽ chọn cái người mà “nếu thiếu người ấy mình không thể sống sót”. Không mảy may ngụ ý rằng tôi sẽ bị lung lay vì tình yêu, hay đam mê, hay thậm chí là sự hòa hợp. Tôi chỉ vô cảm toan tính xem những chàng trai tiềm năng có thể mang lại cho tôi những gì. Như thể cuối cùng, vấn đề là liệu chàng thợ bánh hay anh thợ săn sẽ kéo dài tuổi thọ của tôi lâu nhất. Một điều kinh khủng như vậy mà Gale cũng nói ra được, còn Peeta cũng chẳng phản bác. Nhất là khi mỗi một tế bào cảm xúc trong tôi đều dồn hết cả cho Capitol hoặc phiến quân. Vào lúc này thì lựa chọn thật giản đơn. Tôi có thể sống sót ổn thỏa mà không cần cả hai bọn họ.
Sáng ra, tôi chẳng có thời gian hay hơi sức mà ấp ủ những cảm xúc tổn thương. Trong suốt bữa sáng trước bình minh gồm pa tê gan và bánh quy nhân quả sung, chúng tôi vây quanh ti vi của Tigris xem Beetee Cướp Sóng. Đã có một bước phát triển mới trong cuộc chiến. Có vẻ như được sóng đen truyền cảm hứng, một vài thủ lĩnh phiến quân mạnh dạn đã nghĩ ra ý tưởng tịch thu đám ô tô bị người dân vứt lại rồi khởi động cho chạy không người lái xuống phố. Không phải cái kén nào cũng bị ô tô kích hoạt, nhưng chắc chắn phần lớn là có. Khoảng bốn giờ sáng, phiến quân bắt đầu đục khoét ba lối đi riêng biệt – được gọi đơn giản là đường A, B, C – tới trung tâm Capitol. Kết quả là họ đã chiếm được hết khu nhà này tới khu nhà kia với số thương vong tối thiểu.
“Chuyện này không kéo dài được lâu đâu,” Gale nói. “Thực ra tôi ngạc nhiên là họ lại duy trì được lâu đến vậy. Capitol sẽ thích ứng bằng cách tạm ngắt những cái kén chuyên biệt rồi kích hoạt bằng phương pháp thủ công khi mục tiêu vào tầm ngắm.” Gần như chỉ trong vòng vài phút sau khi anh đưa ra lời phỏng đoán, chúng tôi thấy điều đó xảy ra trên màn hình. Một đội cho ô tô lao bổ xuống khu nhà, kích nổ bốn cái kén. Tất cả đều trông có vẻ ổn thỏa. Ba trinh sát theo sau, an toàn đi đến cuối đường. Nhưng khi một nhóm hai mươi chiến binh nổi dậy nối bước, họ bị nổ tan xác bởi một dãy chậu hoa hồng trước cửa tiệm hoa.
“Tôi cá là Plutarch phát điên vì lần này không được ở trong phòng điều khiển,” Peeta nói.
Beetee trả sóng lại cho Capitol, trên màn hình hiện giờ là một phóng viên mặt mày u ám công bố những khu nhà mà người dân phải sơ tán. Giữa hai bản tin cập nhật và trước đó, tôi có thể đánh dấu bản đồ giấy để xác định vị trí tương đối của quân địch.
Tôi nghe thấy tiếng mọi người nhốn nháo xô ra đường, bèn lại bên cửa sổ, hé mắt qua khe rèm. Trong ánh mai, đập vào mắt tôi là một cảnh tượng dị kỳ. Người lánh nạn từ những khu nhà bị chiếm đóng đổ về trung tâm Capitol. Những người hoảng loạn nhất khoác độc trên mình bộ đồ ngủ và xỏ dép lê, trong khi người chuẩn bị kỹ càng hơn thì bao bọc trong lớp quần áo. Họ tay xách nách mang đủ thứ từ con chó con tới hộp nữ trang tới chậu cây cảnh. Một ông khoác áo choàng lông ôm mỗi nải chuối chín nẫu. Lũ trẻ ngái ngủ, mặt mày hoang mang luýnh quýnh theo chân bố mẹ, chủ yếu vì quá hoảng loạn hay rối trí đến độ không khóc nổi. Từng phần cơ thể chúng lướt qua tầm mắt tôi. Một đôi mắt nâu to tròn. Cánh tay ghì chặt con búp bê yêu thích. Một đôi chân trần, tím tái vì lạnh, luống cuống trên con ngõ lát đá mấp mô. Nhìn thấy chúng khiến tôi nhớ lại lũ trẻ ở Quận 12 đã chết trong khi chạy tháo thân khỏi trận bom lửa. Tôi rời khỏi cửa sổ.
Tigris đề nghị làm tình báo ban ngày cho chúng tôi vì bà là người duy nhất trong chúng tôi không bị truy nã có thưởng. Sau khi cho chúng tôi xuống hầm an toàn, bà ra ngoài đường lượm lặt bất kỳ thông tin hữu ích nào.
Dưới hầm rượu, tôi cứ đi đi lại lại, làm những người khác phát điên. Có gì đó bảo tôi rằng không tận dụng dòng người lánh nạn này đúng là sai lầm. Còn gì che chắn cho chúng tôi tốt hơn thế nữa? Mặt khác, mỗi một người dân di dời lượn trên đường đồng nghĩa với có thêm một cặp mắt kiếm tìm năm phiến quân mà Capitol để sổng. Nhưng cứ chôn chân ở đây thì chúng tôi được gì? Tất cả những gì chúng tôi thực sự làm là ăn dần ăn mòn chỗ đồ ăn dự trữ và đợi chờ… cái gì đây? Phiến quân chiếm Capitol? Có lẽ phải mất hàng tuần mới thành, và tôi cũng không chắc mình sẽ làm gì nếu họ thành công. Không phải là nhào ra chào đón họ. Coin sẽ tống tôi về Quận 13 ngay tắp lự trước khi tôi kịp nói “dâu độc, dâu độc, dâu độc”. Tôi không trải qua tất cả những chuyện này, đánh mất tất cả những người ấy, chỉ để nộp mình cho người đàn bà đó. Tôi phải giết Snow. Vả lại, còn bao nhiêu điều mà tôi không thể dễ dàng giải thích về mấy ngày vừa qua. Một vài trong số đó, nếu bị đưa ra ánh sáng, có thể sẽ phá tan hoàn toàn thỏa ước miễn trừ cho những người chiến thắng. Mà quên tôi đi, tôi có cảm giác rằng một số người sẽ cần đến cái “kim bài miễn tử” ấy. Như Peeta. Cho dù ta có chống chế thế nào cũng vậy, cậu đã bị bắt thóp đúng cảnh đá văng Mitchell vào cái bẫy lưới đó. Tôi có thể hình dung tòa án binh của Coin sẽ xử ra sao.
Đến chiều muộn, chúng tôi bắt đầu bứt rứt về sự vắng mặt quá lâu của Tigris. Chúng tôi bảo nhau hay là bà ta đã bị bắt giam, tự nguyện tố chúng tôi, hay chỉ bị thương trong dòng người lánh nạn. Nhưng khoảng sáu giờ, chúng tôi nghe tiếng bà quay về. Có tiếng lệt xệt trên gác, rồi bà mở tấm ván ra. Mùi thịt rán thơm lừng ngập tràn không khí. Tigris đã chuẩn bị cho chúng tôi món thịt nguội băm trộn với khoai tây thái nhỏ. Đây là món nóng đầu tiên chúng tôi được ăn sau nhiều ngày trời, và trong khi đợi bà trút thức ăn vào đĩa, suýt nữa tôi đã nhỏ dãi.
Tôi vừa nhai vừa cố lắng nghe Tigris kể chuyện bà kiếm được đồ ăn như thế nào, nhưng tôi chỉ thấm được mỗi chi tiết chính là vào thời điểm này, đồ lót lông là một món hàng giá trị. Nhất là với những người rời khỏi nhà trong tình trạng ăn mặc sơ sài. Nhiều người vẫn còn ở ngoài đường, cố tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm. Những người sống trong khu căn hộ cao cấp khu vực nội đô không hề mở toang cửa đón người sơ tán. Ngược lại, phần lớn bọn họ đóng cửa cài then kỹ càng, kéo rèm kín mít, vờ như không có nhà. Giờ Bùng binh Thành phố đông nghẹt người lánh nạn, và đám Trị an viên đang đến từng nhà một, xông vào nếu bắt buộc, chỉ định ai vào ở nhà nào.
Qua ti vi, chúng tôi xem một tay Trị an viên ăn nói cộc lốc đang giải thích những quy tắc cụ thể về việc mỗi cư dân phải chứa bao nhiêu người trên một bộ vuông. Y nhắc nhở người dân Capitol là đêm nay nhiệt độ sẽ giảm mạnh xuống dưới 0oC và lưu ý rằng tổng thống mong họ không chỉ là những vị chủ nhà sẵn lòng mà còn phải nhiệt tình trong thời gian khủng hoảng này. Rồi đến cảnh những công nhân âu lo dang tay chào đón những người lánh nạn rạng rỡ vẻ biết ơn, trông rất kịch. Tay Trị an viên cho biết đích thân tổng thống đã ra lệnh thu xếp một phần dinh thự để đón dân vào ngày mai. Y nói thêm rằng các chủ cửa hàng nên sẵn sàng cho mượn diện tích sàn nếu được yêu cầu.
“Tigris, nhỡ là bà không chừng.” Peeta nói. Tôi nhận ra là cậu nói đúng. Rằng kể cả cái hành lang nhỏ hẹp của một cửa hàng cũng là chỗ thích hợp nếu số người tăng lên. Rồi chúng tôi sẽ thực sự bị cầm chân trong hầm rượu, có nguy cơ bị phát giác bất cứ khi nào. Chúng tôi chịu được bao ngày đây? Một? Hay hai?
Tay Trị an viên lại tiếp tục hướng dẫn thêm cho người dân. Có vẻ tối nay có việc không may là một đám đông đã đánh chết một nam thanh niên trông giống Peeta. Vì vậy, ai mà phát hiện ra phiến quân phải báo ngay cho chính quyền, để chính quyền lo việc nhận diện và bắt kẻ tình nghi. Chúng đưa ảnh nạn nhân lên. Trừ vài lọn tóc xoăn tẩy màu dễ thấy thì cậu ta chẳng hề giống Peeta chút nào.
“Mọi người phát điên rồi,” Cressida lầm bầm.
Chúng tôi xem bản tin cập nhật vắn tắt về tình hình phiến quân, theo đó hôm nay thêm vài khu nhà đã bị chiếm. Tôi ghi chú những giao lộ lên bản đồ mà nghiên cứu. “Đường C chỉ cách đây bốn khu nhà,” tôi thông báo. Không hiểu sao điều đó làm tôi lo lắng hơn cái ý nghĩ đám Trị an viên đang tìm chỗ ở tạm cho người dân. Tôi trở nên rất được việc. “Để tôi rửa bát.”
“Anh đỡ em một tay.” Gale thu dọn bát đĩa.
Tôi cảm thấy ánh mắt Peeta dõi theo chúng tôi ra khỏi phòng. Trong căn bếp chật chội nằm cuối cửa hàng của Tigris, tôi mở nước nóng chảy vào bồn cùng bọt rửa bát. “Anh có nghĩ là thật không?” tôi hỏi. “Rằng Snow sẽ để người lánh nạn vào dinh thự ấy?”
“Anh nghĩ giờ ông ta phải làm vậy thôi, ít nhất là để ghi hình, ” Gale đáp.
“Sáng mai em sẽ đi,” tôi nói.
“Anh đi với em,” Gale nói. “Chúng ta nên làm gì với những người khác đây?”
“Pollux và Cressida có thể hữu ích đấy. Họ dẫn đường khá thạo,” tôi nói. Pollux và Cressida không hẳn là vấn đề. “Nhưng Peeta thì quá…”
“Khó lường,” Gale nói nốt câu hộ tôi. “Em có nghĩ cậu ấy vẫn chấp nhận bị bỏ lại không?”
“Thì ta lý luận rằng cậu ấy sẽ gây nguy hiểm cho ta,” tôi nói. “Cậu ấy có thể ở lại đây nếu ta thuyết phục.”
Peeta tỏ ra khá lý trí trước đề nghị của chúng tôi. Cậu dễ dàng đồng ý rằng nếu đi cùng cả nhóm sẽ khiến bốn người còn lại bị nguy hiểm. Tôi đang chắc mẩm việc này thế là ổn rồi, rằng cậu có thể cứ ở trong hầm rượu của Tigris mà đứng ngoài cuộc chiến thì cậu thông báo sẽ ra ngoài một mình.
“Để làm gì?” Cressida hỏi.
“Tôi không chắc lắm. Có một việc có lẽ tôi vẫn làm ra trò được là đánh lạc hướng. Chị thấy chuyện xảy ra với kẻ trông giống tôi rồi đấy,” cậu nói.
“Ngộ nhỡ cậu… mất kiểm soát thì sao?” tôi dè dặt.
“Ý cậu là… hóa mút ấy hả? Ừm, nếu cảm thấy sắp lên cơn, tớ sẽ cố quay trở lại đây,” cậu ta trấn an tôi.
“Còn nếu Snow tóm lại cậu thì làm thế nào?” Gale hỏi. “Cậu còn chả có súng.”
“Tôi sẽ phải liều thôi,” Peeta nói. “Như những người còn lại vậy.” Hai người nhìn nhau hồi lâu, rồi Gale thò tay vào túi áo ngực. Anh đặt viên thuốc dâu độc vào tay Peeta. Peeta cứ để nó nằm đấy trong lòng bàn tay mở rộng, không chối từ cũng chẳng chấp nhận. “Thế còn anh?”
“Đừng lo. Beetee đã chỉ cho tôi cách kích nổ mũi tên thuốc nổ bằng tay rồi. Nếu không thành tôi đã có con dao này. Và tôi còn có Katniss nữa,” Gale mỉm cười nói. “Cô ấy sẽ không cho chúng được đắc ý bắt sống tôi đâu.”
Nghĩ đến cảnh đám Trị an viên xềnh xệch lôi Gale đi, tôi lại nghe thấy một giai điệu vang vang trong đầu mình…
Em có, em có
Đến bên cây
“Nhận đi Peeta,” tôi nói giọng căng thẳng. Tôi vươn ra khép ngón tay cậu lại quanh viên thuốc. “Đến lúc ấy sẽ chẳng có ai ở bên giúp cậu đâu.”
Chúng tôi đã trải qua một đêm trằn trọc, chốc chốc lại tỉnh vì những cơn ác mộng của người khác, tâm trí lùng bùng kế hoạch ngày hôm sau. Tôi nhẹ nhõm khi đồng hồ điểm năm giờ và chúng tôi có thể bắt đầu bất cứ việc gì mà ngày hôm nay dành cho mình. Chúng tôi mang hết chỗ thực phẩm còn lại ra ăn một bữa hổ lốn – đào đóng hộp, bánh quy và ốc sên – để lại một hộp cá hồi cho Tigris để tỏ chút lòng thành vì tất cả những gì bà đã làm. Cử chỉ này có vẻ khiến bà cảm động sao đó. Mặt bà rúm lại trong một biểu cảm kỳ quặc và bà mau mắn bắt tay vào việc. Bà dành mấy tiếng đồng hồ tiếp theo hóa trang cho năm người chúng tôi. Bà sửa sang lại cho chúng tôi sao cho đống quần áo bình thường che được bộ đồng phục trước cả khi chúng tôi mặc áo khoác và áo choàng vào. Ngụy trang cho ủng quân sự bằng một loại dép lông nào đó. Cố định tóc giả bằng kẹp. Lau sạch chỗ sơn lòe loẹt còn sót lại mà chúng tôi vội vã trét lên mặt và trang điểm lại. Khoác thêm áo ngoài để giấu vũ khí. Rồi đưa cho chúng tôi tay nải tay đầy những món trang sức lặt vặt để xách theo. Cuối cùng, chúng tôi trông giống y chang người lánh nạn tháo chạy khỏi phiến quân.
“Đừng bao giờ đánh giá thấp năng lực của một nhà tạo mẫu tài ba,” Peeta nói. Khó mà biết được, nhưng tôi nghĩ Tigris đã thực sự đỏ mặt bên dưới những lằn sọc kia.
Chẳng có bản tin cập nhật hữu ích nào trên ti vi, nhưng xem chừng con ngõ vẫn chật cứng người lánh nạn như sáng qua. Kế hoạch của chúng tôi là lủi vào đám đông thành ba nhóm. Đầu tiên là Cressida và Pollux, đóng vai trò người chỉ đường trong khi an toàn dẫn trước chúng tôi. Tiếp theo là Gale và tôi, tìm cách trà trộn vào đám người lánh nạn được chỉ định đến dinh thự hôm nay. Rồi đến Peeta khóa đuôi, sẵn sàng gây hỗn loạn nếu cần.
Tigris quan sát qua khe rèm xem đã đúng lúc hay chưa rồi mở chốt cửa, hất đầu về phía Cressida và Pollux. “Bảo trọng,” Cressida nói, đoạn họ đi mất.
Khoảng một phút nữa thì chúng tôi theo sau. Tôi lấy chìa khóa ra mở còng cho Peeta, rồi nhét còng vào túi. Cậu xoa xoa cổ tay. Thả lỏng. Tôi cảm thấy một nỗi niềm tựa thất vọng dâng lên trong lòng. Như thể tôi trở lại Huyết đường Tứ phân, quay lại lúc Beetee đưa cho Johanna và tôi cuộn dây đó.
“Nghe này,” tôi nói. “Đừng làm gì ngốc nghếch đấy nhé.”
“Ừ, đó chỉ là biện pháp cuối cùng thôi. Tuyệt đối đấy,” cậu nói.
Tôi quàng tay quanh cổ cậu, cảm thấy đôi tay cậu ngập ngừng trước khi ôm lại tôi. Không vững chãi như trước kia, nhưng vẫn ấm áp và mạnh mẽ. Hàng ngàn khoảnh khắc dâng trào trong tôi. Tất cả những lần đôi tay ấy là nơi nương náu duy nhất của tôi khỏi thế giới này. Có lẽ khi ấy chưa được trân trọng trọn vẹn, nhưng lại quá ngọt ngào trong kí ức tôi, mà giờ đã ra đi mãi mãi. “Thế thì được.” Tôi buông cậu ra.
“Đến lúc rồi,” Tigris nói. Tôi hôn má bà, cài chiếc áo choàng đỏ có mũ lại, kéo khăn lên tận mũi, rồi theo chân Gale bước ra ngoài bầu không khí rét căm.
Những bông tuyết lạnh bang, buốt giá làm tê dại chỗ da trần của tôi. Vầng dương đang lên cố xua tan màn ảm đạm mà chẳng mấy ăn thua. Chỉ đủ ánh sáng để nhìn thấy những dáng hình nặng nề gần mình nhất hoặc xa hơn chút nữa. Điều kiện hoàn hảo, thật vậy, chi có điều tôi không xác định được vị trí của Cressida và Pollux. Gale và tôi gục đầu xuống lê bước cùng những người lánh nạn. Tôi có thể nghe thấy những gì mà tôi đã bỏ lỡ khi ghé mắt qua khe rèm hôm qua. Tiếng khóc, tiếng rên rỉ, tiếng thở nặng nhọc. Và, không xa lắm, là tiếng đạn.
“Bác ơi, mình đi đâu đây?” một cậu bé run rẩy đang hỏi một người đàn ông oằn mình khiêng cái két nhỏ.
“Tới dinh tổng thống. Họ sẽ chỉ định cho chúng ta một nơi ở mới,” ông bác phì phò.
Chúng tôi ra khỏi con ngõ, đổ vào một trong những đại lộ chính. “Bám sát bên phải!” tiếng lệnh vang lên, và tôi thấy đám Trị an viên len lách qua đám đông, chỉ đạo dòng người di chuyển. Những khuôn mặt sợ sệt ló ra khỏi khung cửa sổ lắp kính tấm của các cửa hàng, lúc này đã quá tải người lánh nạn. Với tốc độ này thì đến giờ ăn trưa có lẽ Tigris cũng phải đón những vị khách mới. Thật tốt cho tất cả mọi người là chúng tôi đã rời đi đúng lúc.
Trời lúc này đã sáng sủa hơn, dù tuyết rơi nặng hạt hơn. Tôi trông thấy Cressida và Pollux đi trước chúng tôi khoảng ba mươi mét, lê bước cùng đám đông. Tôi rướn cổ ngó quanh quất xem có thấy Peeta đâu không. Tôi chịu, nhưng lại bắt gặp ánh mắt của một cô bé trông có vẻ tò mò mặc áo khoác vàng chanh. Tôi huých Gale rồi đi chậm lại một chút, để bức tường người hình thành giữa chúng tôi.
“Có lẽ ta cần tách ra,” tôi thì thầm. “Có một con bé…”
Đạn xuyên thủng đám đông, vài người gần tôi đổ vật xuống đất. Tiếng thét xé toạc không gian khi loạt đạn thứ hai đốn gục một toán người khác sau lưng chúng tôi. Gale và tôi liền nằm rạp xuống đất, vội vã bò khoảng chục mét tới chỗ cửa hàng, nấp sau quầy trưng bày bốt gót nhọn bên ngoài một hiệu giày.
Một hàng giày dép lông chắn mất tầm nhìn của Gale. “Ai đấy nhỉ? Em thấy không?” anh hỏi tôi. Tôi chỉ thấy, giữa những đôi bốt hoa màu oải hương và xanh bạc hà xen kẽ nhau, là một con phố ngập xác người. Cô bé con lúc trước theo dõi tôi quỳ bên một phụ nữ bất động, gào khóc cố lay bà ta dậy. Một làn đạn khác xuyên qua ngực chiếc áo khoác vàng làm nó vấy đỏ, khiến cô bé ngả ngửa ra. Trong giây khắc, nhìn vào dáng hình còng queo nhỏ bé của em, tôi nghẹn ngào không cất nên lời. Gale thúc khuỷu tay vào tôi. “Katniss?”
“Họ bắn từ chỗ mái nhà trên đầu chúng ta,” tôi bảo Gale. Tôi quan sát thêm vài loạt đạn nữa, thấy những bóng đồng phục trắng gục xuống con đường ngập tuyết. “Cố hạ đám Trị an viên, nhưng họ không hẳn là những tay thiện xạ. Chắc hẳn là phiến quân.” Tôi chẳng thấy mừng quýnh lên, dù về lý thuyết mà nói thì những đồng minh của tôi đã xuyên thủng phòng tuyến địch. Tôi vẫn đờ đẫn vì cái áo khoác vàng chanh kia.
“Nếu chúng ta bắt đầu bắn thì xong luôn,” Gale nói. “Cả thế giới sẽ biết đấy chính là chúng ta.”
Đúng. Chúng tôi chỉ được trang bị những cây cung cự phách này. Buông tên đồng nghĩa với việc báo cho cả hai bên biết rằng chúng tôi ở đây.
“Không,” tôi mạnh mẽ nói. “Chúng ta phải cho Snow nếm mùi đã.”
“Thế thì đi thôi không cả khu nhà này nổ tung lên bây giờ,” Gale nói. Bám vào tường, chúng tôi tiếp tục men theo con phố. Chỉ có điều tường ở đây chủ yếu là mặt kính các cửa hàng. Những lòng bàn tay đẫm mồ hôi và những khuôn mặt miệng há hốc in hình lên lớp kính. Tôi kéo thốc chiếc khăn cao quá xương gò má khi chúng tôi lao qua những quầy trưng bày ngoài trời. Đằng sau một giá xếp ảnh Snow đóng khung, chúng tôi đụng phải một tay Trị an viên bị thương dựa vào một dải tường gạch. Gã cầu xin chúng tôi giúp đỡ. Gale thúc đầu gối vào mé bên đầu gã rồi tước súng của gã. Ở giao lộ anh bắn tay Trị an viên thứ hai, thế là cả hai chúng tôi đều có súng.
“Giờ chúng ta nên đóng giả làm ai đây?” tôi hỏi.
“Những công dân Capitol tuyệt vọng,” Gale nói. “Đám Trị an viên sẽ tưởng chúng ta ở phe chúng, và hy vọng là phiến quân có những mục tiêu hấp dẫn hơn.”
Tôi ngẫm ngợi về độ từng trải của vai trò mới nhất này khi chúng tôi băng qua giao lộ, nhưng đến khi tới khu nhà kế tiếp thì việc chúng tôi là ai chẳng còn quan trọng nữa. Bất kỳ ai cũng được. Bởi không ai nhòm vào các khuôn mặt. Phiến quân có mặt ở đây, tốt rồi. Đổ vào các đại lộ, nấp trong ngưỡng cửa hoặc sau đám xe cộ, súng lấp lóe, những giọng nói khàn khàn hô vang mệnh lệnh khi họ chuẩn bị chạm trán một đội Trị an viên đi về phía chúng tôi. Bị mắc giữa làn tên bay đạn lạc qua lại là những người lánh nạn tay không tấc vũ khí, bị mất phương hướng, nhiều kẻ bị thương.
Một cái kén bị kích hoạt phía trước chúng tôi, phun ra một luồng hơi nước hấp tái mọi kẻ xớ rớ trên trục đường nó đi qua, để lại các nạn nhân chết tươi với làn da bị hun hồng như ruột. Sau đó, chút trật tự nào từng có trước đó cũng bị phá vỡ. Khi những vòng hơi nước uốn lượn quyện với tuyết thì tôi có căng hết mắt cũng chỉ nhìn tới mỗi đầu nòng súng của mình. Trị an viên, phiến quân, người dân, ai mà biết được? Mọi thứ di chuyển đều là mục tiêu. Mọi người tiện đâu bắn đấy, và tôi cũng không phải ngoại lệ. Tim đập thình thịch, adrenaline rần rật khắp cơ thể, giờ thì ai cũng là kẻ thù của tôi. Trừ Gale. Người bạn săn đồng hành, người luôn yểm trợ tôi. Chỉ còn cách tiến lên trước, giết bất kỳ ai cản lối ta đi. Đâu đâu cũng thấy người la hét, người chảy máu dầm dề, cùng những xác chết. Khi chúng tôi tới khúc ngoặt kế tiếp, cả khu nhà phía trước bùng lên ánh đỏ rừng rực. Chúng tôi vội thu lại, lom khom nấp trong lồng cầu thang, nheo mắt nhìn vào luồng sáng. Chuyện gì đó đang xảy ra với những người bị ánh sáng kia chiếu rọi. Họ bị tấn công bằng… cái gì vậy? Âm thanh? Sóng? Tia laser. Vũ khí tuột khỏi tay họ. Những ngón tay ôm chặt mặt trong khi máu túa ra từ mọi cái lỗ hữu hình – mắt, mũi, miệng, tai. Chưa đầy một phút, mọi người chết hết và luồng sáng biến mất. Tôi nghiến răng chạy, nhảy qua xác người, chân trơn trượt trong máu. Gió cuộn tung tuyết thành những vòng xóay lóa mắt, nhưng không chặn nổi một đợt tiếng bước chân khác sầm sập tiến về phía chúng tôi.
“Nằm xuống!” tôi rú lên với Gale. Chúng tôi đổ rạp xuống ngay tại chỗ. Mặt tôi áp vào một vũng máu người vẫn còn ấm ấm, nhưng tôi giả chết, vẫn nằm bất động khi những đôi ủng lượn qua mình. Vài kẻ tránh va phải xác chết. Những kẻ khác nghiến lên tay tôi, lưng tôi, đá vào đầu tôi lúc đi qua. Khi tiếng ủng xa dần, tôi mở mắt gật đầu với Gale.
Ở khu nhà tiếp theo, chúng tôi đụng độ nhiều người lánh nạn hơn, nhưng chiến binh chỉ có vài mống. Ngay khi chúng tôi nghĩ mình có thể nghỉ chân thì vang lên tiếng lách tách, như tiếng một quả trứng đập vào thành bát nhưng được khuếch đại lên hàng nghìn lần. Chúng tôi dừng lại, ngó quanh xem có cái kén nào không. Chẳng có gì. Rồi tôi cảm thấy mũi ủng tôi khẽ nghiêng nghiêng. “Chạy!” tôi hét lên với Gale. Không có thời gian giải thích, nhưng chỉ trong vài giây, ai nấy đều rõ bản chất của cái kén. Dọc theo khoảng giữa khu nhà toang hoác một khe nứt. Hai bên đường lát gạch gập xuống như những nếp gấp, chầm chậm nuốt chửng mọi người vào bất cứ thứ gì bên dưới.
Tôi phân vân không biết nên lao thẳng tới giao lộ kế tiếp hay cố tới chỗ những ngôi nhà nằm dọc hai bên đường rồi xông vào một tòa nhà. Rốt cuộc, tôi lại di chuyển theo đường hơi chéo. Khi nếp gấp tiếp tục sụp xuống, tôi thấy chân mình guồng tít, mỗi lúc một mạnh, cố bám chắc trên lớp gạch trơn trượt. Không khác gì chạy dọc theo sườn một con dốc phủ băng mà càng chạy càng thấy dốc. Khi chỉ còn cách cả hai điểm đến vài mét – giao lộ và những tòa nhà – tôi cảm thấy nếp gấp rùng rùng chuyển động. Không thể làm gì khác ngoài tận dụng những giây cuối cùng còn bám vào lớp gạch mà cắm đầu cắm cổ lao tới giao lộ. Khi tay tôi víu vào lề, tôi nhận ra những nếp gấp đã lủng lẳng dốc thẳng xuống dưới. Chân tôi lơ lửng trên không, chẳng còn chỗ bám. Từ khoảng tối phía dưới cách mặt đất chừng mười lăm mét, một mùi hôi thối nồng nặc xộc vào mũi tôi, như mùi xác chết rữa nát trong cái nóng mùa hè. Những hình thù đen ngòm lổm ngổm bò quanh trong bóng tối, khiến bất cứ ai sống sót sau cú rơi cũng phải câm họng.
Một tiếng thét nghèn nghẹn thoát ra từ cổ họng tôi. Không có ai tới giúp tôi cả. Tôi sắp tuột tay khỏi đường gờ phủ băng thì nhận ra chỉ còn khoảng hai mươi mét là đến lối rẽ thoát khỏi cái kén. Tôi nhích tay dọc theo gờ, cố không để lọt tai thứ âm thanh khiếp hãi từ dưới vọng lên. Khi tay tôi choãi ra bấu được vào góc rẽ, tôi vắt chân phải lên lề. Tôi vướng chân phải thứ gì đó bèn thận trọng lê mình lên mặt đường. Hổn hển, run rẩy, tôi lồm cồm bò khỏi nơi đó, ôm chặt cột đèn làm chỗ bấu víu, dù đất ở đây phẳng lì.
“Gale?” tôi gọi vọng xuống khe nứt, không buồn bận tâm đến chuyện có bị phát hiện hay không. “Gale à?”
“Đằng này!” Tôi bối rối nhìn sang bên trái. Nếp gấp đã nuốt chửng mọi thứ tới sát chân các tòa nhà. Có khoảng một tá người chạy được tới đây và giờ thì lủng lẳng bám lấy bất kỳ thứ gì có tay cầm. Nắm đấm cửa, vòng gõ cửa, khe nhét thư. Cách chỗ tôi ba nhà, Gale đang vắt vẻo bám vào tâm lưới sắt trang trí bao quanh cửa một căn hộ. Anh có thể dễ dàng đu mình vào trong nếu cửa mở. Nhưng dù có đá liên tiếp vào cửa, vẫn không có ai ra giúp anh.
“Né đi!” Tôi giơ súng lên bắn ổ khóa cho đến khi cánh cửa bật tung vào trong. Gale đu vào trong ô cửa, ngã thành một đống bùi nhùi trên sàn nhà. Tôi hạnh phúc vô bờ khi thấy anh thoát nạn, nhưng cảm giác ấy chỉ thoáng qua bởi đôi tay đeo găng trắng đã túm chặt lấy tay anh.
Gale chạm mắt tôi, mấp máy gì đó với tôi. Tôi không luận ra nổi. Tôi không biết phải làm gì, tôi không muốn bỏ anh, nhưng cũng chẳng thể tới chỗ anh. Môi anh lại mấp máy. Tôi lắc đầu tỏ ý không hiểu. Bất cứ giây phút nào, chúng cũng sẽ nhận ra mình đã tóm được ai. Đám Trị an viên lôi anh vào trong. “Đi đi!” tôi nghe thấy anh hét lên.
Tôi quay mình chạy khỏi cái kén. Hoàn toàn đơn độc. Gale giờ là tù nhân. Cressida và Pollux không chừng đã chết chục lần rồi. Còn Peeta? Tôi không thấy cậu từ lúc chúng tôi rời khỏi nhà Tigris. Tôi bám lấy ý nghĩ rằng có khi cậu quay lại rồi. Cảm thấy sắp có tấn công bèn quay lại hầm rượu mà ở đó cậu vẫn kiểm soát được. Nhận ra chẳng ai cần đánh lạc hướng làm gì khi Capitol đã tung quá nhiều hỏa mù. Chẳng cần làm mồi nhử để tôi phải nuốt dâu độc. Dâu độc! Gale không viên nào! Còn về chuyện kích nổ mũi tên bằng tay thì anh cũng không đời nào có cơ hội. Việc đầu tiên đám Trị an viên làm là tước vũ khí của anh.
Tôi gục xuống một ô cửa đầm đìa nước mắt. Bắn anh đi. Đó là những gì anh đã mấp máy. Đáng lẽ tôi phải bắn anh! Đó là việc của tôi. Đó là lời hứa ngầm của chúng tôi, tất cả chúng tôi, với nhau. Thế mà tôi đã không thực hiện và giờ thì Capitol sẽ giết anh hoặc tra tấn anh hoặc bắt hồn anh hoặc – lòng tôi bắt đầu rạn nứt, đe dọa làm tôi vụn vỡ thành trăm nghìn mảnh. Tôi chỉ có một hy vọng duy nhất. Rằng Capitol thất thủ, hạ vũ khí và giao nộp tù nhân trước khi chúng làm hại Gale. Nhưng chừng nào Snow còn sống thì tôi không thể chứng kiến chuyện đó xảy ra.
Hai tên Trị an viên chạy qua, gần như không thèm liếc mắt tới một cô gái Capitol thút thít đang co ro nơi ô cửa. Tôi nuốt nước mắt vào trong, lau những giọt lệ còn vương trên mặt trước khi chúng đông lại, cố trấn tĩnh. Được rồi, tôi vẫn là một người lánh nạn vô danh. Hay đám Trị an viên bắt Gale đã thoáng thấy tôi khi tôi bỏ chạy? Tôi cởi áo choàng ra lộn ngược lại, để lộ lớp lót đen thay vì mặt ngoài màu đỏ. Chỉnh lại mũ sao cho nó che bớt được khuôn mặt tôi. Ghì súng sát ngực, tôi quan sát khu nhà. Chỉ có một nhúm người dáng vẻ thất thần chậm chạp lết từng bước. Tôi theo sát hai ông già chẳng để mắt gì đến tôi. Sẽ chẳng ai nghĩ tôi lại đi với người già. Khi chúng tôi đến cuối giao lộ kế tiếp, họ dừng lại khiến tôi suýt nữa đâm sầm vào họ. Đây là Bùng binh Thành phố. Bên kia khoảng đất rộng lớn được bao quanh bởi những tòa nhà đồ sộ là dinh tổng thống.
Bùng binh đông nghẹt những người đi lại nháo nhác, rên rỉ, hay chỉ ngồi mặc cho tuyết rơi ngập quanh mình. Tôi hòa lẫn vào đám đông một cách hoàn hảo. Tôi bắt đầu len lách sang phía dinh thự, vấp phải các món tài sản bị vứt bỏ và những cành cây tuyết phủ. Đi được phân nửa quãng đường, tôi nhận ra có một hàng rào chắn bằng xi măng. Cao khoảng mét hai và kéo dài thành một hình chữ nhật lớn chình ình ngay trước dinh thự. Trông thì tưởng rỗng, nhưng thực ra trong đó chật ních người lánh nạn. Có lẽ đây là nhóm người được chọn đến tạm lánh tại dinh thự chăng? Nhưng khi tiến gần hơn, tôi nhận ra thứ khác. Người trong hàng rào thảy đều là trẻ con. Từ đứa lẫm chẫm đến thiếu niên. Hoảng loạn, sợ hãi và tê cóng tím tái. Túm tụm thành từng nhóm hoặc đu đưa người trên đất lạnh. Chúng không được dẫn vào dinh thự. Chúng bị đám Trị an viên quay lại, canh gác tứ bề. Tôi biết ngay hành động này không nhằm bảo vệ chúng. Nếu Capitol muốn làm vậy thì đã để cho chúng xuống boongke ở đâu đó rồi. Việc này là để bảo vệ Snow. Lũ trẻ chỉ là tấm khiên người của ông ta.
Có tiếng náo động, đám đông liền dồn về bên trái. Tôi bị mắc kẹt giữa những cơ thể to lớn hơn, bị xô đẩy hết bên này sang bên kia, lôi đi xiêu vẹo. Tôi nghe thấy tiếng hét “Phiến quân! Phiến quân!” và biết rằng họ đã đột phá thành công. Lực đẩy xô tôi vào một cột cờ, tôi ôm chặt nó. Bám lấy sợi thừng trên đỉnh rủ xuống, tôi đu mình lên khỏi đám đông chen lấn. Phải, tôi có thể thấy quân đội nổi dậy đang tràn vào Bùng binh, dồn người lánh nạn về phía các đại lộ. Tôi nhìn lướt một vòng xem có cái kén nào chắc chắn được kích nổ hay không. Nhưng chuyện đó không xảy ra. Mà tình hình diễn biến như sau:
Một chiếc tàu bay mang dấu triện Capitol xuất hiện ngay trên đầu lũ trẻ bị quây rào. Hàng đống dù bạc trút xuống chúng. Ngay cả trong cảnh hỗn loạn này, lũ trẻ cũng biết những chiếc dù bạc chứa gì. Đồ ăn. Thuốc. Quà. Chúng hăm hở cầm dù lên, những ngón tay băng giá lóng ngóng gỡ dây. Chiếc tàu bay biến mất, năm giây trôi qua, và rồi khoảng hai chục chiếc dù đồng thời phát nổ.
Tiếng hét cất lên khỏi đám đông. Tuyết nhuốm đỏ vương vãi những bộ phận cơ thể nhỏ bé. Nhiều đứa trẻ chết ngay lập tức, nhưng có những đứa nằm đau đớn quằn quại dưới đất. Một số chỉ câm lặng loạng choạng bước quanh, chằm chằm nhìn những chiếc dù bạc trong tay mình, như thể chúng vẫn chứa thứ gì đó giá trị bên trong. Nhìn cách đám Trị an viên lùi phắt khỏi hàng rào nhường đường cho lũ trẻ, tôi biết chúng cũng bất ngờ trước chuyện này. Một toán người vận đồng phục trắng tràn vào khoảng trống. Nhưng họ không phải Trị an viên. Họ là nhân viên cứu thương. Nhân viên cứu thương của phiến quân. Tôi nhận ra bộ đồng phục này ở bất cứ đâu. Toán người len giữa đám trẻ, tay xách theo bộ dụng cụ y tế.
Thoạt tiên tôi thấy bím tóc đuôi sam vàng óng buông dài sau lưng cô gái ấy. Rồi, khi cởi phăng áo khoác ra phủ lên mình một đứa trẻ đang rên rỉ, tôi nhận thấy vạt chiếc áo sơ miệng chưa gài kỹ của em thò ra ngoài như đuôi vịt. Phản ứng của tôi y hệt cái ngày Effie Trinket gọi tên em ở buổi chiêu quân. Ít nhất người tôi cũng nhũn ra, vì tôi thấy mình dưới chân cột cờ, không thể nhận định gì trong vài giây qua. Rồi tôi lách qua đám đông, hệt như tôi từng làm trước kia. Rạc giọng gọi tên em át tiếng om sòm. Khi gần tới đó, gần tới chỗ hàng rào rồi, tôi nghĩ em đã nghe thấy tiếng tôi. Bởi trong giây khắc, em ngước nhìn tôi, môi em mấp máy tên tôi.
Và đó là lúc những chiếc dù còn lại phát nổ.