Phần thưởng cho sự chịu đựng gian khổ chính là những kinh nghiệm bạn thu được.

Aeschylus

 
 
 
 
 
Tác giả: Ken Kesey
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3440 / 178
Cập nhật: 2015-08-07 14:07:06 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 24
au lần đó, McMurphy làm chủ được tình thế khá lâu. Mụ y tá đang chịu đống trong lúc tìm cách lấy lại quyền lốc. Mụ biế́t là vòng một đã bị phơi áo và vòng hai cũng đang bị dẫn điểm, nhưng mụ không vội. Điều cốt yếu nhất là quyết định xuất viện cho hắn thì mụ không có ý định làm; cuộc đọ sức này có thể kéo dài bao nhiêu cũng được, chừng nào hắn chưa phạm sai lầm, chưa đầu hàng, hay mụ chưa tìm ra chiến thuật mới để giành lại ưu thế đã mất.
Trong lúc mụ mày mò với chiến thuật của mình thì nhiều số kiện đã xảy ra. Sau thời gian có thể tạm gọi là lùi vào hậu trường nghỉ ngơi và McMurphy lại bước ra, tuyên bố số quay lại võ đài của mình bằng việc đập vỡ kính, cuộc sống trong khoa sinh động hẳn lên. McMurphy tham gia vào mọi cuộc họp, mọi cuộc tranh luận, kéo dài giọng nói, nháy mắt, đùa cợt thả cửa, cố gây cho được một tiếng cười héo hon ở tụi Cấp tính, kể cả những gã đã khiếp nhược tới độ không dám nhếch mép từ năm mười hai tuổi. Hắn lôi kéo đủ người cho một đội bóng rổ và tìm được cách thuyết phục gã bác sĩ để mình lấy một quả bóng ở cung thể thao cho tụi Cấp tính tập chơi. Mụ y tá phản đối, mụ bảo ngày mai chúng sẽ đá bóng ở ngay trong phòng chung hay chơi polo ngoài hành lang, nhưng lần này bác sĩ không chịu nhường và bảo cứ để họ chơi. "Bà Ratched, từ ngày có đội bóng rổ, nhiều bệnh nhân có tiến triển hơn. Tôi cho rằng môn thể thao này đã chứng tỏ giá trị về mặt trị liệu."
Mụ nhìn gã kinh ngạc hồi lâu. À, gã cũng muốn biểu dương sức mạnh với mụ đây. Mụ sẽ nhớ lấy giọng điệu này và sẽ có ngày gã biết tay mụ. Nhưng lúc này mụ chỉ gật đầu rồi quay về buồng kính với những núm điều khiển của mình. Đám lao công đã đặt một miếng các tông thay vào ô kính vỡ trong lúc chưa cắt được mảnh cửa kính nào vừa cỡ, và ngày nào mụ cũng ngồi đó cứ như nó không hễ làm vướng tâm mắt của mụ, như mụ dễ dàng nhìn xuyên qua nó và vẫn thấy rõ cả phòng chung. Đằng sau tấm các tông hình chữ nhật mụ y tá trông như một bức tranh quay mặt vào tường.
Mụ chờ đợi và im lặng, còn McMurphy sáng sáng vẫn mặc quần đùi với những chú cá voi màu trắng lông nhông ngoài hành lang, tung đồng xu trong phòng ngủ hay ngậm chiế́c còi trọng tài mạ kền dạy cho tụi Cấp tính thốc hiện những đường phản công dài từ của phòng ngủ đầu này đến tận của Buồng Cách ly đầu kia hành lang, những cú sút như những phát đạn đại bác bắn quả bóng đi khắp hành lang trong khi McMurphy với phong cách chỉ huy của một viên hạ sĩ hét vang: "Giữ nguyên cường độ, nào, các vận động viện, giữ nguyên cường độ!"
Cả hai nói năng với nhau nhã nhặn không để đâu cho hết. Hắn rất lịch số hỏi mụ rằng có thể mạn phép mượn chiếc bút của mụ thảo lá đơn xin đi nghỉ không có người kèm được chăng, rồi viết trên bàn ngày trước mặt mụ, rồi trả lại chiếc bút, đưa luôn lá đơn và nói nhẹ nhàng: "Rất cảm ơn", rồi mụ xem qua và cũng nhã nhặn hứa sẽ "bàn với các nhân viên", một việc mất khoảng ba phút, rôi mụ quay về và nói với hắn rằng, rất tiếc nghỉ vào thời gian này không được coi là có giá trị trị liệu. Hắn cảm ơn mụ và đi ra, thổi chiếc còi ré lên tưởng làm nứt cả cửa kính mười dặm quanh đó: "Tập đi, tập đi, các chàng trai ẻo lả, vận động lên!"
Hắn điều trị trong khoa đã một tháng và có quyền ghi tên, đăng ký đi nghỉ có người kèm lên bảng thông báo treo ở hành lang để cuộc họp tiế́p đó sẽ quyết định được đi hay không. Hắn đứng trước bảng thông báo, tay cầm chiếc bút của mụ y tá, tiếp theo dòng NGƯỜI ĐI KÈM, hắn ghi: "Một cô nương ở Portland tên Candy Starr" và làm gãy ngòi bút ở dấu chấm cuối cùng. Sau đó vài hôm, đúng vào ngày người ta thay cho Y tá Trưởng tấm kính mới, vấn đề đi nghỉ của McMurphy mới được đem ra thảo luận, và sau khi bị từ chối bởi lý do với tư cách người đi kèm, chắc gì cô Stan đã có thể gây ảnh hưởng tốt đến bệnh nhân, McMurphy nhún vai nói đời là thế đấy, rồi đứng dậy đi về buồng trốc và lại thụi vỡ tấm kính còn nguyên nhãn ghi tên hãng sản xuất, và trong khi máu còn đang chảy ra từ các ngón tay; hắn giải thích cho mụ là tấm các tông đã bị tháo đi và hắn ngỡ đó là một khung cửa trống. "Chúng kịp lắp tấm kính khốn nạn này vào từ bao giờ thế nhỉ? Đây quả là một trò nguy hiểm."
Mụ y tá ngồi trong hộp kính dùng băng dính băng bó cho McMurphy trong khi Scanlon và Harding moi từ thùng rác ra tấm bìa các tông, lắp lại vào khung bằng chính cuộn băng dính đang dùng dán lên ngón tay và cổ tay McMurphy. McMurphy ngồi trên ghế đẩu, mặt nhăn nhó trong lúc vế́t thương đang được chăm sóc, nhưng qua đầu mụ y tá vẫn nháy mắt đùa nghịch với chúng. Gương mặt mụ điềm tĩnh, cứng đờ như được tráng men, tuy nhiên vẻ căng thẳng vẫn cứ lộ. Cứ nhìn động tác siết chặt miếng băng hết mức có thể thì rõ sức chịu đống, độ lì lợm của mụ không còn nguyên vẹn.
Chúng tôi tập trung ở phòng thể thao để xem trận đấu giao hữu giữa đội bệnh nhân - Harding, Billy Bibbit, Scanlon, Fredrickson, Martini và McMurphy (máu đã cầm, hắn có thể ra sân được) - và đội nhân viên. Hai đứa hộ lý đa đen cao lớn của khoa tôi chơi cho đội nhân viên. Chúng tỏ ra là những cầu thủ xuất sắc nhất trên sân, cả hai đứa lên tham gia tấn công rồi lùi về phòng ngố nhịp nhàng như đôi bóng gắn thân thể đỏ, ghi hết bàn này đến bàn khác chính xác như những cỗ máy. Đội nhà, ngoài McMurphy toàn những đứa nhỏ con, yếu đuối và chậm chạp, còn Martini luôn chuyền bóng cho những người mà ngoài hắn ra chẳng ai thấy cả, để cuối cùng đội nhân viên thắng đậm, dẫn trước hai mươi điểm. Nhưng kết cục, chúng tôi ra khỏi phòng thể thao với tậm trạng của kẻ chiên thắng: trong một pha tranh bóng, hộ lý Washington ăn một cùi chỏ vào giữa mặt, khiến cả đội nhân viên phải ghì chặt để hắn không lao vào McMurphy đang ngồi nguyên trên quả bóng, không thèm để ý đến máu đang chảy thành dòng từ cái mũi to bè của Washington xuống ngốc như những giọt sơn lăn trên tấm bảng đen, hắn vừa giãy giụa trong tay tụi hộ lý vừa la: "Hắn muốn khiêu khích mà, hắn muốn khiêu khích mà, đồ đểu!"
McMurphy lại ngồi thảo thư dán vào bồn đái cho mụ y tá đọc qua gương. Hắn viết những câu chuyện dài dòng nhẩm nhí về chính mình vào sổ trốc rồi ký tên Vô danh. Đôi lúc hắn ngủ đến tận tám giờ. Mụ sẽ nhẹ nhàng cảnh cáo hắn, còn hắn đứng im lắng nghe tỏ vẻ hối lỗi, nhưng khi mụ vừa kết thúc bài phê bình thì lập tức hắn hỏi mụ đeo nịt vú loại nào, cỡ bốn, cỡ năm hay nói chung, không đeo?
Tụi Cấp tính lấy đó làm gương. Harding chọc ghẹo tất cả các nữ y tá thốc tập, còn Billy Bibbit thôi không viết vào sổ trốc cái gọi là "những quan sát" của hắn nữa, và khi tấm kính mới lại được lắp vào trước bàn của mụ y tá, lần này có vôi vạch chéo một hình chữ thập lên đó để McMurphy thôi không giả vờ nhầm lẫn mà đập vỡ nữa thì vệt vôi chưa khô Scanlon đã làm vụn tấm kính bằng một cú đập bóng bay thẳng vào đó. Quả bóng xì hơi, và Martini lượm lên như một chú chim trúng đạn và mang vào phòng kính nơi mụ đang ngồi nhìn những mảnh vụn mới ngổn ngang trên bàn, hắn hỏi mụ xem có thể dùng băng đính hay bằng cách nào đó chữa chạy cho quả bóng sống lại được không? Không nói một lời, mụ giật quả bóng ném vào sọt rác.
Mùa bóng rổ thế là kết thúc, McMurphy quyết định chuyển sang câu cá. Hắn giải thích với gã bác sĩ rằng tụi bạn hắn ở Florence bên bờ vịnh Siuslaw bằng lòng dẫn tám, chín đứa ra biển câu cá. Rồi hắn viết lên bảng thông báo là trong chuyến đi này hắn sẽ được "hai bà cô già dễ thương ở ngoại ô thành phố Oregon" đi kèm. Phiên họp quyết định cho hắn nghỉ vào Chủ nhật tới. Mụ y tá trịnh trọng đánh dấu chuyến đi vào sổ trốc nhưng sau đó lại lôi khỏi giỏ mảnh cắt của một tờ báo buổi sáng, đọc to lên cho tất cả cùng nghe rằng dù năm nay số lượng người đánh cá đọc theo bờ biển Oregon nhiều chưa từng có, cá hồi lại đẻ muộn và biển thời kỳ này thường có sóng dữ. Mụ khuyên chúng tôi nên nghĩ kỹ trước khi quyết định. "Một lời khuyên bổ ích," McMurphy nói. Hắn nhắm mắt, hít một hơi dài qua kẽ răng. "Hay lắm! Chúng ta sẽ được nếm vị mặn chát của muối khi biển động, sẽ thách thức với bão tố, với những con sóng đánh vào mũi tàu. Đó là nơi mà người đàn ông là người đàn ông và con tàu là con tàu. Bà Ratched, bà đã hoàn toàn thuyết phục được tôi. Tối nay tôi sẽ gọi điện thuê tàu ngay. Tôi ghi thêm tên bà nhé."
Thay cho trả lời, mụ đi dán mảnh báo lên tấm bảng thông báo.
Ngày hôm sau, McMurphy bắt đầu lập danh sách những kẻ muốn đi và thu mỗi đứa mười đô la cho việc thuê tàu, còn mụ y tá cẩn thận thu góp những mảnh báo về những vụ đắm tàu và những cơn bão bất ngờ trên vùng biển chúng tôi. McMurphy nhổ toẹt vào những mảnh báo và nói rằng cả hai bà cô hắn gần suốt cuộc đời lênh đênh trên sóng nước, đã qua không biết bao nhiêu cảng, đã từng đi tàu với đủ loại thủy thủ, họ hứa là chuyến ra khơi này sẽ thuận buồm xuôi gió, chẳng phải lo lắng gì. Nhưng mụ y tá biết rõ các con bệnh của mình. Những mảnh báo làm chúng sợ hơn McMurphy nghĩ. Những tưởng cả bọn sẽ tranh nhau đăng ký, nào ngờ hắn phải van lạy dỗ dành từng đứa. Một ngày trước lúc khởi hành vẫn thiếu hai, ba đứa nữa mới đủ tiền thuê tàu.
Tôi không có tiền nhưng cảm giác mình rất muốn nhập hội. Hắn càng nhắc đến những chuyến đi săn cá hồi tôi càng thèm khát. Tôi rất hiểu rằng đó là điều ngốc nghếch: đăng ký, nghĩa là tố khai với tất cả rằng tôi không điếc. Nếu tôi nghe được chuyện về tàu, về chuyến đánh cá nghĩa là mười năm qua tôi cũng nghe được những cuộc đàm thoại của các thầy lang và những điều đó không còn bí mật của riêng chúng nữa. Nếu mụ y tá biết tôi đã nghe tất cả những mưu mô phản trắc chúng tuôn ra trong lúc nghĩ không ai ở gần, mụ sẽ lao vào tôi với chiếc cưa điện trong tay và biến tôi thành câm điếc thật số. Tôi thèm đi quá rồi, nhưng lại cười với chính mình: Muốn không bị điếc thật thì tôi phải giả vờ điếc đến cùng.
Đêm trước chuyến đi, tôi cố nhớ lại là mình đã bị điế́c như thế nào, nhớ lại bao năm nay không ai biết rằng tôi đã nghe hết chuyện của mọi người, và tố hỏi không rõ liệu tôi có khác đi được không. Nhưng tôi vẫn nhớ đinh ninh một điều: tôi đã không tố giả vờ điếc, mà chính người đời ngay từ đầu đã coi tôi là một thằng đần, mất khả năng nghe, nhìn và nói.
Và cũng không phải từ khi tôi vào viện này mới thế: người ta đã quen coi như tôi không biết nghe hoặc nói từ rất lâu trước đó rồi. Trong quân ngũ những kẻ có nhiều vạch trên quân hàm hơn tôi đã coi tôi như thế. Họ nghĩ rằng con người ta cần phải làm như thế đối với một kẻ có bề ngoài giống như tôi. Ngay từ hồi ở trường tiểu học tôi đã nhớ người ta nói rằng họ không nghĩ tôi có nghe ai nói, thành thử họ cũng thôi không nghe tôi nói nữa. Tôi nằm trong chăn và cố nhớ xem đã nhận ra điều này từ khi nào. Chắc từ những ngày chúng tôi còn sống ở làng bên con sông Columbia, đúng rồi, từ những ngày đó. Một mùa hè...... tôi lên mười và đang ngồi trước cửa rắc muối lên cá hồi để phơi, bỗng nhiên có một chiếc ô tô từ đường lớn rẽ vào, băng qua những luống cây đè lên đám ngải cứu, kéo lê đằng sau một đám bụi màu đỏ, đặc như một đoàn rơ mooc.
Tôi theo đõi chiếc xe trườn lên đồi và dừng lại cách sân nhà tôi không xa, trong lúc đám bụi vẫn chồm tới, đâm sầm vào đuôi xe và nổ tung ra tứ phía cho đến khi đọng lại trên những đám ngải cứu, khiến chúng trông như những mảnh sắt vụn màu đỏ bốc khói. Chiếc xe đứng đó, bụi lắng xuống, lấp lánh trong nắng hè. Tôi biết đó không phải là những người du lịch đeo máy ảnh, bởi họ không bao giờ đám đến gần làng. Nếu cần cá, họ mua ngay ngoài đường lớn; họ không dám lại gần làng vì nghĩ chúng tôi sẽ lột da đầu những ai lạc vào địa phận của mình rồi trói vào cọc mà đốt. Họ không biết rằng trong chúng tôi cũng có những người là luật sư, làm việc tận Portland, có nói chắc họ cũng chẳng tin. Tôi có một người cậu đã trở thành luật sư thốc thụ chỉ cốt để chứng minh chúng tôi là ai, bố tôi bảo vậy, còn thốc ra cậu chỉ muốn cầm đinh ba đi săn cá hồi khi thu sang. Bố tôi bảo nếu không coi chừng thì sẽ bị người ta dồn ép vào một trong hai con đường, làm tất cả những gì chúng cần, hoặc trở nên ngang bướng như con lừa và làm tất cả những gì chúng cho là gai mắt.
Mấy canh của xe nhất loạt mở bung, ba người chui ra, hai cửa trên, một của dưới. Họ men theo sườn dốc dẫn đến làng tôi, và tôi thấy hai người đi đầu mặc com lê màu xanh nhạt, còn người thứ ba bước ra từ của sau là một bà già tóc bạc, bộ quần áo trên người cứng và nặng như một bộ giáp. Chỉ mới đi qua đám ngài cứu và bước vào mảnh sân, họ đã thở hổn hển, mặt nhễ nhại mồ hôi.
Người đàn ông thứ nhất đội chiếc mũ rộng vành, béo tròn, dừng lại ngó nghiêng và lắc đầu trước những dàn phơi ẹo ẹp, những chiêc ô tô cũ kỹ, những chuồng gà, những mô tô và những con chó.
"Trong đời các vị đã thấy cảnh nào tương tố thể này chưa? Chưa, đúng không? Lạy Chúa."
Ông ta cởi mũ, rút chiếc khăn mùi soa lau cái đầu đỏ hỏn như một quả bóng cao su. Ông ta làm việc đó cẩn thận như sợ làm xước mất mảnh khăn hay vò rối mấy dúm tóc ướt đang dính bết vào đầu.
"Các vị có tưởng tượng nổi là con người muốn sống thế này không? John, ông nói xem?" Ông ta hét to vì chưa quen với tiếng ồn của thác nước.
John vểnh bộ ria mép màu xám lên, bịt kín hai lỗ mũi như để không phải ngửi thấy vị tanh của con cá hồi trong tay tôi. Mô hôi chảy ròng ròng trên má và cổ, thân sau của chiếc áo vest ướt đẫm, dính vào lưng. Ông ta viết gì đó vào cuốn sổ tay, quay tại chỗ, ngắm nghía túp lều, bờ dậu, mảnh vườn con trước nhà, những chiế́c xe sơn màu đỏ, những bộ váy tối thứ Bẩy màu đỏ xanh vàng của má phơi trên dây, quay tròn một vòng đến khi ông ta lại đối mặt với tôi, nhìn tôi như thể mới trông thấy lần đầu - mà tôi chỉ cách có hai mét, nào phải xa xôi gì. Cúi về phía tôi, ông ta chớp mắt, lại vểnh bộ ria lên và khịt mũi như đang ngửi thấy mùi tanh của tôi chứ không phải của đống cá.
"Theo ông, bố mẹ nó ở đâu?" John hỏi. "Trong nhà? Hay ngoài thác nước? Đã đến đây, chúng ta có thể bàn chuyện với ông chủ."
"Tôi sẽ không bước vào túp lều này," lão béo trả lời.
"Túp lều này," John nói qua bộ ria, "là nơi ở của viên Thủ lĩnh, Brickenridge ạ, người chúng ta cần tới gặp để tiế́n hành đàm phán, Thủ lĩnh hào hiệp của bộ tộc này"
"Đàm phán ư? Không phải là việc của tôi. Tôi lĩnh lương để đi định giá chứ không phải đi gây tình bằng hữu."
John cười vì câu trả lời đó.
"Đúng rồi, nhưng phải có ai đó thông báo cho họ về những kế hoạch của nhà nước chứ?"
"Nếu họ chưa biết thì sẽ biết nhanh thôi."
"Rất đơn giản mà, vào và tiếp chuyện với ông ta."
"Vào cái hộp rác này ư? Tôi cam đoan trong đó nhung nhúc nhện độc. Thế mà người ta bảo những túp lều này chứa đống cả một nền văn minh thốc thụ trong các bức tường giữa hai lớp đất sét cơ đấy. Lạy Chúa, và nóng. Tôi dám cá đây là cái lò nướng bánh. Ông nhìn kia, thằng bé Hiawatha này đã bị nướng quá lửa. Ha - ha! Thậm chí còn hơi cháy nữa là khác."
Ông ta cười, tay chấm lên đầu nhưng lại nín bặt vì gặp cái nhìn của bà già. Ông ta ho lên, khạc ra một bãi đờm và đi tới ngồi xuống chiếc đu mà ba treo lên cây đỗ tùng cho tôi, khẽ đung đưa, tay phe phẩy chiếc mũ.
Những điều ông ta nói khiến tôi càng nghĩ càng tức giận. Hai gã đàn ông vẫn tiếp tục bình phẩm về căn nhà của chúng tôi, về làng mạc, đất đai và giá cả những thứ đó, và tôi hiểu ra rằng chắc họ nghĩ là tôi không hiểu tiếng Anh, nếu không họ chả huyên thuyên trước mặt tôi như vậy. Cũng có thể họ từ nơi nào đó ở miền Đông, và cho dân da đỏ chỉ là một lũ người man rợ vì họ chỉ biế́t đến chúng tôi qua phim ảnh. Tôi tưởng tượng cả ba sẽ xấu hổ đến mức nào nếu biết rằng tôi hiểu hết những gì họ nói.
Tôi đợi cho họ còn buông thêm một vài nhận xét về cái nóng và cả về căn nhà; sau đó tôi đứng dậy, nói bằng thứ tiếng Anh nhà trường hoàn hảo nhất giải thích cho người béo lùn rằng túp lều bằng đất sét của chúng tôi mát mẻ hơn bất kỳ một căn hộ sang trọng nào ở thành phố. "Tôi biết chính xác rằng nhà tôi mát hơn trường học và mát hơn cả rạp chiếu bóng ở thành phố Dalles, mặc dầu ở đó có những bảng quảng cáo lòe loẹt với những dòng chữ ghép từ những que băng 'Rạp chiếu bóng của chúng tôi luôn mát mẻ'."
Tôi sắp sửa nói với họ rằng nếu họ vào nhà, tôi sẽ chạy đi gọi ba từ thác nước về, thì bỗng nhận ra là họ chẳng hề có vẻ đang nghe tôi nói. Thậm chí họ còn không nhìn tôi. Người đàn ông to béo đung đưa trên chiế́c đu, nhìn xuống theo rìa nham thạch tới chỗ những người đàn ông làng tôi đang đứng trên cầu bắc bên thác nước, chỉ thấp thoáng những bóng áo kẻ trong màn sương. Chốc chốc ai đó vung tay và bước tới như một vận động viên đấu kiếm rồi chìa chiêc đinh ba dài năm mét cho người đứng trên cầu để anh ta gỡ con cá hồi ra. Ông ta nhìn đám người đang đứng dưới cột nước khổng lồ cao mười lăm mét và mỗi lần có người tung đinh ba đâm cá, ông lại chớp mắt và hố lên một tiếng.
John và bà già chỉ đứng không. Hình như chẳng một ai trong ba người nghe thấy tôi. Cả hai cùng nhìn xuyên qua người tôi tựa như tôi không hề tồn tại.
Và mọi vật đều ngưng lại, chế́t lặng đi trong vài giây.
Tôi có một cảm giác lạ lùng, dường như mặt trời chiếu lên ba đứa dữ dội hơn trước. Thế giới xung quanh vẫn y nguyên - đàn gà bới trong đám cỏ khô trên nóc nhà, những con cào cào nhảy lách tách giữa các bụi cậy, đám trẻ con dùng chiếc chổi ngải cứu đang phủi sạch ruồi ở những con cá khô thành những đám mây đen vo ve, vạn vật đều thanh bình trong một ngày hè yên tĩnh. Chỉ có mặt trời, trên đầu họ, chiêu sáng một trăm lần mạnh mẽ hơn thường lệ, và tôi thấy được... cả những mối nối trong người họ. Tôi thấy được cả bộ máy bên trong tiếp nhận lời nói của tôi, cố kiếm chỗ để nhét thông tin nhận được vào đâu đó, nhưng không còn một ô trống làm sẵn nào để chứa những thứ đó, nó bèn loại bỏ tựa như tôi chưa hề nói ra lời nào.
Những vị khách hoàn toàn chế́t cứng, không cựa quậy trong suốt thời gian đó. Thậm chí chiếc đu cũng ngừng lắc vì ghìm vào một tia nắng chiếu xiên, còn lão béo ngồi trên đó bất động như một con búp bê. Một chú gà Phi của ba đang ngủ trên cành đỗ tùng tỉnh dậy thấy người lạ, chú sủa lên như chó phá tan khoảnh khắc bị yểm bùa.
Lão béo rú lên, bật khỏi cái đu, bì bạch đi qua đám cát vơ vội chiếc mũ che nắng và nhìn lên xem con gì trong tán lá đỗ tùng đã kêu lên đến rợn người như vậy. Thấy trên đó chỉ có một chú gà sặc sỡ, lão nhổ xuống đất và đội mũ lên đầu.
"Riêng tôi, tôi thành thốc cho rằng trả bao nhiêu cho cái... thị thành này của họ thì cũng quá nhiều."
"Có thể như vậy. Nhưng tôi vẫn nghĩ trước hết phải đàm phán với Thủ lĩnh đã... "
Bà già cúp ngang lời và bước lên phía trước. "Không," lần đầu tiên bà cất tiêng. "Không," bà lặp lại bằng một giọng tôi thấy hệt như mụ Y tá Trưởng. Bà rướn đôi mày đưa mắt nhìn xóm làng. Trong mắt bà có cái gì đó đang nhảy múa như những con số trên máy tính tiền; bà nhìn những bộ váy áo của mẹ được treo cẩn thận trên dây và gật gù.
"Không. Hôm nay chung ta sẽ không nói chuyện với Thủ lĩnh. Phải đợi thêm một thời gian. Tôi nghĩ... Lần này tôi đồng ý với Brikenridge. Nhưng vì những lý do khác. Các vị còn nhớ không, theo giấy tờ của chúng ta, vợ Thủ lĩnh không phải là người da đỏ mà là người da trắng. Một phụ nữ thành thị. Họ của bà là Bromden. Ông ta lấy họ vợ chứ không phải ngược lại. Đúng, đúng! Thử nghĩ xem nế́u ta đi ngay bây giờ, trở về thành phố và tung tin đồn về kế́ hoạch của chính phủ, để mọi người trong thành phổ thấy nếu thay những túp lều đất sét bên thác nước bằng một nhà máy thủy điện thì sẽ có lợi thế nào, sau đó in lời đề nghị và qua bưu điện gửi cho bà vợ... các vị hiểu không, giả vờ nhầm lẫn? Tôi cho việc làm đó đơn giản hóa bài toán của chúng ta rất nhiều."
Bà đưa mắt về phía chân thác, nơi những người đàn ông của bộ lạc tôi vẫn đang mải mê săn cá hồi trên những chiêc cầu ọp ep, chênh vênh đã mọc hàng trăm năm bên thác nước.
"Chứ còn nếu bây giờ chúng ta gặp ông chồng và đường đột đưa ra một đề nghị thì có trời biêt chúng ta sẽ phải đương đầu với một số bướng bỉnh đến mức nào của lão Navaho ấy, cùng cái tình yêu dành cho - tôi nghĩ ta phải gọi là 'quê nhà'."
Tôi muốn giải thích cho họ hiểu rằng bố tôi không phải là một lão Navaho, nhưng lại nghĩ để làm gì nếu họ chẳng thèm nghe? Họ cũng không cần biế́t bố tôi thuộc bộ tộc nào.
Bà già cười và lần lượt gật đầu với hai người kia, cái nhìn của bà như một hồi chuông đối với họ; bà đi ra xe dáng người cứng nhắc và nói bằng một giọng vui vẻ, trẻ trung.
"Như giáo sư xã hội học đã từng dạy tôi rằng, trong bắt kỳ một tình huống nào cũng tồn tại một nhân vật mà ảnh hưởng của người ấy phải được đánh giá đúng mức."
Ba người ngôi vào và chiếc xe lao đi, còn tôi đứng đấy băn khoăn không biết họ đã nhìn thấy tôi chưa.
Tố tôi cũng thấy ngạc nhiên, không hiểu vì sao những mảnh vụn của ức lại hiện về rõ ràng đến thế. Bao năm qua rồi, tôi cứ nghĩ không thể nhớ nổi một điều gì từ thuở ấu thơ. Hóa ra vẫn còn có thể và tôi cảm thấy bằng lòng vì điều đó. Tôi nằm chong mắt, cố hồi tưởng lại những gì đã qua, và tới lúc chuẩn bị rơi vào một cơn mơ màng, tôi chợt nghe có tiếng tí tách dưới gầm giường như tiếng lũ chuột gặm hạt bồ đào. Tôi xoay người vắt mình qua hai mép giường, thấy màu mạ kền sáng lấp lánh đang gắp lần lượt từng viên cao su mà tôi biết rõ như năm ngón tay mình. Gã hộ lý bé con Geever đã phát hiện ra chỗ tôi giấu chúng và đang gỡ chúng vào một gói giấy với cặp panh dài mãnh ngoác ra như đôi hàm.
Tôi vội thụt vào trong chăn trước khi gã kịp để ý. Tim tôi như nhảy ra khỏi lồng ngốc vì sợ gã nhận ra. Tôi muốn nói với gã đi đi, đừng nhúng vào việc khác của người, không được sờ vào những viên cao su của tôi, nhung tôi phải làm ra bộ không nghe thấy gì. Tôi nằm im để xem gã có bắt quả tang tôi ngó qua giường nhìn trộm gã không, nhưng không thấy dấu hiệu gì - chỉ có tiếng tích tích của chiếc Panh cặp vào những viên cao su và tiế́ng chúng rơi rào rào vào túi làm tôi nhớ đến những hạt mưa đá gõ xuống mái nhà bằng các tông tẩm nhốa. Geever chặc lưỡi và cười:
"Hừm. Trời ơi, hì - hì. Thật lạ, đã bao nhiêu bận thằng cha nhai những viên cao su này? Cứng như đá."
Nghe thấy tiếng lẩm bẩm, McMurphy tỉnh giấc, chống khuỷu tay nhổm dậy nhìn xem gã hộ lý đang quỳ xuống làm gì dưới gầm giường tôi, nhất là vào giờ này. McMurphy theo dõi gã hộ lý, dụi mắt như đứa trẻ vì không hiểu chuyện gì và ngồi hẳn dậy.
"Cứ vặn cổ qua đi nế́u không phải đã nửa đêm kém năm phút rồi mà hắn còn bò lổm ngổm trong bóng tối với chiếc panh và một gói giấy." Geever giật mình quay lại, lia đèn pin vào mặt McMurphy. "Sam, mày đang thu thập cái gì mà lại cần đêm tối che mắt thế́?"
"Ngủ đi, McMurphy việc này chẳng liên quan đến ai cả."
McMurphy lười biếng nhếch mép nhưng không quay mặt đi để tránh luồng ánh sáng. Geever giữ nguyên chiếc đèn trong tay nửa phút, nhìn hàm răng, nhìn cái sẹo đang lên da trên mũi, nhìn con báo hung dữ xăm trên vai McMurphy, sau đó thấy bất tiện gã quay đèn đi, cúi xuống tiế́p tục công việc của mình. Gã thở ì ạch như cạo bã kẹo cao su là một việc hế́t sức nặng nhọc.
"Nhiệm vụ của hộ lý trốc đêm," gã hổn hển giải thích, cố lấy giọng thân thiện, "là giữ vệ sinh trong buông ngủ của bệnh nhân."
"Giữa đêm?"
"McMurphy bản "Bổn phận của hộ lý" của chúng tôi nói rõ rằng phải giữ vệ sinh cả ngày lẫn đêm!"
"Nhưng mày có thể làm cái việc 'cả ngày lẫn đêm' của mình lúc bọn tao chưa lên giường chứ không phải ngồi lì bên tivi đến mười giờ rưỡi. Bà má của tụi bay có biết suốt cả ca trốc tụi bay chỉ ngồi xem tivi không? Mày nghĩ mụ sẽ làm gì nế́u biết điều đó?"
Gã hộ lý ngồi xuống mép giường của tôi, gõ gõ cây đèn pin vào răng và cười khì. Mặt gã sáng hứng lên, và nếu không vì nước da đen thì giống hệt một quả bí ngô được cắm nến trong đêm lễ thánh.
"Để́ tao nói mày nghe về những viên cao su," gã ghé vào McMurphy như một người bạn cũ. "Đã bấy nhiêu năm tao không hiểu nổi là Thủ lĩnh đào đâu ra của ấy - nó không có tiền để mua ở các cửa hiệu, cũng chẳng có ai cho nó, mà nó cũng chẵng hỏi bên Quan hệ Công chúng. Thế là tao phải theo dõi, và chờ đợi. Mày nhìn này," gã quỳ xuông, hất một góc nệm ở giường tôi lên và chiếu đèn pin vào. "Thế nào? Tao thề là nó đã nhai những viên cao su này hàng nghìn lần."
McMurphy tươi tỉnh hẳn. Hắn ngó vào và cười. Gã hộ lý lượm cái gói lên, xóc xóc. Chúng nhìn nhau, cười tiếp. Khi đi ra, gã chúc McMurphy ngủ ngon và gấp mép cái túi như đó là thức ăn sáng của gã và tha đi đâu đó giấu kín, cất dành.
"Thủ lĩnh," McMurphy thầm thì. "Mày nói tao nghe đi," hắn bắt đầu hát một bài hát cũ, một bài hát nhà quê mà đã một thời ai cũng biết. "Nếu dán bã kẹo cao su vào thành giường sắt... "
Thoạt tiên tôi thấy giận, cho rằng hắn cũng nhạo báng tôi như mọi người.
"Liệu kẹo ngày mai còn mềm ngọt hay thôi..., " hắn hát khẽ.
Nhưng càng nghĩ tôi càng buồn cười. Tôi cố nhịn nhưng cảm thấy mình sắp cười phá lên - không phải cười vì bài hát của McMurphy mà cười vì chính mình.
"Tôi kiệt sức rồi không trả lời được nữa. Ai cắt nghĩa rõ ràng điều đó giúp tôi. Liệu kẹo ngày mai còn mềm ngọt thô-ô-ô-ôi..."
Hắn kéo đài tiêng cười như cố tình cù vào nách tôi. Không nhịn được nữa tôi bật cười và hoảng hốt vì cười lên, vì sợ không dừng lại được. Nhưng lúc đó McMurphy bật dậy lục lọi trong tủ con đầu giường, và tôi nín thinh. Tôi cắn chặt răng, không biết mình nên làm gì bây giờ. Lâu lắm rồi, người ta không nghe thấy gì ở tôi ngoài những tiếng rít, tiếng hú. Tôi nghe tiếng McMurphy đập mạnh cánh tủ, nó đội lại như tiếng của nồi hơi. Tôi nghe hắn nói: "Cầm lấy" và vật gì đó rơi xuống giường tôi. Nho nhỏ. Cỡ con thằn lằn hay con rắn...
"Tao chỉ kiếm được cho mày có kẹo cao su hoa quả thôi. Tung đồng xu thắng của thằng Scanlon đó." Rồi hắn chui vào chăn.
Không kịp kiểm soát, tôi cảm ơn hắn.
Thoạt tiên hắn không trả lời. Hắn nằm tì khuỷu tay lên gối nhìn tôi như trước đó đã nhìn Geever và đợi tôi nói tiế́p. Sờ thấy một gói kẹo cao su trên giường, tôi cầm lên và lại nói: "Cám ơn".
Tôi nói không đạt lắm vì họng đã khô đi và lưỡi đã cứng lại. Hắn bảo tôi đã lụi nghề rồi và cười hô hố. Tôi muốn cười cùng hắn nhưng thay bằng tiếng cười, từ cổ họng chỉ phát ra một thứ âm thanh toe toe như chú gà trống non tập gáy. Nó giống với tiếng khóc hơn là tiếng cười.
Hấn khuyên tôi không nên vội vã, nếu muốn luyện, hắn có thời gian đến tận sáu rưỡi. Một người im lặng đã lâu như tôi ắt phải có rất nhiều điều để nói, hắn bảo và nằm hẳn xuống đợi nghe. Tôi băn khoăn mất một lúc không biết nói gì với hắn, những điều tôi muốn nói ra lại là những điều không thể diễn đạt bằng lời, nếu diễn đạt nổi thì cũng không hoàn toàn đúng. Khi hiểu là tôi không nói được gì, hắn chắp tay sau gáy và tố nói:
"Mày biết không, Thủ lĩnh, tao đang nhớ lại hồi còn làm việc ở thung lũng Willamette, thu hoạch đậu trong vùng Engene, tao coi là mình đã gặp vận đỏ. Đó là đầu những năm ba mươi, tụi trẻ con mấy ai được mướn việc. Vậy mà người ta đã nhận tao vì tao đã chứng minh cho lão chủ đồn điền thấy là tao có thể hái nhanh, sạch không thua bất kỳ một người lớn nào. Tao là đứa bé duy nhất trên đồng đậu, xung quanh toàn người lớn. Một vài lần tao thủ bắt chuyện nhưng tao nhận ra không ai thèm nghe cái thằng tóc đỏ dài ngoằng, hỉ mũi không sạch ấy và tao nín lặng. Tao cú chúng đến nỗi tao ngậm miệng như con cá suốt bốn tuần liền trên đồng đậu ấy, cạnh tao chúng cứ chuyện trò khơi khơi về một ông cậu của mình hay một lão hàng xóm nào đó. Thấy đứa nào không ra đồng thì lập tức cả bọn bàn tán về thằng ấy. Bốn tuần liền không mở miệng, mày coi. Cho tới lúc tao đồ rằng chúng đã quên mất là tao biết nói chuyện, đồ gốc cây khô. Tao cố nhịn chờ thời. Thế rồi đến ngày cuối cùng, tao kể ra tất cả, rằng thì là chúng chỉ là một bầy dê đốc như thế nào. Tao kể với từng thằng là lũ bạn bè của hắn đã bôi gio trát trấu vào hắn khi hắn vắng mặt ra sao. Chúng nghe mới ghê chứ! Rồi chúng bắt đầu cắn xé nhau, làm đủ thứ tầm bậy đến mức tao bị cắt hết món tiền thưởng, một xu cho mỗi kí lô vì không bỏ việc ngày nào, bởi tao lúc đó đã có tiếng xấu trong thành phố và lão chủ đồn điền cho rằng vì tao mà tụi làm công sinh ra hục hặc, mặc đầu lão đâu có chứng cớ. Tao cũng chửi lão ra trò. Lần đó tao bị thiệt chừng hai mươi đô la. Cái lưỡi không xương lắm lúc làm hại người ta thế đấy. Nhưng cũng xứng."
Hắn cười khúc khích hồi lâu khi nhớ lại chuyện đó, rồi trở mình nằm nghiêng nhìn sang tôi.
"Thủ lĩnh, tao nghĩ rằng mày cũng sẽ đợi ngày rửa hận chớ?"
"Không," tôi trả lời. "Tao không thể."
"Không nói được cho chúng vài lời ngọt ngào sao? Cái đó dễ hơn mày tưởng."
"Mày khỏe hơn tao... to hơn tao nhiều," tôi làu bàu.
"Nghĩa là sao? Thủ lĩnh à, tao không hiểu."
Tôi cố nuốt một cục nước bọt. "Mày to hơn và khỏe hon tao, mày trả đũa được."
"Tao ư? Giỡn hoài! Mẹ khỉ, mày cao hơn mọi người một cái đầu. Mày có thể đập bể sọ bất cứ đứa nào, tao nói thiệt đó!"
"Không, tao quá nhỏ. Đã một thời tao cũng to lắm, nhưng giờ thì không. Mày to gấp đôi tao."
"Mày điên sao? Lúc đến đây, vật đầu tiên đập vào mắt tao là dáng mày ngồi trong chiếc ghế bành, to lớn vững chãi như quả núi. Mẹ kiếp, tao đã từng sống ở Klamath, Texas, Oklahoma, ngoại ô Gallup, đã từng đi đây, đi đó nhưng thề danh dự là chưa từng thấy một người da đỏ nào to lớn như mày."
"Tao sống ở vốc sông Columbia," tôi nói và hắn đợi. "Ba tao là Thủ lĩnh, người ta gọi ông là Tee Ah Millatoona, nghĩa là Cây Thông Cao Nhất Trên Núi, mặc đầu bộ lạc tao sống ở đồng bằng. Ông to lắm, nhưng chỉ lúc tao còn bé thôi. Và mẹ tao còn to gấp đôi ông."
"Bà già mày to bằng cả con voi? Bà ta bao nhiêu?"
"Ồ to lắm, to lắm."
"Tao hỏi, số đo bao nhiêu cơ?"
"Số đo á? Ở hội chợ có một gã đã ước lượng một mét bẩy lăm, sáu tư kí lô, nhưng đấy là vì gã mới chỉ nhìn thấy bà. Sau này mẹ tao còn to lên."
"Thế ư? To lên bao nhiêu?"
"To hơn cả tao và ba gộp lại."
"Trong một ngày mà bà ta lớn sao? Kỳ quá, tao chưa nghe ai nói về một người đàn bà da đỏ nào như vậy."
"Mẹ tao không phải là người da đỏ. Mẹ tao là người thành thị, sống ở thành phố Dalles."
"Và họ bà ấy là Bromden? À, hiểu rồi, đợi tí," hắn trầm tư một lúc rồi nói, "Khi người phụ nữ thành phố lấy một người đàn ông da đỏ, như thế là không môn đăng hộ đối phải không? Hiểu rồi."
"Không. Không phải chỉ tại bà mà ông trở nên bé nhỏ. Chúng vùi đập, bóp nặn, làm tình làm tội sao cho ông bé đi vì ông quá to, không chịu thuần phục ai và chỉ làm những gì ông muốn. Ông đã bị đối xử như mày đang bị đối xử."
"Thủ lĩnh, thế chúng là ai?" giọng hắn nhỏ đi, chợt trở nên nghiêm nghị.
"Liên hợp. Nó vùi dập ông suốt nhiều năm. Ba tao trước kia to đến mức dám chiế́n đấu với chúng. Chúng muốn kiểm soát nhà của chúng tao. Chúng muốn cướp đi thác nước của chúng tao. Chúng còn có mặt ngay từ trong lòng bộ lạc, và người trong bộ lạc vùi dập ông. Vào thành phố chúng đánh ông trong ngõ hẻm, một lần đã cắt tóc ông. U... u. Liên hợp to lắm, to lắm. Ba tao cầm cố với chúng rất lâu, nhưng mẹ đã làm cho ba bé đi, không thể tiếp tục cuộc chiến đấu của mình được nữa và đầu hàng."
McMurphy im lặng rắt lâu. Sau đó nhổm người, tì lên khuỷu tay, hắn nhìn tôi rồi hỏi tại sao chúng đánh ông trong ngõ hẻm, và tôi giải thích: chúng muốn nói là cái gì sẽ đợi ông nế́u ông vẫn khăng khăng không chịu ký vào những tờ giấy đồng ý trao lại tất cả cho chính phủ.
"Chúng bắt trao cho chính phủ cái gì?"
"Tất cả. Bộ lạc, làng mạc, thác nước..."
"Bây giờ nghe mày nới tao mới nhớ. Đó là thác nước mà ở đó những người da đỏ vẫn dùng đinh ba săn cá hồi, lâu lắm rồi. Phải. Nhưng nế́u tao nhớ không nhầm thì bộ lạc cũng được trả một khoản không nhỏ."
"Chúng nói với ông vậy thôi. Ông hỏi: Các vị sẽ trả bao nhiêu cho cách sống của con người? Ông hỏi: Các vị sẽ trả bao nhiêu để cho người ta là chính mình? Tụi da trắng không hiểu. Người của chúng tao cũng thế. Họ đứng trước cửa, cầm một nắm séc và hỏi ông bây giờ nên làm gì. Họ yêu cầu gửi số tiền vào một ngân hàng nào đó, mua trang trại hoặc chỉ cho họ phải đi đâu với số tiền kia. Nhưng ông đã trở nên nhỏ nhoi. Và say. Liên hợp đã nắm được ông. Nó là kẻ bất khả chiến bại. Và mày rồi cũng thua nó thôi. Chúng không để cho một con người cao lớn nghênh ngang khuấy nước chọc trời như vậy trừ phỉ ông là của chúng. Mày hiểu chứ?"
"Ừ, tao nghĩ là hiể́u."
"Bỏi vậỵ lẽ ra mày đừng đập vỡ của sổ. Bao giờ chúng biết chắc rằng mày cũng to lắm, chúng sẽ đóng yên, lắp hàm thiếc cho mày."
"Như một con ngựa Mustang, hả?"
"Không, nghe đây. Chúng sẽ không làm thế, chúng sẽ cải biến mày bằng những cách vô phương chống đỡ! Chúng đặt thêm các thứ. Chúng lắp thêm máy vào mày. Chỉ cần đánh hơi thấy mày đang to lên, lập tức chúng bắt tay vào việc từ khi mày còn bé, lắp đặt chi tiết, xử lý đến khi nào mày ổn định thì thôi!"
"Đừng nóng, suỵt!"
"Nếu mày nghênh chiến, chúng sẽ nhốt mày lại và bắt mày thôi..."
"Bình tĩnh, bình tĩnh đã Thủ lĩnh, đợi tí. Người ta đã nghe thấy mày rồi đấy." Hắn nằm xuống và im bặt. Tôi nhận thấy giường mình nóng lên. Tôi nghe những tiếng kèn kọt đều đặn của đế giày cao su giẫm xuống hành lang và gã hộ lý bước vào, chiếu đèn pin kiểm tra tiếng động. Chủng tôi cứ nằm im cho đến lúc hắn trở ra.
"Cuối cùng ông đâm ra rượu chè," tôi thì thầm, chưa thể dừng lại được chừng nào chưa nói hế́t. "Lần cuối cùng tao trông thấy ông gục đầu bên gốc bá hương, và mỗi lần tao thấy ông đưa chai lên miệng thì không phải ông bú cổ chai rượu, đúng hơn là rượu đã bú ông, bú ông đến kiệt khô và vàng ệch ra, đến nỗi lũ chó quý của ông không nhận ra chủ nữa, chúng tao buộc phải đưa ông ra khỏi rừng bá hương, lên một chiếc xe hòm, chở về Portland để chết. Tao không nói rằng chúng đã giết ông. Chúng không giết ông. Chúng đã làm điều khác."
Mắt tôi díp lại. Tôi không muốn kể nữa. Tôi thử nhớ xem mình đã nói gì, hình như tôi đã không nói được điều cần phải nói.
"Tao đã nói toàn những điều tầm bậy, đúng không?"
"Đúng thế, Thủ lĩnh ạ," hắn trở mình. "Mày đã nói những điều điên rồ."
"Tao không muốn kể những thứ đó. Tao không thể và không biết kể thể nào. Rặt những điều vô nghĩa."
"Tao không nói là vô nghĩa, Thủ lĩnh ạ, tao nói tất cả những gì mày kể là điên rồ."
Hắn im lặng một hồi lâu khiến tôi cho là hắn đã ngủ. Tôi nghĩ mình đang ra phải chúc ngủ ngon. Tôi nhìn sang thấy hắn nằm nghiêng, lưng quay về phía tôi. Cánh tay đặt bện trên tấm chăn, trong bóng tối vẫn có thể phân biệt được những con át và những con tám xăm trên đó. Cánh tay to dễ sợ, tôi nghĩ, lớn như cánh tay tôi hồi tôi còn là cầu thủ. Tôi muốn vuốt ve cánh tay đó, chạm vào những vết xăm, để xem hắn còn sống không. McMurphy nằm im như một xác chết, tôi tố nhủ, mình phải chạm vào xem hắn còn sống không...
Đấy là nói láo. Tôi biết hắn vẫn sống. Đấy không phải lý do tôi muốn chạm vào hắn.
Tôi muốn cham vào hắn vì hắn là một người đàn ông.
Điều này cũng là nói láo. Quanh tôi đầy rẫy những đàn ông. Tôi có thể chạm vào họ.
Tôi muốn chạm vào hắn vì tôi là một gã đồng tính!
Nhưng cả điều này cũng là nói láo. Đấy là một nỗi sợ hãi ẩn sau một nỗi sợ khác. Nếu tôi là một gã đồng tính tôi sẽ muốn làm những việc khác kia. Tôi muốn chạm vào người hắn chỉ vì hắn là hắn.
Nhưng khi tôi chuẫn bị đưa tay ra thì hắn nói, "Thủ lĩnh," và hắn quay mặt lại tôi dưới một đống chăn. "Thủ lĩnh, hay ngày mai đi câu cả cùng tụi tao?"
Tôi không trả lời.
"Thế nào, đi chứ? Chuyến đi sẽ tốt đẹp khỏi nói. Mày có biết là sẽ có hai bà cô dẫn tụi tao đi không? Họ không là cô cậu gì với tao ráo trọi. Đó là những cô ả vũ nữ gái gọi mà tao đã làm quen được ở Portland. Mày nghĩ sao?"
Cuối cùng phải thú nhận với hắn rằng tôi chỉ là một bệnh nhân Trợ cấp.
"Sao?"
"Tao không có tiền."
"À," hắn nói. "Tao không nghĩ đến chuyện này."
Hắn lại im lặng, đưa ngón tay sờ sờ cái sẹo trên mũi. Ngón tay đừng lại. Hắn nhổm người lên và nhìn tôi.
"Thủ lĩnh," hắn nói chậm, quan sát tôi thật kỹ, "khi mày còn to lớn như cũ, cao hai mét hay hơn, nặng trăm hai, trăm ba ki lô, mày có thể nâng được một vật như, xem nào, bệ điều khiển ở phòng tắm không?"
Tôi so sánh và nghĩ bệ điều khiển khó mà nặng hơn thùng đầu tôi vẫn khuân hồi chiến tranh. Tôi nói với hắn là có thể.
"Nếu mày lại to như xưa liệu có nâng nổi không?"
Tôi nói tôi nghĩ là nổi.
"Tao nhổ vào điều mày nghĩ. Tao hỏi, mày có hứa nâng được nếu tao làm cho mày trở lại to như xưa? Hứa đi, không những tao sẽ dạy không công cho mày một chương trình điền kinh đặc biệt để nâng cao thể lốc mà mà còn được hưởng một chuyến câu cá không mất một xu." Hắn liếm môi và nằm xuống. "Tao cũng có phần mình nữa, khỉ ạ!"
Rồi hắn nằm đó cười một mình vì một ý nghĩ riêng nào đó. Tôi hỏi hắn định làm gì để biến tôi trở lại to lớn như xưa, hắn đặt một ngón tay lên môi.
"Người anh em, tao không thể tiết lộ bí quyết này được. Tao không hứa vói mày sẽ nói luyện thế nào, đúng không? Ổ, bơm một con người trở về kích thước cũ là một bí mật không thể hé ra với tất cả, vì nếu bí mật đó rơi vào tay kẻ thù thì sẽ rất nguy hiểm. Nói chung, mày sẽ không nhận ra quá trình hồi phục cơ thể sẽ diễn ra như thế nào và bằng cách nào. Nhưng tao hứa nếu mày chịu luyện theo chương trình của tao thì mày sẽ có tất cả."
Hắn ngồi hẳn dậy chống hai tay lên đầu gối. Ánh sáng từ buồng y tá hắt vào qua vai hắn. Thứ ánh sáng mờ ảo đó làm răng và đôi mắt hắn đang nhìn xuống tôi ánh lên. Giọng nói của kẻ đã từng làm việc ở các quan vui chơi giải trí tuôn ra êm dịu qua phòng ngủ.
"Hãy tưởng tượng: Thủ lĩnh Bromden lừng lững đi dọc đại lộ, đàn ông, đàn bà, trẻ con nghiêng người trên gót chân mà nhìn ông ta: 'Trời, chàng khổng lồ nào đây, bước chân dài ba mét, phải cúi đầu chui qua dây điện thoại chăng ngang đường? Chàng băng băng đi qua thành phố và chỉ dừng lại vì các thiếu nữ thôi, còn những người đàn bà khỏi đứng xế́p hàng cho mất công, trừ khi cô có bộ ngốc tròn căng như hai quả dưa hấu và cặp đùi trắng nõn, thon thả, khỏe mạnh đủ dài để quấn quanh tấm lưng to lớn, và có cái ấy áp ngọt ngào thơm lựng như sữa và bơ..."
Và hắn nói, nói trong bóng tối, tưởng tượng cánh đàn ông sẽ sợ tôi thế nào, các cô gái xinh đẹp sẽ đau khổ héo mòn vì tôi ra sao. Sau đó hắn hứa sẽ ghi ngay tên cho tôi vào chuyến đi câu sáng mai. Hắn đứng dậy, vớ chiêc khăn trên tủ lau mặt, chụp mũ lên đầu và đến bên giường tôi.
"Tao nói mày nghe, tao nói mày nghe, đàn bà, con gái sẽ ngáng chân và tố kéo mày xuống sàn nhà."
Và bỗng nhiên hắn thò tay giật phắt tấm chăn trên người tôi để tôi nằm trằn truồng trên giường.
"Mày nhìn coi, Thủ lĩnh. Tao đã nói mà! Mày đã cao lên đến một gang tay."
Hắn cười, băng qua dãy giường, bước ra hành lang.
Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu - Ken Kesey Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu