Nguyên tác: Catch 22
Số lần đọc/download: 0 / 21
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:45 +0700
Milo
T
háng Tư là tháng tốt nhất đối với Milo. Cây tử đinh hương nở hoa tím tháng Tư và trên những cây dây leo quả đều đã chín. Nhịp tim nhanh hơn và những khao khát cũ đã thanh tân trở lại. Vào tháng Tư, sắc hoa diên vỹ cũng đổi thay mà ánh lên thắm tươi hơn trên cánh chim câu bóng sáng. Tháng Tư là mùa xuân, và vào mùa xuân trí tưởng tượng của Milo Minderbinder đã nhẹ nhàng hướng về những quả quýt.(57)
“Quả quýt ư?”
“Vâng thưa sếp.”
“Người của tôi thích ăn quýt lắm,” viên đại tá ở Sardinia, chỉ huy của bốn phi đoàn B-26 thú nhận.
“Với số tiền ông có thể lấy từ quỹ nhà ăn để trả thì sẽ có đủ quýt cho bọn họ ăn chán thì thôi,” Milo cam đoan.
“Thế còn dưa vàng?”
“Đang rẻ như cho ở Damascus.”
“Điểm yếu của tôi là những quả dưa vàng. Tôi luôn yếu lòng trước những quả dưa vàng.”
“Cứ cho tôi mượn mỗi phi đoàn một chiếc máy bay, chỉ một chiếc, và sếp sẽ có dưa vàng để ăn đến khi hết tiền trả thì thôi.”
“Ta mua từ xanh đi ca cả à?”
“Và tất cả mọi người đều có phần.”
“Thật là tuyệt, quá tuyệt. Làm sao anh có thể làm được điều đó?”
“Khả năng mua với số lượng lớn sẽ đem lại lợi thế lớn đấy. Ví dụ như với món thịt bê cốt lết bọc bột cà mì.”
“Tôi không mê thịt bê cốt lết lắm,” chỉ huy trưởng B-25 ở Bắc Corsica lầm bầm trong nghi ngại.
“Thịt bê cốt lết bọc bột cà mì rất giàu dinh dưỡng,” Milo lễ độ động viên ông ta. “Trong món đó có cả lòng đỏ trứng và vụn bánh mì. Cả món thịt cừu cũng vậy.”
“A, thịt cừu,” viên chỉ huy trưởng B-25 hưởng ứng. “Thịt cừu ngon chứ?”
“Hàng ngon nhất,” Milo nói, “mà chợ đen chào bán.”
“Thịt cừu non chứ?”
“Và gói trong những tờ giấy hồng như những chiếc quần lót nhỏ nhắn xinh xắn nhất mà ông từng được thấy. Đang rẻ như cho không ở Bồ Đào Nha.”
“Tôi không thể điều máy bay tới Bồ Đào Nha được. Tôi không có quyền.”
“Tôi thì có thể đấy, miễn là ông cho tôi mượn một chiếc. Và một phi công để lái. Đừng quên rằng - ông sẽ có tướng Dreedle.”
“Tướng Dreedle sẽ lại ăn trưa ở nhà ăn của chúng tôi ư?”
“Như một con lợn, khi ông cho ông ấy ăn những quả trứng tươi trắng trẻo tốt nhất của tôi được rán bằng bơ tinh khiết của tôi. Ngoài ra còn có quýt, dưa vàng, dưa bở, cá bơn Dover phi lê, bánh kem lạnh Alaska, trai và sò.”
“Và tất cả mọi người đều có phần chứ?”
“Đó,” Milo nói, “chính là phần hay ho nhất của chuyện này.”
“Tôi không thích vụ này,” một chỉ huy trưởng phi đoàn máy bay chiến đấu khác làu bàu, không chịu hợp tác và cũng không thích Milo một chút nào.
“Có một chỉ huy trưởng phi đoàn máy bay chiến đấu ở phía Bắc cứ bất hợp tác và gây khó dễ cho tôi.” Milo than phiền với tướng Dreedle. “Chỉ cần một người cũng đủ làm hỏng tất cả, và như thế thì ông sẽ không được ăn trứng tươi của tôi rán với bơ tinh khiết của tôi nữa.”
Tướng Dreedle thuyên chuyển vị chỉ huy trưởng phi đoàn máy bay chiến đấu bất hợp tác kia tới quần đảo Solomon để đào mộ và thay ông ta bằng một viên đại tá lão suy viêm bao hoạt dịch mê ăn vải sấy, ông này đã giới thiệu Milo cho một viên tướng B-17 ở lục địa nghiện món xúc xích Ba Lan.
“Xúc xích Ba Lan đang bán ngang giá lạc ở Cracow,” Milo báo cho ông ta biết.
“Xúc xích Ba Lan,” viên tướng thở dài hoài cổ. “Anh biết đấy, tôi có thể đổi bất cứ thứ gì để có được một miếng xúc xích Ba Lan ngon. Gần như bất cứ thứ gì.”
“Ông không cần phải đổi bất cứ thứ gì. Chỉ cần cho tôi mỗi nhà ăn một máy bay và một phi công biết tuân lệnh. Và một lượng tiền ứng trước nho nhỏ cho những đơn đặt hàng đầu tiên để chứng tỏ sự tin tưởng lẫn nhau.”
“Nhưng Cracow nằm sâu trong lãnh thổ địch tới vài trăm dặm. Làm sao anh có thể mua được xúc xích?”
“Có một sàn giao dịch quốc tế cho xúc xích Ba Lan ở Geneva. Tôi sẽ chở lạc vào Thụy Sĩ và đổi lấy xúc xích Ba Lan theo giá chợ trời. Họ sẽ chở lạc về Cracow còn tôi chở xúc xích Ba Lan về cho ông. Qua xanh đi ca ông có thể mua bao nhiêu xúc xích Ba Lan tùy thích. Xanh đi ca có cả quýt nữa, chỉ ướp thêm một ít màu nhân tạo thôi. Và có cả trứng từ Malta, Scotch từ Sicily. Mua từ xanh đi ca thì coi như ông trả tiền cho chính mình thôi, bởi vì ông cũng có phần, do vậy ông sẽ có được mọi thứ ông mua mà không mất gì cả. Như vậy có hợp lý không?”
“Quả là thiên tài. Làm thế nào anh nghĩ ra được cái này?”
“Tên tôi là Milo Minderbinder. Tôi hai mươi bảy tuổi.”
Máy bay của Milo Minderbinder bay đến từ khắp nơi, những chiếc máy bay tiêm kích, máy bay ném bom và máy bay chở hàng lũ lượt hạ cánh xuống sân bay của đại tá Cathcart cùng với những phi công luôn sẵn sàng tuân lệnh. Những chiếc máy bay vốn trang trí đầy những phù hiệu hoa mỹ của các phi đoàn, minh họa cho những lý tưởng đáng khen như Dũng cảm, Sức mạnh, Công bằng, Sự thật, Tự do, Tình yêu, Danh dự và Lòng yêu nước, đã lập tức được các thợ cơ khí của Milo xóa sạch bằng hai lớp sơn trắng phủ lên rồi thay vào đó là một dòng chữ màu tím sặc sỡ CÔNG TY M&M, HOA QUẢ VÀ SẢN VẬT NGON. Cụm từ “M&M” trong “CÔNG TY M&M” là viết tắt của Milo & Minderbinder, ký tự được chèn vào, như Milo tiết lộ, là để bác bỏ đi bất cứ ấn tượng nào rằng xanh đi ca này chỉ do một người điều hành. Máy bay đến theo tiếng gọi của Milo từ những sân bay ở Ý, Bắc Phi và Anh, và từ những trạm chỉ huy không vận ở Liberia, đảo Ascension, Cairo và Karachi. Những chiếc tiêm kích được dùng để đổi lấy thêm tàu chở hàng hoặc được giữ lại để cho những đơn đặt hàng khẩn và những dịch vụ có số lượng nhỏ cần gấp; xe tải và xe tăng được huy động từ các lực lượng trên bộ và được dùng vận chuyển hàng trong khoảng cách ngắn. Tất cả mọi người đều có phần, và người ta trở nên béo ú, đi lại ục ịch với những chiếc tăm ngậm giữa những cặp môi nhẫy mỡ. Milo đích thân giám sát toàn bộ các hoạt động mở rộng này. Những nếp nhăn sâu màu nâu rái cá đầy suy tư đã hằn vĩnh viễn lên khuôn mặt tiều tụy của gã và đem lại cho gã một vẻ khắc khổ vừa điềm đạm vừa hồ nghi. Tất cả mọi người ngoại trừ Yossarian đều nghĩ Milo là dở hơi, đầu tiên là vì gã đã tự nguyện làm sĩ quan chỉ huy nhà bếp và tiếp theo là vì gã làm việc đó quá nghiêm túc. Yossarian cũng nghĩ rằng Milo dở hơi; nhưng y cũng biết rằng Milo là một thiên tài.
Một lần Milo bay tới Anh để lấy một lô hàng kẹo halvah Thổ Nhĩ Kỳ và bay về từ Madagascar dẫn theo bốn chiếc máy bay ném bom của Đức chất đầy khoai lang, cải xoăn, cải mù tạt và đậu đen Grudia. Milo chết lặng khi bước xuống đất và thấy cả một đội quân cảnh có vũ trang đang đợi để tống giam các phi công Đức và sung công máy bay của họ. Sung công! Chỉ từ đó cũng đủ là một lời nguyền rủa đối với gã, Milo giận dữ đi tới đi lui chỉ trích dữ dội, ngón tay khiển trách run lên trỏ vào những gương mặt đầy vẻ tội lỗi của đại tá Cathcart, trung tá Korn và viên đại úy tội nghiệp người còn đầy vết tích chiến trận đang cầm súng máy chỉ huy đội quân cảnh.
“Đây là nước Nga đấy phỏng?” Milo gân cổ cuồng nộ tấn công. “Sung công?” gã rít lên, như thể không tin nổi vào chính tai mình. “Kể từ khi nào mà chính phủ Mỹ lại có chính sách sung công tài sản riêng của các công dân của nó vậy? Nhục thay cho các vị! Một ý nghĩ kinh tởm như thế mà các vị cũng nghĩ ra được thì thật là nhục thay cho tất cả các vị.”
“Nhưng Milo,” thiếu tá Danby rụt rè ngắt lời, “chúng ta đang có chiến tranh với Đức, và đây là những chiếc máy bay Đức.”
“Làm gì có chuyện đó!” Milo phản kích dữ dội. “Những chiếc máy bay này thuộc về xanh đi ca và tất cả mọi người đều có phần. Sung công? Làm sao các vị có thể sung công chính tài sản tư của mình? Sung công, thiệt tình! Tôi chưa từng nghe được một thứ gì suy đồi đến vậy trong suốt cuộc đời mình.”
Và hiển nhiên là Milo đã đúng, bởi vì khi họ nhìn kỹ thì những thợ cơ khí của gã đã đè lên biểu tượng chữ thập ngoặc của Đức ở trên cánh, đuôi và thân máy bay bằng hai lớp sơn trắng và thay vào đó là dòng chữ CÔNG TY M&M, HOA QUẢ VÀ SẢN VẬT NGON. Ngay trước mắt họ, gã đã biến xanh đi ca của gã thành một các ten quốc tế.
Đội tàu bay buôn phong phú của Milo giờ đã bay kín trời. Những chiếc máy bay đổ về từ Na Uy, Đan Mạch, Pháp, Đức, Áo, Ý, Nam Tư, Rumani, Bungari, Thụy Điển, Phần Lan, Ba Lan - thực ra là từ khắp mọi nơi ở châu Âu, ngoại trừ Nga, Milo từ chối làm ăn với Nga. Khi tất cả mọi người đều đã tham gia Công ty M&M, Hoa Quả và Sản Vật Ngon, thì Milo đã tạo ra một công ty con, M&M Bánh Xịn, và nhận được nhiều máy bay và nhiều tiền hơn từ các quỹ nhà ăn cho bánh nướng và bánh xốp từ quần đảo Anh, những mận khô và pho mát Đan Mạch từ Copenhagen, bánh su dài, bánh su tròn, bánh Napoleon, và bánh petit four đến từ Paris, Reims và Grenoble, bánh Kugelhopf, bánh mì đen, và bánh quy nướng Pfeferkuchen từ Berlin, bánh Linzer và Dobos Torten từ Vienna, Strudel từ Hungary và baklava từ Ankara. Mỗi sáng Milo điều máy bay đi khắp châu Âu và Bắc Phi kéo theo dải vải đỏ quảng cáo cho đặc sản trong ngày với những chữ cái in thật lớn: “MÔNG ĐÙI BÒ, 79 xu… CÁ MỐI, 21 xu.” Gã còn tăng thu nhập tiền mặt cho xanh đi ca bằng cách cho các công ty Pet Milk, Gaines Dog Food và Noxzema thuê những dải vải quảng cáo đó. Để thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với xã hội, gã cũng thường xuyên phân phối một lượng nhất định không gian quảng cáo trên không đó cho tướng Peckem để tuyên truyền đến công chúng một số thông điệp như GỌN GÀNG LÀ TỐT, DỤC TỐC BẤT ĐẠT, và NHỮNG GIA ĐÌNH CẦU NGUYỆN CÙNG NHAU THÌ SẼ SỐNG BÊN NHAU. Milo cũng bỏ tiền đăng một số tiết mục quảng cáo hằng ngày trên các đài phát thanh tuyên truyền Axis Sally và Lord Haw Haw ở Berlin để xúc tiến công việc. Công ty làm ăn phát đạt trên mọi mặt trận.
Hình ảnh những chiếc máy bay của Milo trở nên quen thuộc. Chúng có quyền tự do bay khắp mọi nơi, và một ngày kia Milo còn ký hợp đồng với các quan chức quân đội Mỹ để ném bom một cây cầu trên đường cao tốc do quân Đức kiểm soát ở Orvieto và ký hợp đồng với quan chức quân đội Đức để bảo vệ cây cầu trên đường cao tốc ở Orvieto bằng súng phòng không bắn lên chính máy bay tấn công của gã. Gã tính phí tấn công cây cầu cho Mỹ bao gồm toàn bộ chi phí tổ chức cộng thêm sáu phần trăm còn phí bảo vệ cây cầu mà gã tính cho phía Đức cũng là tổng chi phí cộng sáu phần trăm, cùng một khoản tiền thưởng một nghìn đô cho mỗi chiếc máy bay Mỹ mà gã bắn hạ. Khoản tiền thu được từ những hợp đồng này chính là biểu tượng cho một chiến thắng quan trọng của doanh nghiệp tư nhân, như gã đã chỉ ra, bởi vì quân đội của cả hai nước đều là những tổ chức đã được xã hội hóa. Khi hợp đồng được ký, thì việc sử dụng nguồn lực của xanh đi ca để ném bom và để bảo vệ cây cầu là không cần thiết nữa, bởi vì cả hai chính phủ đều có thừa binh lính và cơ sở vật chất ngay tại đó để thực hiện nhiệm vụ và đều vui lòng đóng góp công sức, và cuối cùng thì Milo thu được lợi nhuận khổng lồ từ cả hai phía của dự án mà không phải làm gì ngoài việc ký tên hai lần.
Những thu xếp như vậy là công bằng cho cả hai bên. Bởi vì Milo có quyền đi lại khắp mọi nơi, nên máy bay của gã có thể lẻn tới tấn công bất ngờ mà không hề kinh động những tay súng phòng không Đức; và vì Milo đã biết về cuộc tấn công, gã có thể cảnh báo cho những tay súng phòng không Đức trước một khoảng thời gian đủ để họ có thể nổ súng đúng lúc máy bay lọt vào tầm ngắm. Đó là một vụ thu xếp lý tưởng cho tất cả mọi người trừ người chết ở trong lều của Yossarian, kẻ đã bị giết ngay trên bầu trời mục tiêu vào ngày đầu tiên xuất hiện ở phi đoàn.
“Tôi không giết anh ta!” Milo sốt sắng liến thoắng khi bị Yossarian giận dữ phản đối. “Hôm đó tôi thậm chí còn không có mặt, tôi nói thật đấy. Anh nghĩ là lúc đó tôi ở dưới đất mà nã súng phòng không khi máy bay bay tới đó ấy hả?”
“Nhưng anh đã tổ chức toàn bộ vụ việc này, có đúng không?” Yossarian mắng lại gã trong bóng tối tím thẫm khoác lên con đường dẫn qua đám xe cộ đang bất động trong bãi xe tới rạp chiếu phim ngoài trời.
“Tôi không tổ chức cái gì cả,” Milo phẫn nộ trả lời, hít một hơi thật dài qua cái mũi phì phò nhợt nhạt đang rần rật của mình. “Quân Đức có cây cầu, và chúng ta sẽ ném bom cây cầu đó, mặc cho có tôi hay không. Tôi chỉ thấy có một cơ hội tuyệt vời để kiếm lời từ nhiệm vụ ném bom cây cầu này và tôi đã chộp lấy nó. Như vậy thì có gì mà kinh khủng?”
“Như vậy thì có gì mà kinh khủng? Milo ạ, trong lều của tôi có một người đã bị giết khi phải thực hiện nhiệm vụ này, trước cả khi anh ta kịp mở hành lý.”
“Nhưng tôi không giết anh ta.”
“Anh đã kiếm thêm một nghìn đô nhờ điều đó.”
“Nhưng tôi không giết anh ta. Để tôi nói lại này, tôi không có mặt ở đó. Tôi ở Barcelona mua dầu ô liu và thịt cá mòi lột da rút xương, tôi vẫn còn đơn đặt hàng để chứng minh đây. Và cũng không phải là tôi đã kiếm được một nghìn đô. Một nghìn đô đó là của xanh đi ca, và tất cả mọi người đều có phần, kể cả anh mà.” Milo nài nỉ Yossarian từ đáy lòng mình. “Nhìn này, tôi đâu có gây nên cuộc chiến này, Yossarian, mặc cho gã Wintergreen khốn kiếp đó nói gì. Tôi chỉ cố đặt nó trên cơ sở kinh doanh. Như vậy thì có gì sai? Anh biết đấy, một nghìn đô không phải là giá quá tệ cho một máy bay ném bom loại trung và một đội bay. Nếu tôi có thể thuyết phục quân Đức trả một nghìn đô cho mỗi chiếc máy bay mà họ bắn rơi thì tại sao tôi lại không thể nhận lấy?”
“Bởi vì anh đang làm ăn với kẻ thù, đó là lý do đấy. Anh không hiểu là chúng ta đang có chiến tranh à? Mọi người đang chết. Hãy nhìn quanh anh xem, Chúa ơi!”
Milo lắc đầu với sự kiên nhẫn đang dần cạn kiệt. “Người Đức không phải là kẻ thù của chúng ta,” gã tuyên bố. “Ồ tôi biết anh sẽ nói gì. Ừ thì đúng là chúng ta đang có chiến tranh với họ. Nhưng người Đức cũng là những thành viên tốt của xanh đi ca, và nhiệm vụ của tôi là bảo vệ quyền của họ với tư cách các cổ đông của tôi. Có thể đúng là họ đã khai chiến, có thể họ đang giết hàng triệu người, nhưng họ đã thanh toán hóa đơn của mình nhanh hơn rất nhiều một số Đồng minh của chúng ta mà tôi có thể gọi tên ra ở đây. Anh không hiểu là tôi phải tôn trọng sự thiêng liêng trong hợp đồng của mình với Đức à? Anh không thể nhìn vụ việc dưới góc nhìn của tôi được sao?”
“Không,” Yossarian cộc cằn cự tuyệt.
Milo cảm thấy nhói đau và chẳng buồn che giấu cảm giác tổn thương ấy. Đó là một đêm trăng nồng nực tràn ngập ruồi, muỗi và nhậy. Milo bất chợt nhấc cánh tay lên chỉ về phía rạp chiếu phim ngoài trời, nơi dòng tia sáng trắng đục đầy bụi túa ra theo chiều ngang từ chiếc máy chiếu chém một vệt hình nón vào đêm đen và khán giả ngồi đó, phủ trong một màng ánh sáng huỳnh quang, ngả ngốn trên ghế, đờ đẫn lún sâu, khuôn mặt họ hướng lên tập trung về phía màn chiếu nhôm. Mắt Milo long lên đầy vẻ kiên định, gương mặt chất phác và thanh liêm sáng bóng lên trong hỗn hợp mồ hôi và thuốc chống côn trùng.
“Hãy nhìn họ kia kìa,” gã thốt lên, giọng nghẹn ngào cảm xúc. “Họ là những người bạn của tôi, những người đồng hương của tôi, những đồng đội của tôi. Người ta không thể có một nhóm bạn nào tốt hơn như vậy đâu. Anh nghĩ là tôi có thể làm điều gì đó để hại họ nếu như không ở tình thế bắt buộc ư? Chẳng lẽ tôi vẫn còn chưa có đủ chuyện phải lo nghĩ sao? Anh không thấy là hiện tôi đã đủ phiền não thế nào vì tất cả đống bông đang chất chồng trên các bến tàu Ai Cập rồi à?” Giọng Milo òa vỡ, gã túm lấy ngực áo Yossarian như thể đang chết đuối. Mắt gã rần rật thấy rõ như hai con sâu bướm nâu. “Yossarian, tôi sẽ phải làm gì với một đống bông như vậy? Tất cả đều là lỗi của anh, anh đã để cho tôi mua chúng.”
Bông đang chất đống trên các bến tàu Ai Cập, và không ai muốn mua mảy may. Milo không thể ngờ rằng thung lũng sông Nile lại màu mỡ đến mức đó mà cũng chẳng thể ngờ rằng không có thị trường nào cho đống bông mà gã đã mua. Các nhà ăn trong xanh đi ca của gã không giúp được gì; họ nổi dậy không khoan nhượng chống lại đề nghị chia theo đầu người hòng buộc mỗi người phải giữ một phần bông Ai Cập. Ngay cả những người bạn Đức đáng tin cậy của gã cũng phản bội gã trong cuộc khủng hoảng này: họ thích đồ nhân tạo hơn. Các nhà ăn của Milo thậm chí còn không giúp gã trữ đống bông, và thế là chi phí thuê nhà kho đã tăng vọt và góp phần khiến gã cạn kiệt nguồn dự trữ tiền mặt. Lợi nhuận từ nhiệm vụ Orvieto bị hút sạch. Gã bắt đầu phải viết thư về nhà xin lại số tiền gã đã gửi về từ thuở làm ăn phát đạt; nhưng rồi khoản đó cũng sớm hết. Các kiện bông thì cứ lũ lượt đến các bến cảng ở Alexandria mỗi ngày. Mỗi lần gã chịu lỗ mà cố tống được đi một ít ra thị trường thế giới thì số bông đó lại bị bọn lái buôn Ai Cập khôn lỏi chộp lấy ở Levant rồi bán lại cho gã với giá gốc, vậy nên gã rơi vào tình trạng còn tồi tệ hơn trước nhiều.
Công ty M&M ở trên bờ vực phá sản. Milo tự nguyền rủa bản thân từng giờ vì tính tham lam và sự ngu dốt vô bờ bến của chính gã khi đã mua toàn bộ vụ mùa bông Ai Cập, nhưng hợp đồng là hợp đồng và phải tôn trọng nó, và một đêm, sau một bữa tối xa xỉ, tất cả máy bay chiến đấu và máy bay ném bom của Milo cất cánh, xếp thành đội hình ngay ở khoảng không ngay bên trên liên đoàn và bắt đầu thả bom. Gã đã ký thêm một hợp đồng với người Đức, lần này là để ném bom đơn vị của chính mình. Các máy bay của Milo được điều phối rất chuẩn, chia nhau ra để tấn công và ném bom các kho nhiên liệu, kho quân nhu, khu nhà sửa chữa máy bay, và các máy bay ném bom B-25 đang nằm nghỉ trên khu vực đỗ hình kẹo que ở trên phi trường. Đội bay của gã chỉ chừa ra phần đường băng và các nhà ăn để họ có thể hạ cánh an toàn khi hoàn thành nhiệm vụ và có được bữa ăn nóng trước khi đi nghỉ. Họ ném bom mà vẫn bật cả đèn hạ cánh bởi vì không có ai bắn lại. Họ ném bom cả bốn phi đoàn, câu lạc bộ sĩ quan và tòa nhà trụ sở liên đoàn bay. Mọi người nhảy bổ ra khỏi lều của mình trong sợ hãi tột cùng mà không biết phải trốn đi đâu. Chẳng mấy chốc khắp nơi đã la liệt người bị thương nằm kêu khóc. Một chùm bom bi nổ trong sân câu lạc bộ sĩ quan, để lại những hố lởm chởm bên hông tòa nhà gỗ, trên bụng và lưng của một hàng các trung úy và đại úy đang đứng ở quầy bar. Họ đau đớn gập người rồi gục xuống. Những sĩ quan còn lại hoảng loạn bỏ chạy về phía hai cửa thoát hiểm và kẹt cứng không thể đi tiếp trên hai ngưỡng cửa như một đập chắn làm bằng thịt người.
Đại tá Cathcart cào cấu và lết đi trên hai cùi chỏ vật lộn tìm cách thoát ra khỏi đám đông bất kham và rối loạn cho tới khi ra được tới bên ngoài mà đứng lên. Gã trân trối nhìn lên bầu trời trong đờ đẫn kinh ngạc và kinh hoàng. Những chiếc máy bay của Milo, bình thản kéo đến mỗi lúc một đông như những khí cầu bên trên những ngọn cây đang nở hoa, với cửa khoang bom mở toang, cánh cụp, đèn hạ cánh lồi ra như mắt quái vật kỳ quái bật lên chói lóa, nhấp nháy dữ dội - đó là khung cảnh giống ngày tận thế nhất mà gã đã từng được chứng kiến. Đại tá Cathcart thở hắt ra một hơi hổn hển và sợ hãi, rồi cắm đầu phi thân về chiếc xe Jeep, gần như vừa chạy vừa nức nở. Gã tìm được chân ga, nổ máy và tăng tốc phóng về phi trường hết cái sức còm của chiếc xe đang rung lên bần bật, hai bàn tay to bự mà nhũn nhẽo siết chặt vô lăng đến trắng nhợt hoặc bấm còi ầm ĩ. Có lúc gã suýt thì giết chết bản thân khi ngoặt tay lái với tiếng lốp rít lên kinh hoàng như tiếng nữ thần báo tử để tránh cày phải một đám người mặc quần áo lót đang điên cuồng chạy về phía đồi, những khuôn mặt kinh hãi cúi gằm xuống đất, những cánh tay khẳng khiu áp lên thái dương như những tấm giáp yếu ớt đáng thương. Lửa đỏ, cam, vàng cháy lên ở cả hai bên đường. Lều và cây đều đang bốc cháy, còn máy bay của Milo cứ liên tục bay tới không dứt với đèn hạ cánh trắng lóa nhấp nháy và cửa khoang bom mở toang. Chiếc xe Jeep suýt thì lật ngược vì đại tá Cathcart đạp phanh lúc tới đài kiểm soát không lưu. Gã nhảy ra khỏi xe khi nó vẫn đang trượt đi đầy nguy hiểm và sầm sập chạy lên các bậc thang bên trong tháp, ở đó đang có ba người bận rộn với các thiết bị và bàn điều khiển. Gã xô thẳng hai người sang một bên để giật lấy chiếc mic mạ kền, mắt gã long lên hoang dại và gương mặt gân guốc như méo đi vì stress. Gã man dại túm chặt chiếc mic và bắt đầu cuồng loạn hét lên hết cỡ.
“Milo, đồ khốn! Anh điên à? Anh đang làm trò quái gì vậy? Xuống ngay! Xuống ngay!”
“Làm ơn đừng có rống lên như vậy, có được không?” Milo đáp, đứng ngay đó cạnh đại tá trong đài kiểm soát không lưu và có một chiếc mic của riêng mình. “Tôi ở ngay đây.” Milo nhìn tay đại tá đầy vẻ khiển trách và quay lại với công việc của mình. “Tốt lắm, các bạn, tốt lắm,” gã véo von vào mic. “Nhưng tôi thấy có một kho quân nhu vẫn chưa cháy. Như vậy không được đâu, Purvis - tôi đã nói với anh về kiểu làm việc kém hiệu quả này rồi mà. Nào, anh hãy quay lại đó ngay lập tức và thử lại. Lần này thì tiếp cận chậm… thật chậm thôi đấy. Dục tốc bất đạt, Purvis. Dục tốc bất đạt. Nếu tôi từng nói với anh câu đó thì có nghĩa là tôi đã nói cả trăm lần rồi. Dục tốc bất đạt.”
Loa ở trên đầu đột nhiên kêu quang quác. “Milo, Alvin Brown đây. Tôi thả xong bom rồi. Giờ thì tôi phải làm gì?”
“Oanh tạc,” Milo nói.
“Oanh tạc ư?” Alvin Brown bị sốc.
“Chúng ta không có lựa chọn khác,” Milo thông báo với vẻ cực chẳng đã. “Điều đó nằm trong hợp đồng.”
“Ồ, vậy thì OK thôi,” Alvin Brown đồng ý. “Trong trường hợp đó thì tôi sẽ oanh tạc.”
Lần này thì Milo đã đi quá xa. Tự ném bom quân mình và máy bay của mình là một điều mà ngay cả những người bàng quang nhất cũng không thể chịu nổi, và có vẻ như với Milo thế là đã hết. Các quan chức cấp cao của chính phủ đổ về để điều tra. Báo chí đả phá Milo kịch liệt bằng những dòng tít giận dữ, các vị dân biểu lên án sự tàn bạo bằng những bài phát biểu sang sảng đầy phẫn nộ và ầm ĩ đòi trừng phạt. Các bà mẹ có con đi lính tập hợp lại thành các nhóm vũ trang và đòi trả thù. Không có ai cất tiếng bảo vệ gã. Những người tử tế ở mọi nơi đều cảm thấy như bị lăng nhục, và Milo tưởng như đã hoàn toàn suy sụp cho đến khi gã giở sổ sách công bố với công chúng khoản lợi nhuận khổng lồ mà gã đã kiếm được. Gã có thể bồi hoàn cho chính phủ tất cả những người và những tài sản vật chất mà gã đã hủy diệt mà vẫn còn đủ tiền để tiếp tục mua bông Ai Cập. Tất nhiên là tất cả mọi người đều có phần. Và điều hấp dẫn nhất trong toàn bộ thương vụ này là thực ra không hề cần phải bồi hoàn cho chính phủ.
“Trong nền dân chủ thì chính phủ là nhân dân,” Milo giải thích. “Chúng ta chính là nhân dân đây, có phải không? Vậy nên chúng ta có thể giữ lại tiền và bỏ qua kẻ trung gian đi. Thực lòng mà nói, tôi chỉ muốn thấy chính phủ rút ra khỏi chiến tranh và để lại toàn bộ lĩnh vực này cho khu vực tư nhân. Nếu trả hết những gì ta nợ cho chính phủ thì ta sẽ chỉ khuyến khích sự kiểm soát của chính phủ và cản trở các cá nhân khác tự ném bom vào máy bay và quân mình. Chúng ta sẽ lấy mất động lực của họ.”
Milo đã đúng, tất nhiên rồi, bởi chẳng mấy chốc mọi người đều nhất trí với gã ngoại trừ một vài kẻ lập dị cay nghiệt như bác sĩ Daneeka, ông này nhấm nhẳng hờn dỗi và cằn nhằn những câu bóng gió công kích về đạo lý của toàn bộ vụ việc này cho đến khi Milo xoa dịu bằng một món quà tài trợ, dưới danh nghĩa của xanh đi ca, là một chiếc ghế vườn bằng nhôm nhẹ bẫng có thể gấp lại được để bác sĩ Daneeka có thể dễ dàng mang ra ngoài mỗi khi thượng sĩ White Halfoat vào trong lều và mang vào trong mỗi khi thượng sĩ White Halfoat ra ngoài lều. Bác sĩ Daneeka đã mất trí trong suốt trận ném bom vừa rồi của Milo; thay vì chạy đi tìm chỗ trú ẩn thì ông lại cứ ở ngoài trời mà thực hiện nhiệm vụ của mình, trườn sát mặt đất qua làn bom bi, bom oanh tạc, bom xăng như một con thằn lằn xảo trá, lén lút tới hết ca thương vong này đến ca thương vong khác, phân phát ga rô, morphinne, thanh nẹp, bột sulfar với vẻ mặt tối tăm sầu thảm, không nói thừa một lời, và coi mỗi vết thương xanh xám là một điềm gở về sự hủy hoại của chính ông. Ông làm việc liên tục đến kiệt sức khi đêm dài ấy còn chưa kết thúc và bị sổ mũi vào sáng hôm sau, một chứng bệnh đã khiến cho ông cáu kỉnh chạy vội vào lều quân y để Gus và Wes đo nhiệt độ và nhận một gói cao mù tạt cùng một bình xịt mũi.
Đêm đó bác sĩ Daneeka chăm sóc từng người bị thương đang nằm rên rỉ vẫn với tâm trạng đau buồn ủ rũ, sâu thẳm và hướng nội mà ông đã thể hiện trên phi trường cái ngày diễn ra trận Avignon khi Yossarian trần truồng bước xuống từ máy bay, trong trạng thái sốc cực độ, vấy máu Snowden trên khắp gót chân, ngón chân, đầu gối, cánh tay, ngón tay trần, đoạn chỉ vào trong mà không nói một lời về phía tay súng trẻ đang nằm chết cóng trên sàn bên cạnh một tay súng khác trẻ hơn cứ ngất xỉu mỗi lần tỉnh dậy mở mắt ra và lại nhìn thấy Snowden đang chết.
Bác sĩ Daneeka lấy chăn khoác lên vai Yossarian, gần như dịu dàng, sau khi Snowden được đưa ra khỏi máy bay và chuyển vào xe cấp cứu trên một chiếc cáng. Ông dẫn Yossarian lên chiếc xe Jeep của mình. McWatt cũng giúp một tay, và ba người bọn họ im lặng lái xe về lều quân y của phi đoàn, tại đó McWatt và bác sĩ Daneeka đưa Yossarian ngồi xuống một chiếc ghế và rửa sạch dấu vết Snowden trên người y bằng những cục bông ướt và lạnh. Bác sĩ Daneeka cho y một viên thuốc và một mũi tiêm khiến y ngủ liền một giấc mười hai tiếng. Khi Yossarian tỉnh dậy và đến gặp, bác sĩ Daneeka lại đưa y một viên thuốc nữa và một mũi tiêm nữa để y lại ngủ thêm mười hai tiếng nữa. Khi Yossarian tỉnh dậy và đến gặp thêm một lần nữa, bác sĩ Daneeka cũng đã chuẩn bị sẵn cho y thêm một viên thuốc và một liều thuốc tiêm.
“Ông định cho tôi uống thuốc và tiêm cho tôi đến bao giờ?” Yossarian hỏi.
“Cho đến khi anh cảm thấy khỏe hơn.”
“Giờ thì tôi thấy khỏe rồi.”
Vầng trán rám nắng mỏng manh của bác sĩ Daneeka nhăn lại đầy ngạc nhiên. “Vậy thì tại sao anh không mặc quần áo vào? Sao anh đi khắp nơi trần truồng như vậy?”
“Tôi không muốn mặc quân phục nữa.”
Bác sĩ Daneeka chấp nhận lời giải thích và cất ống tiêm đi. “Anh có chắc là anh đã khỏe hẳn rồi không?”
“Tôi thấy ổn. Tôi chỉ hơi lờ phờ vì đống thuốc uống và thuốc tiêm ông đã cho tôi thôi.”
Yossarian tiếp tục công việc của mình mà không mặc quần áo trong suốt ngày hôm đó và vẫn trần truồng vào cuối buổi sáng hôm sau khi Milo, sau khi truy lùng khắp mọi nơi, cuối cùng đã tìm được y đang ngồi trên một cái cây không xa phía sau một nghĩa trang quân đội nhỏ xíu và kỳ cục nơi chôn Snowden. Milo mặc bộ đồ đi làm quen thuộc của gã - quần xanh ô liu nhạt, áo sơ mi mới xanh ô liu nhạt kèm cà vạt và một phù hiệu trung úy bạc lấp lánh trên cổ áo, mũ kê pi quân đội có lưỡi trai da cứng.
“Tôi cứ tìm anh khắp nơi mãi đấy,” Milo đứng ở dưới gọi với lên đầy vẻ trách móc.
“Lẽ ra anh phải tìm tôi ở cái cây này,” Yossarian trả lời. “Tôi ở trên này suốt buổi sáng.”
“Xuống đây nếm thử cái này đi rồi cho tôi biết xem có ngon không với. Quan trọng lắm đấy.”
Yossarian lắc đầu. Y tồng ngồng ngồi trên cành thấp nhất, hai cánh tay bám chặt lấy cành thẳng trên đầu để giữ thăng bằng. Y không chịu nhúc nhích và Milo chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài nhăn nhó dang tay hết cỡ ra ôm lấy thân cây mà bắt đầu trèo. Gã chật vật vụng về leo lên, rên la và khò khè ầm ĩ, đến khi gã đu được người lên đủ cao để gác một chân lên cành cây nghỉ lấy hơi thì áo quần gã đã nhăn nhúm nhàu nát cả. Chiếc mũ kê pi bị lệch đi và như sắp rơi đến nơi. Milo vội chộp ngay được chiếc mũ vừa kịp lúc nó bắt đầu trượt ra khởi đầu. Những giọt mồ hôi lấp lánh như những viên ngọc trai trong suốt quanh hàng ria của gã và phình ra như những nốt rộp màu đá opal bên dưới mắt. Yossarian hờ hững quan sát gã. Milo thận trọng xoay người lại nửa vòng sao cho gã có thể đối diện với Yossarian. Gã gỡ lớp giấy bọc mỏng ra khỏi một thứ mềm, tròn và màu nâu, rồi đưa nó cho Yossarian.
“Làm ơn nếm thử và cho tôi biết ý kiến của anh. Tôi muốn cho mọi người ăn cái này.”
“Cái gì vậy?” Yossarian hỏi và cắn một miếng to.
“Bông bọc sô cô la.”
Yossarian ọe ra dữ dội và nhổ cả miệng đầy bông bọc sô cô la vào mặt Milo. “Đây, trả lại đấy!” y giận dữ phun ra. “Chúa ơi! Anh điên rồi à? Anh thậm chí còn không lấy những cái hạt chết tiệt ra.”
“Cố thử một lần đi, được không?” Milo cầu xin. “Nó không thể tệ như vậy được. Thực sự là nó tệ đến thế cơ à?”
“Thậm chí còn tệ hơn như thế ấy.”
“Nhưng tôi phải ép các nhà ăn cho mọi người ăn món này.”
“Họ sẽ không bao giờ nuốt được nó.”
“Họ phải nuốt trôi nó,” Milo ra lệnh với điệu bộ oai vệ độc đoán, và suýt ngã gãy cổ khi buông một tay ra để trỏ vào không trung một ngón tay chính nghĩa.
“Lại đây ra ngoài này đi,” Yossarian mời gã. “Anh sẽ an toàn hơn nhiều, và anh có thể nhìn được mọi thứ.”
Bám chặt cành cây ở trên đầu bằng cả hai tay, Milo nhích từng chút một dọc theo cành cây ra ngoài, thận trọng và e dè tột độ. Mặt gã cứng đơ vì căng thẳng nhưng rồi gã cũng được thở phào nhẹ nhõm khi thấy mình đã yên vị bên cạnh Yossarian. Gã vuốt ve cái cây âu yếm. “Thật là một cái cây tốt,” gã ngưỡng mộ nhận xét với vẻ biết ơn của một ông chủ.
“Nó chính là cây đời đấy,” Yossarian trả lời, ngọ nguậy ngón chân, “cũng là cây tri thức về thiện và ác nữa.”
Milo nheo mắt nhìn sát vào vỏ cây và các cành cây. “Không, không phải đâu,” gã đáp. “Nó là cây hạt dẻ. Tôi biết chứ. Tôi bán hạt dẻ mà.”
“Tùy anh.”
Họ ngồi trên cây không nói gì trong vài giây, chân đung đưa còn tay gần như giơ thẳng lên bám vào cành cây ở trên, một kẻ không gì che thân, chỉ có một đôi xăng đan đế kếp, kẻ kia chỉnh tề trong quân phục vải len xanh ô liu nhạt với cà vạt thắt chặt. Milo dè dặt liếc mắt nhìn Yossarian, ngập ngừng ướm lời.
“Tôi muốn hỏi anh vài điều,” cuối cùng gã nói. “Anh không mặc tấm áo manh quần nào. Tôi không muốn xía vào chuyện của anh hay gì, tôi chỉ muốn biết. Tại sao anh lại không chịu mặc quân phục?”
“Tôi không muốn.”
Milo gật đầu lia lịa như một con chim sẻ mổ thóc. “Tôi biết, tôi biết,” gã nhanh chóng tuyên bố với vẻ bối rối sâu sắc. “Tôi hoàn toàn hiểu. Tôi nghe Appleby và đại úy Black nói anh đã phát điên, và tôi chỉ muốn xác nhận.” Gã lại lịch sự ngập ngừng đặt câu hỏi tiếp theo. “Anh định không bao giờ mặc lại quân phục nữa đấy à?”
“Tôi cho là vậy.”
Milo gật đầu với vẻ hăm hở giả dối để tỏ ra rằng gã vẫn hiểu và rồi ngồi im, trầm ngâm ủ ê với nỗi lo âu rối bời. Một con chim mào đỏ bay vụt qua bên dưới, đôi cánh thẫm màu cọ vào một bụi rậm rung rinh. Yossarian và Milo được che chở dưới những lớp lá xanh mỏng như giấy nghiêng dốc và bao quanh bởi mênh mông những cây hạt dẻ màu xám khác và một cây vân sam màu bạc. Mặt trời ở cao trên đầu giữa một bầu trời rộng lớn màu xanh ngọc bích điểm xuyết thảng hoặc những đám mây xốp trắng nõn thấp là là. Không một ngọn gió, và những chiếc lá cây ở trên đầu họ treo mình bất động. Bóng râm mượt như tơ. Tất cả đều ngoại trừ Milo, gã bất chợt đứng thẳng dậy, kêu lên một tiếng nghẹn ngào đoạn chỉ trỏ đầy khích động.
“Nhìn kìa!” gã thảng thốt. “Nhìn kìa! Dưới kia đang có một đám tang. Có vẻ như đó là một nghĩa địa, có phải không?”
Yossarian từ tốn trả lời, giọng không đổi tông. “Họ đang chôn thằng nhóc bị giết trên máy bay của tôi trong trận Avignon hôm đó. Snowden.”
“Chuyện gì đã xảy ra với cậu ta?” Milo hỏi, giọng thì thào vì kinh sợ.
“Cậu ta bị giết.”
“Kinh khủng quá,” Milo rầu rĩ, và cặp mắt to màu nâu của gã ầng ậng nước mắt. “Tội nghiệp thằng bé. Quá là kinh khủng.” Gã mím chặt cặp môi run run, và giọng gã to dần lên trong xúc động. “Và sẽ còn tệ hơn nữa nếu như các nhà ăn không chịu mua bông của tôi. Yossarian. Bọn họ sao vậy? Họ không hiểu rằng xanh đi ca này là của họ hay sao? Họ không biết rằng tất cả bọn họ đều có phần hay sao?”
“Thế xác chết trong lều của tôi có phần không?” Yossarian chua cay hỏi gặng.
“Dĩ nhiên gã cũng có phần,” Milo hào phóng cam đoan. “Tất cả mọi người trong phi đoàn đều có phần.”
“Anh ta bị giết trước cả khi gia nhập phi đoàn này.”
Milo khoác lên một vẻ mặt nhăn nhó đau khổ đầy thuần thục và quay đi. “Tôi xin anh đừng lấy xác chết trong lều của anh ra để kiếm chuyện với tôi nữa,” gã cầu xin trong dằn dỗi. “Tôi đã bảo anh rằng tôi chẳng liên quan gì tới việc anh ta bị giết. Tôi thấy có cơ hội lớn khi đầu cơ bông Ai Cập nên mới khiến chúng ta lâm vào cảnh rắc rối này, thì liệu đấy có phải là lỗi của tôi không? Liệu tôi có phải biết trước rằng năm nay bông được mùa? Lúc đó tôi thậm chí còn không biết mùa có nghĩa là gì. Một cơ hội đầu cơ như vậy không xuất hiện thường xuyên đâu, và tôi phải khá khôn ngoan mới túm lấy nó ngay khi nó tới.” Milo nén một tiếng rên khi thấy sáu người hộ tang mặc quân phục đang nhấc chiếc quan tài gỗ thông đơn sơ ra khỏi xe cấp cứu và nhẹ nhàng đặt nó xuống đất bên một huyệt mộ mới đào đang ngoác miệng sâu hoắm. “Còn giờ thì tôi không thể thoát khỏi cái đống không đáng một xu đó,” gã rền rĩ.
Yossarian không mảy may xúc động trước những lời sáo rỗng khó hiểu của lễ tang lẫn cái tổn thất liểng xiểng của Milo. Giọng cha tuyên úy từ xa mỏng mảnh trôi tới chỗ y thành một dòng đều đều không sao hiểu nổi, hầu như không nghe ra, chỉ như tiếng rì rầm phảng phất. Yossarian có thể nhận ra thiếu tá Major nhờ dáng cao lớn lênh khênh hơn hẳn mọi người và y nghĩ là y còn thấy thiếu tá Danby đang lau trán bằng một chiếc khăn tay. Từ sau vụ lùm xùm với tướng Dreedle tới giờ thiếu tá Danby vẫn chưa hết run. Xung quanh ba sĩ quan là những hàng lính trơn khuôn thành một vòng cung, tất cả đều bất động như gỗ, và bốn người đào huyệt kiệt sức chán nản đứng ườn ra hờ hững, chân gác lên xẻng bên một đống khủng khiếp, dị kỳ toàn đất đỏ tơi. Trong lúc Yossarian vẫn nhìn trân trối, cha tuyên úy trang trọng nâng ánh mắt về phía Yossarian làm động tác ấn ngón tay lên cầu mắt để thể hiện sự đau lòng, rồi lại ngó lên Yossarian dò xét, đoạn cúi đầu xuống và kết thúc cái mà Yossarian cho là phần cao trào của lễ tang. Bốn người đàn ông đang kiệt sức kia quàng dây nhấc chiếc quan tài lên và hạ nó xuống huyệt. Milo run rẩy dữ dội.
“Tôi không thể xem cảnh này,” gã nấc lên, khổ sở quay mặt đi. “Tôi không thể cứ ngồi đây mà nhìn trong lúc mấy cái nhà ăn đó mặc cho xanh đi ca của tôi chết.” Gã nghiến răng và lắc đầu trong nỗi thống khổ và oán giận cay đắng. “Nếu họ có chút lòng trung thành nào thì họ sẽ mua bông của tôi cho đến khi không thể chịu đựng nổi để rồi lại mua thêm bông của tôi cho đến khi không thể chịu được thêm một chút nữa. Họ sẽ mua lửa về mà đốt sạch đồ lót và quân phục mùa hè của họ để tăng cầu. Nhưng họ lại không làm gì. Yossarian, thử ăn nốt mấy viên bông bọc sô cô la này cho tôi xem nào. Biết đâu giờ nó lại ngon.”
Yossarian đẩy tay gã ra. “Thôi đi Milo. Bông không ăn được.”
Mặt Milo rúm lại đầy vẻ xảo trá. “Không hẳn là bông đâu,” gã ngon ngọt. “Lúc nãy tôi đùa ấy mà. Thật ra là kẹo bông đó, kẹo bông loại ngon. Nếm thử thì biết.”
“Anh lại đang nói dối đấy.”
“Tôi không bao giờ nói dối,” Milo đáp với vẻ ngời ngời phẩm giá.
“Ngay lúc này anh đang nói dối đấy.”
“Tôi chỉ nói dối khi cần thiết,” Milo lấp liếm, mắt đánh sang chỗ khác một lúc rồi đắc thắng chớp chớp hàng mi. “Cái này còn ngon hơn kẹo bông, thật đấy. Nó được làm từ bông thật. Yossarian này, anh phải giúp tôi bắt mọi người ăn nó. Bông Ai Cập là loại bông tốt nhất thế giới đấy.”
“Nhưng nó đâu có tiêu hóa được,” Yossarian nhấn mạnh. “Nó sẽ khiến cho họ bị ốm, anh không hiểu à? Nếu đã không tin tôi thì sao anh không tự đi mà ăn thử?”
“Tôi thử rồi đấy chứ,” Milo buồn bã thú nhận. “Và nó đã khiến cho tôi bị ốm.”
Nghĩa địa vàng như cỏ khô và xanh như bắp cải nấu chín. Một lúc sau cha tuyên úy lùi lại, vòng cung lưỡi liềm màu be xếp bằng người bắt đầu chậm chạp vỡ ra, như những mảnh tàu vỡ trôi dạt. Mọi người tản ra không vội vàng, không một tiếng động để đi về những chiếc xe đang đỗ dọc theo con đường gập ghềnh bụi bặm. Đầu cúi xuống chán chường, cha tuyên úy, thiếu tá Major và thiếu tá Danby đi về phía những xe Jeep của họ như một nhóm những kẻ đi đày, mỗi người đều đơn độc giữ mình cách xa vài bước khỏi hai người còn lại.
“Thế là đã kết thúc cả rồi,” Yossarian nhận xét.
“Thế là đã hết,” Milo uể oải đồng ý. “Chẳng còn hy vọng nào nữa. Và tất cả là bởi vì tôi đã cho phép bọn họ tự quyết. Đó là một bài học về tính kỷ luật cho lần sau nếu như tôi có làm một vụ tương tự như này nữa.”
“Tại sao anh không bán bông của anh cho chính phủ?” Yossarian thận trọng gợi ý, trong lúc nhìn bốn người đang chán nản kiệt sức kia trút những xẻng đất màu đỏ đồng trở lại huyệt.
Milo cộc cằn phủ quyết ý tưởng này. “Đây là vấn đề nguyên tắc,” gã giải thích chắc nịch. “Chính phủ không có việc gì để làm trong kinh doanh cả, và tôi sẽ không đời nào muốn để việc làm ăn của tôi phải dây với chính phủ. Nhưng công việc của chính phủ chính là chăm lo việc làm ăn,” gã chợt nhớ ra và tiếp tục phấn chấn nói. “Calvin Coolidge đã nói ý như thế, và Calvin Coolidge là tổng thống, do vậy nó phải đúng. Nên đúng ra thì chính phủ phải có trách nhiệm mua hết số bông Ai Cập mà tôi có nhưng không ai cần để cho tôi thu lời, có phải không?” Rồi mặt Milo lại sa sầm gần như ngay lập tức, và tâm trạng gã lại chìm vào bất an buồn bã. “Nhưng tôi phải làm thế nào để chính phủ làm việc đó?”
“Hối lộ,” Yossarian nói.
“Hối lộ!” Milo cảm thấy như bị xúc phạm đến suýt mất thăng bằng mà ngã lộn cổ như lần trước. “Anh thật đáng xấu hổ!” gã quở trách dữ dội, hít ngọn lửa đạo đức xuống rồi lại thổi nó lên vào bộ ria bạc màu gỉ sắt qua lỗ mũi căng phồng và cặp môi đứng đắn. “Hối lộ là phạm pháp, ta biết là vậy. Nhưng kiếm lời thì không phạm pháp, phải không? Do vậy nếu như tôi hối lộ cho ai đó để kiếm lời thì không thể nào là phạm pháp được, đúng không? Đúng, dĩ nhiên là không rồi!” Thế rồi gã lại rơi vào trầm tư, với vẻ buồn đau cam chịu, gần như đáng thương hại. “Nhưng tôi làm sao biết được nên hối lộ ai?”
“Ồ, chuyện đó thì anh đừng lo,” Yossarian an ủi gã với tiếng cười nhạt khi tiếng động cơ của những chiếc xe Jeep và xe cứu thương phá tan sự yên tĩnh uể oải và những chiếc xe ở phía sau bắt đầu lùi dần ra xa. “Anh chỉ cần hối lộ đủ nhiều thì họ sẽ tự tìm đến anh. Chỉ cần chắc chắn rằng anh làm mọi việc thật công khai. Cứ cho tất cả mọi người biết chính xác anh muốn gì và anh sẵn lòng trả bao nhiêu. Nếu anh hành xử như là có tội hoặc cảm thấy xấu hổ thì anh sẽ gặp rắc rối.”
“Giá mà anh đi cùng tôi thì hay biết mấy,” Milo nhận xét. “Tôi không cảm thấy yên tâm khi ở với những kẻ nhận hối lộ. Họ cũng chẳng tử tế gì hơn một lũ lừa đảo.”
“Anh sẽ ổn thôi,” Yossarian quả quyết trấn an gã. “Nếu anh gặp rắc rối thì cứ nói với tất cả mọi người rằng an ninh quốc gia đòi hỏi có một nền công nghiệp đầu cơ bông Ai Cập đủ mạnh.”
“Đúng vậy,” Milo nghiêm trang nói. “Một nền công nghiệp đầu cơ bông Ai Cập mạnh có nghĩa là một nước Mỹ mạnh hơn nhiều.”
“Tất nhiên rồi. Và nếu nói vậy cũng không ăn thua thì cứ chỉ ra một số lượng lớn các gia đình Mỹ đang kiếm sống nhờ nó.”
“Đúng là có rất nhiều gia đình Mỹ kiếm sống nhờ nó.”
“Thấy chưa?” Yossarian nói. “Anh làm việc đó giỏi hơn tôi nhiều. Nghe anh nói cứ như thật vậy.”
“Thì đó là sự thật mà,” Milo kêu lên, dấu vết ngạo mạn cũ lộ ra rõ nét.
“Ý tôi chính là như vậy đấy. Anh làm được việc đó với đủ sức thuyết phục.”
“Anh chắc là anh sẽ không đi cùng tôi chứ?”
Yossarian lắc đầu.
Milo sốt ruột muốn bắt đầu ngay. Gã nhét phần còn lại của cục bông bọc sô cô la vào túi áo rồi thận trọng men dọc theo cành cây về với cái thân cây xám nhẵn. Gã vụng về và hào phóng choàng tay ôm lấy thân cây và bắt đầu tụt xuống, đôi giày đế da của gã trượt liên tục khiến cho nhiều lần gã suýt ngã bị thương. Xuống được nửa đường, gã đổi ý và leo ngược trở lên. Những mẩu vỏ cây dính khắp ria gã, và gương mặt căng thẳng của gã đỏ lên vì quá sức.
“Tôi mong anh mặc quân phục vào thay vì đi khắp nơi trần truồng như vậy,” gã trầm ngâm tâm sự trước khi lại trèo xuống và vội vã rời đi. “Anh có thể tạo ra một xu hướng ăn mặc mới, mà nếu vậy thì tôi sẽ không bao giờ thoát được khỏi đống bông chết tiệt này mất.”
57. Nhại hai câu thơ trong bài “Locksley Hall” (1835) của Lord Tennyson: In the Spring a livelier iris changes on the burnish’d dove/ In the Spring a young man’s fancy lightly turns to thoughts of love. Tạm dịch: Vào mùa xuân sắc hoa diên vỹ cũng đổi thay mà ánh lên thắm tươi hơn trên cánh chim câu bóng sáng/ Vào mùa xuân tâm trí một chàng trai trẻ lại nhẹ nhàng hướng tới những suy nghĩ về tình yêu.