Far more seemly were it for thee to have thy study full of books, than thy purse full of money.

John Lyly

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick Deville
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Peste Et Choléra
Dịch giả: Đặng Thế Linh
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 47
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1280 / 46
Cập nhật: 2017-05-20 08:52:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Ở Hồng Kông
ng già khép quyển sổ cũ lại, thấy mình ở Hà Nội, vừa từ vùng đất của người Xê Đăng về, vẫn còn vận trang phục thám hiểm, chiếc áo vest vải thô xanh lục có dây đai để gài dụng cụ. Yersin từ biệt cha Guerlach. Anh ba mốt tuổi. Anh xuống tàu ở Sài Gòn, đọc bức điện của Roux mà anh chưa gặp lại kể từ buổi nói chuyện ờ Hội Địa lý. Những bức điện. Bởi vì Roux và Pasteur đang sôi lên sùng sục. Và nã xuống nhà chức trách cả đống điện tín. Cánh Pasteur vẫn coi Yersin là người của họ, để dành cho khoa học. Họ đã cử người đưa tin đến Nha Trang, biết được anh đang ở trên núi. Núi với non, Roux tức mình, nhún vai.
Cứ như thể biển còn chưa đủ.
Hồi đó là hai mươi năm trước Thế chiến thứ nhất, nhưng trận chiến khoa học đã mang đậm tính chính trị và các mối liên minh thì vẫn thế. Một đợt dịch hạch bên Trung Quốc ào xuống Bắc Kỳ, tháng Năm thì tới Hồng Kông. Nỗi kinh hoàng vĩ đại cầm lưỡi hái xuất hiện ở chân trời và mau chóng xác chết xếp thành đống, hoảng hốt trong tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Quốc, người Anh tại Cửu Long và người Pháp ở Hải Phòng.
Vào cái thời người ta còn đi bộ, cưỡi ngựa, dùng xe bò kéo có bánh rít lên kèn kẹt và đi tàu buồm, dịch hạch tiến chậm và gặt hái ngay trước nó. Hai lăm triệu người chết ở châu Âu thế kỷ 14. Các bác sĩ vận áo chùng mang mặt nạ trắng có cái mỏ chim dài, tọng đầy các thứ hương liệu hòng lọc đi các chướng khí. Nỗi kinh hoàng tỉ lệ thuận với tốc độ các loại phương tiện di chuyển. Dịch hạch đợi hơi nước, điện, đường sắt và tàu thủy vỏ sắt khổng lồ. Trước nỗi kinh hoàng màu đen vĩ đại, không còn là lưỡi hái và tiếng rít của nó khi chặt cành nữa, mà đã là tiếng phành phạch của máy liên hợp gặt đập chạy hết tốc lực trên những cánh đồng lúa mì. Không phương cứu chữa. Dịch hạch không dự báo được và gây chết người, lây nhanh và phi lý. Nó gieo rắc sự xấu xí và cái chết, rải trên trái đất thứ dịch đen hay vàng tiết ra từ những cái hạch mọc trên cơ thể. Miêu tả của y học lúc ấy, ta có thể tìm được trong khảo luận về các chứng bệnh truyền nhiễm của giáo sư Griesinger (Wilhelm Griesinger (1817-1868), nhà não bộ học và tâm thần học người Đức) thuộc trường đại học Berlin đã được Mollaret (Henri H. Mollaret (1902-2008), chuyên gia về dịch hạch, tác giả một cuốn tiểu sử về Yersin) trích dẫn, xuất bản chừng mười lăm năm trước, chỉ ra rằng dịch hạch xảy đến tại “những khối dân cư bần cùng, thất học, bẩn thỉu, man dã ở mức độ khó tin nhất.”
Ở Sài Gòn, Yersin mượn được một ít thiết bị y tế, chúng được đặt thật cẩn thận vào một cái rương đi biển, các ống nghiệm, những mặt kính và một nồi chưng dành cho công tác tiệt trùng. Anh quay ra Hà Nội và gặp bác sĩ Lefèvre, của Phái đoàn Pavie, người sẽ đi theo nhà thám hiểm đất Lào đến Muang Sing để vạch đường biên giới với Trung Quốc. Lefèvre là một nhà chính trị và không giấu anh, đổng nghiệp thân mến ạ, rằng với người Anh thì công việc sẽ chẳng dễ dàng đâu. Từ Bombay sang đến Hồng Kông, Raj (Raj: từ tiếng Phạn, muốn nói “vương quốc”) Anh quốc hẳn sẽ là một lãnh thổ rất lớn bất tận nếu không có cái gai khó chịu là Đông Dương thuộc Pháp. Vì lý do ấy, người Anh đã nhờ đến các bác sĩ Nhật, thế thì quá bằng cầu cứu người Đức, dùng Viện Koch chống lại Viện Pasteur.
Tuy nhiên có một người Ý thần Pháp, Lefèvre nói thêm, cha Vigano, một thông tín viên đáng kính, cựu sĩ quan pháo binh từng được gắn huân chương ở trận Solferino trước khi nhập dòng, một con chuột chũi Thiên Chúa giáo chui vào hàng ngũ Tin Lành, Lefèvre mỉm cười, sẵn sàng cứu thua cho Đệ tam Cộng hòa nhằm thể hiện lòng biết ơn việc Đệ nhị Đế chế đã nhất thống nước Ý. Trong đầu óc Yersin, điều này còn ngông hơn cả cuộc sống của người Mọi. Người Thụy Sĩ và người Ý được vời ra phụng sự nước Pháp. Yersin xuống tàu ở Hồng Kông vào giữa tháng Sáu và tới bệnh viện của Kennedy Town nằm dưới quyển điều hành của bác sĩ Lawson.
Từ khi tới bến cảng, dưới một trận mưa như trút, anh đã trông thấy xác những người chết vì dịch hạch trên các phố và giữa những vũng nước, trong các khu vườn, trên những cái ghe đang cắm neo. Đám lính Anh dùng quyền uy của mình mang những người bị bệnh đi, dọn sạch nhà họ, chất đống hết lại rồi châm lửa đốt, rải vôi bột và axít sunfuric, xây những bức tường gạch đỏ để ngăn người ta ra vào những khu phố nhiễm bệnh. Yersin chụp ảnh, tối đến viết lại những khung cảnh địa ngục đầu tiên dưới bầu trời xám và những cơn mưa rào xối xả. Người ta đổ xô đến những bệnh viện ngập nước, nhưng chẳng được tích sự gì. Gần như khắp nơi, Lawson mở các trạm cách ly, thực chất là những chỗ chờ chết, trong một nhà máy thủy tinh cũ và trong lò mổ mới đang xây, trong những túp nhà tranh bị tịch biên. Người ta vứt xuống nền nhà những cái chiếu rồi sau này sẻ đốt luôn cùng người nằm. Thần Chết đến liền sau vài ngày. Xuyên qua màn mưa ấm nóng và các đợt gió lồng lộn, những xe chất đầy xác chết chầm chậm lăn bánh. “Tôi nhận thấy có rất nhiều chuột chết trên mặt đất.” Mấy chữ mà Yersin ghi nhanh về buổi tối hôm ấy liên quan đến những cái cống đang tuôn ra và lũ chuột đang phân hủy. Kể từ Camus điều này có vẻ hiển nhiên nhưng thời ấy thì chưa như vậy. Đây chính là thứ Camus phải nợ Yersin khi viết cuốn tiếu thuyết của mình, đúng bốn năm sau khi Yersin qua đời (Ý nói cuốn tiểu thuyết La Peste (Dịch hạch) của Albert Camus, in năm 1947).
Qua điện tín, và vì lý do ngoại giao, toàn quyền Anh, Sir Robinson, đã cho phép Yersin đến Hồng Kông nghiên cứu bệnh dịch hạch. Nhưng có thể thấy rất rõ sự thiếu thiện ý của người Anh, người Nhật thì còn tệ hơn nữa, êkip của Shibasaburo Kitasato muốn giành riêng cho họ việc phẫu thuật tử thi. Kitasato và trợ lý Aoyama đã từng theo các bài giảng của Koch. Kitasato và Yersin tới Đức cùng một năm, Yersin tới Marburg còn Kitasato tới Berlin, ông ta đã ở đó bảy năm bên cạnh người phát hiện ra vi khuẩn ho lao. Khi bác sĩ Lawson giới thiệu Yersin với họ, anh nói chuyện với họ bằng tiếng Đức, họ phá lên cười chẳng thèm đáp lời anh. “Có vẻ như từ lâu rồi tôi không sang Đức, nên hơi quên ngôn ngữ, vì thay vì trả lời tôi, họ lại cười với nhau.”
Kitasato không thể không biết tên tuổi Yersin và việc anh cùng Roux phát hiện độc tố bạch hẩu. Ông ta chia sẻ cùng con lạc đà Koch một sự thù địch hoàn toàn đối với Pasteur và các Viện của ông. Cũng phải hiểu, trong cuộc chạy đua ấy, ai cũng biết lần này là quyết định. Sẽ phải phát hiện ra vi trùng dịch hạch nếu quả đó là một con vi trùng. Nó không thể thoát được nữa. Và trong lịch sử loài người cơ hội trở thành người chiến thắng bệnh dịch hạch sẽ không bao giờ có nữa. Chỉ vài tuần dịch bệnh hoành hành nữa là sẽ có thêm hàng nghìn xác chết để nghiên cứu. Cơ may duy nhất của con vi trùng có lẽ sẽ là trận dịch đột ngột dừng một cách bí hiểm. Yersin và Kitasato đều biết việc họ ở đây là nhờ Koch và Pasteur, hai thiên tài tuyệt đối, sánh ngang với Galilée. Họ biết mình là những chú lùn đứng trên vai hai người khổng lồ. Kitasato có ưu thế về thực địa. Yersin sẽ không được sờ đến xác chết nào.
Yersin hoàn toàn có thể tuyên bố thua cuộc và trở về theo đường biển. Cha Vigano ưa các biện pháp hơi xảo quyệt của Vatican mà thường thì một người Tin Lành khắc kỷ xứ Vaud hẳn sẽ phản đối. Để giúp Yersin, trong vòng hai ngày ông cho dựng một cái lán bằng tre phù rơm gần bệnh viện Alice Memorial. Đây vừa là nơi ở vừa là phòng thí nghiệm, ở đó họ đặt một cái giường gấp và mở cái rương đi biển ra, lắp đặt kính hiển vi và ống nghiệm. Vigano đút tiền đám lính thủy Anh phụ trách coi nhà xác nơi chồng chất xác chết đợi đốt hoặc chôn và mua lại vài cái xác. Yersin dùng dao mổ rất khéo. “Họ đã nằm trong quan tài và phủ đầy vôi bột. Tôi phải gạt đi một ít vôi để thấy được vùng đùi.” Yersin tìm lại niềm hứng khởi của ống nghiệm, những cái diều, như hồi ở Paris. “Hạch nhìn rõ lắm. Chi cần chưa đến một phút tôi đã cắt được nó, rồi lên phòng thí nghiệm. Tôi chuẩn bị thật nhanh, đặt nó dưới kính hiển vi. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi đã nhận ra cả một đống vi khuẩn lúc nhúc, tất cả đều giống nhau. Đó là những cái que béo tròn nhỏ xíu, hai đầu tròn tròn.”
Thế là đủ. Khỏi cần viết hồi ký. Yersin là người đầu tiên quan sát được trực khuẩn dịch hạch, giống như Pasteur từng là người đầu tiên quan sát được các trực khuẩn gai ở tằm, bệnh than ở cừu, bệnh tả ở gà và của bệnh dại ở chó. Trong vòng một tuần, Yersin viết một bài báo sẽ được đăng ngay tháng Chín trên Biên niên Viện Pasteur.
Kitasato có trích bệnh phẩm trên cơ thể và máu nhưng lại lơ là hạch, miêu tả được phế viêm khuẩn của một bệnh truyền nhiễm phụ mà lại tưởng là vi trùng. Nếu không có tình cờ và may mắn, thiên tài không thôi cũng chẳng làm được gì. Yersin, kẻ bất khả tri, lại được các vị thần ban phước. Như các nghiên cứu sau này sẽ chỉ ra, Kitasato được sở hữu một phòng thí nghiệm đích thực trong bệnh viện, cùng một lò hấp được chỉnh theo nhiệt độ cơ thể con người, nhiệt độ này giúp phế viêm khuẩn sinh sôi nảy nở, nhưng trực khuẩn dịch hạch lại phát triển mạnh nhất ở nhiệt độ khoảng hai mươi tám độ, tức nhiệt độ trung bình của mùa này tại Hồng Kông, và cũng là nhiệt độ mà Yersin, vì không có lò giữ nhiệt, tiến hành các quan sát của mình.
Cùng lúc Yersin gửi các kết quả về Paris, anh cũng nộp chúng cho Lawson, ông ta mau mắn thông báo cho cánh Nhật Bản. Yersin phàn nàn về điều đó nhưng cũng không làm um lên. “Lẽ ra ông ấy nên kín đáo hơn. Chính ông ấy, sau khi xem cách thức tôi chuẩn bị làm thí nghiệm, đã khuyên đám người Nhật tìm vi trùng trong hạch. Thậm chí ông ấy còn cam đoan với tôi và nhiều người khác rằng con vi trùng mà đám người Nhật đã định vị được không hề giống con vi trùng của tôi.” Kitasato tự nhận thành công về mình và gây ra một trận tranh cãi, cả khoa học lẫn chính trị. Nhưng bằng chứng đã rõ ràng và Yersin, người chưa từng gặp cha mình, và sẽ không bao giờ trở thành cha, ít nhất cũng thấy mình được biến thành cha đẻ của khám phá vừa được công nhận:
Yersinia pestis.
Anh còn nhốt mình trong cái lều rơm thêm hai tháng nữa, cúi xem lũ chuột chết, xác lập vai trò của chúng trong việc lan truyền bệnh dịch. Theo gương Pasteur ở vùng Beauce khi nghiên cứu bệnh than ở cừu, anh lấy các mẫu đất ở khu phố Thái Bình Sơn nơi đang lan tràn bệnh dịch và miêu tả chúng cho Calmette. “Anh thừa biết rằng tìm một loại vi khuẩn ở trong đất không phải chuyện dễ, và rằng, dầu cho không tìm thấy thì ta cũng không thể từ đó suy ra là nó không tồn tại. Vậy nên tôi đã thực hiện thí nghiệm này trong niềm tin thầm kín là mình sẽ chẳng tìm được gì cả.” Anh chuẩn bị đất đen đã pha loãng và cấy vào mấy cái tuýp thạch, thả thêm một sợi platin. “Và anh có tưởng tượng được không, trong hai tuýp, tôi đã thu được nhiều ổ khuẩn dịch hạch và không bị lẫn con vi khuẩn lạ nào vào.”
Giờ đây, người Anh lại muốn giữ anh lại làm nhân viên vệ sinh y tế. Đám Nhật đã ra đi. Người ta thấy rõ rằng những bức tường gạch đỏ xây ở đầu các phố chỉ chặn được người Hoa, chứ vẫn để các vi sinh vật đi qua. Nhưng Yersin quyết định rời Hồng Kông. Anh viết thư cho toàn quyền ở Hà Nội. “Tôi cho rằng mục đích chuyến đi của tôi sang Hồng Kông đã đạt được, vì tôi đã tách được vi khuẩn dịch hạch, thực hiện những nghiên cứu đầu tiên về các đặc tính sinh lý của nó, và gửi về Paris đầy đủ mẫu vật để nghiên cứu tiếp.” Giữa tháng Tám, trên boong tàu anh chào tạm biệt vị thầy tu kiêm người lính Vigano tốt bụng, về Sài Gòn viết báo cáo về chuyến đi của mình như thể đó là một chuyến thám hiểm, trả lại các thứ thiết bị đã mượn. Anh viết những kết luận của mình vào một cuốn sổ: “Như vậy, dịch hạch là một thứ bệnh lây nhiễm và có thể tiêm phòng. Có khả năng chuột là vật truyền bệnh chính, nhưng tôi cũng đã nhận thấy rằng cả ruồi cũng mắc bệnh.”
Trong vòng hai tháng ở Hồng Kông, thế là xong, lịch sử vĩ đại của bệnh dịch hạch. Anh nảy ra một ý tưởng mới. Lúc nào anh cũng gấp, Yersin ấy. Cứ như thể anh đã đi tìm vi khuẩn để làm vui lòng cái nhóm Pasteur nhỏ bé, như thế đấy, trong nháy mắt, giờ đây tôi có việc hay hơn, các anh sẽ làm tốt thôi, anh chia sẻ mà không giữ lại chút gì nhằm thúc đẩy việc tìm vắcxin và gửi đi gần như mọi nơi các mẫu trực khuẩn của mình đựng trong lọ thủy tinh nhỏ đóng dấu niêm phong, viết thư cho Calmette: “Tôi chẳng hề lo lắng cho việc anh cùng ông Roux phối hợp sẽ nhanh chóng đạt được kết quả.”
Rốt cuộc những chuyến thám hiểm và nghề đi biển đã kết thúc với anh. Anh muốn lập căn cứ riêng ở Nha Trang, nuôi cừu hoặc mở ngành nông nghiệp, cuộc sống thực, hiện thực xù xì cần phải ôm lấy. Anh sẽ không quay lại cuộc đời đơn điệu của thủy thủ, và cũng đã quá tuổi để sống cuộc đời thám hiểm và các trận đánh với Thục. Anh cũng đã tìm lại sở thích nghiên cứu, ống nghiệm và kính hiển vi, những chiếc diều. Để làm được, anh cần một ít tiền, xin xỏ dăm ba đồng, danh tiếng của anh phải đưa ra làm tiền chút đỉnh với chính quyền. Có lẽ để dọa họ, anh dẫn Molière và lời đáp của La Flèche.
Cầu cho tính keo kiệt và bọn keo kiệt mắc dịch hạch hết (Câu này (La peste soit de l’avarice et des avaricieux) xuất hiện ở màn 3, hồi 1 trong vở kịch Lão hà tiện của Molière).
Yersin - Dịch Hạch & Thổ Tả Yersin - Dịch Hạch & Thổ Tả - Patrick Deville Yersin - Dịch Hạch & Thổ Tả