Số lần đọc/download: 1074 / 27
Cập nhật: 2017-09-05 09:38:37 +0700
Chương 10
T
rách nhiệm nặng nề ở Sân bay…
Hồi ức đáng sợ ở Peru…
“Không! Quá muộn rồi! Đừng cố nữa!”
Luật sư ra đi lúc sáng sớm. Chúng tôi suýt lỡ chuyến bay đầu tiên đi LA bởi tôi không tìm thấy sân bay. Từ khách sạn đến đó chưa đầy ba mươi phút. Tôi chắc như vậy. Nên chúng tôi rời Flamingo đúng bảy giờ ba mươi… nhưng vì lý do nào đó chúng tôi không rẽ ở đèn giao thông trước Tropicana. Chúng tôi cứ đi thẳng lên đường cao tốc, nó chạy song song với đường chính ra sân bay, nhưng theo hướng ngược lại tính từ sân ga… và không có cách nào để qua đường đó cho đúng luật.
“Mẹ kiếp! Chúng ta lạc rồi!” luật sư của tôi hét. “Chúng ta đang làm gì trên con đường khốn kiếp này? Sân bay ở đằng kia!” Hắn chỉ điên loạn sang bãi đất phẳng.
“Đừng lo,” tôi nói. “Tôi chưa bao giờ lỡ chuyến.” Tôi mỉm cười khi ký ức quay về. “Ngoại trừ một lần ở Peru,” tôi nói thêm. “Tôi đã làm thủ tục xuất cảnh, qua phòng hải quan, nhưng tôi quay lại quầy bar để nói chuyện với một tay buôn cocain người Bolivia… và đột nhiên tôi nghe tiếng động cơ 707 khởi động, nên tôi chạy ra đường băng và cố lên máy bay, nhưng cửa ở ngay sau động cơ và người ta đã rút thang. Mẹ kiếp, mấy thùng chất đốt tí nữa biến tôi thành thịt xông khói… nhưng lúc đó tôi mất hết tỉnh táo: tôi liều lĩnh lên máy bay bằng được.
“Cảnh sát sân bay thấy tôi chạy đến, và họ quây lại thành nút chặn ngay ở cổng. Tôi chạy như một thằng ngu, lao thẳng vào bọn họ. Gã đứng cùng tôi hét lên: “Không! Quá muộn rồi! Đừng cố nữa!”
“Tôi thấy cảnh sát đợi tôi, nên tôi chậm lại như thể đã thay đổi ý định… nhưng khi thấy họ giãn ra, tôi đột ngột thay đổi tốc độ và cố vượt qua lũ khốn kia.” Tôi cười phá. “Chúa ơi, giống như thể lao hết tốc lực vào cái tủ đầy quái vật gila. Mấy tên bỏ mẹ đó suýt nữa giết tôi. Tôi chỉ nhớ trông thấy năm hay sáu dùi cui cùng lúc nện lên người mình, và nhiều tiếng gào thét: ‘Không! Không! Thế là tự sát! Ngăn lão điên này lại!’
“Khoảng hai tiếng sau tôi tỉnh dậy trong một quán bar ở trung tâm Lima. Họ cho tôi nằm trên chiếc ghế bành hình bán nguyệt. Hành lý được chất đầy sau người tôi. Không ai mở ra cả… nên tôi quay lại ngủ tiếp và sáng hôm sau bắt chuyến bay đầu tiên.”
Luật sư chỉ nghe lơ mơ. “Này,” hắn nói, “Tôi thực sự thích nghe thêm chuyến phiêu lưu của ông ở Chi–lê, nhưng không phải bây giờ. Ngay lúc này tôi chỉ muốn qua đường băng khốn kiếp kia.”
Chúng tôi lao đi vùn vụt. Tôi đang tìm một đoạn rẽ, một đoạn có thể sang đường, một làn cắt ngang đường băng chạy đến sân ga. Chúng tôi đã quá cột đèn giao thông gần nhất năm dặm và không đủ thời gian để quay lại đó.
Có một cách duy nhất đến đúng giờ. Tôi nhấn phanh và cho xe chạy chậm xuống cái hào cỏ mọc giữa hai làn đường cao tốc. Hào sâu quá, không đâm thẳng xuống được, nên tôi phải đi xiên. Con Whale suýt nữa lật, nhưng tôi vẫn cho bánh xe quay tít mù và chúng tôi nghiêng nghiêng lên bờ hào bên kia và đi vào làn đường gần đó. Thật may vì đường vắng. Chúng tôi ra khỏi hào, mũi xe chổng lên trời như thủy phi cơ… rồi dập xuống đường cao tốc và tiếp tục chạy vào bài xương rồng phía bên kia. Tôi nhớ đã đâm cái qua hàng rào gì đó và lôi nó theo vài trăm thước, nhưng lúc ấy chúng tôi đã tới đường băng và hoàn toàn tự chủ… gào rú theo tốc độ sáu mươi dặm một giờ, xe chạy số nhỏ, và trông như một con đường rộng mở chạy thẳng đến sân ga.
Mối lo duy nhất của tôi là khả năng bị đè bẹp như gián bởi một chiếc DC–8 đang chạy tới, chiếc máy bay có lẽ chúng tôi sẽ không nhìn thấy cho đến khi nó ngay trên đầu mình. Tôi tự hỏi ở trên cao bọn họ có nhìn thấy chúng tôi không. Có lẽ vậy, nhưng tại sao phải lo? Tôi vẫn cho xe chạy kịch kim. Lúc này quay lại chẳng ích gì.
Luật sư đang dùng hai tay bám vào bảng điều khiển. Tôi liếc nhìn và thấy nỗi sợ trong mắt hắn. Khuôn mặt hắn dường như tái ngắt, và tôi cảm nhận hắn không vui thú gì hành động này, nhưng chúng tôi đang chạy rất nhanh trên đường băng – sau đó là xương rồng, rồi lại đường băng – mà tôi biết hắn hiểu vị thế của chúng tôi: Tranh cãi xem hành động này có khôn ngoan không lúc này không cần thiết nữa; việc đã xảy ra, và hy vọng duy nhất của chúng tôi là sang được phía bên kia.
Tôi nhìn đồng hồ Accutron mặt đầu lâu và thấy chúng tôi còn ba phút mười lăm giây trước giờ cất cánh. “Còn nhiều thì giờ,” tôi nói. “Lấy hết đồ đi. Tôi sẽ thả ông ngay cạnh máy bay.” Tôi có thể thấy chiếc máy bay Western lớn màu đỏ và bạc cách phía trước gần một cây số… và lúc này chúng tôi đang lướt qua mặt đường nhựa mượt mà, qua đường băng đến.
“Không!” hắn hét. “Tôi không thể ra được! Bọn họ sẽ đóng đinh tôi mất. Tôi sẽ phải nhận tội mất!”
“Vớ vẩn,” tôi nói. “Cứ nói ông vẫy xe ra sân bay và tôi cho ông đi nhờ. Trước đây ông chưa bao giờ gặp tôi. Mẹ kiếp, thành phố này đầy xe Cadillac mui trần màu trắng… và tôi tính chạy qua đó thật nhanh để không ai thấy rõ cái biển số xe chết tiệt.”
Chúng tôi tiến gần đến máy bay. Tôi có thể thấy hành khách đang lên máy bay, nhưng đến lúc này, không ai nhận thấy chúng tôi… đang tiến đến từ hướng khó ngờ này. “Ông sẵn sàng chưa?” tôi nói.
Hắn rên rỉ. “Tại sao không? Nhưng vì Chúa, thôi cứ làm cho nhanh!” Hắn lướt qua khu vực đưa khách lên, rồi chỉ: “Đằng kia!” hắn nói. “Thả tôi sau chiếc xe lớn kia. Cứ dừng lại sau nó và tôi sẽ nhảy ra, người ta không thể nhìn thấy, rồi ông có thể chạy đi.”
Tôi gật. Cho đến lúc này, chúng tôi có khoảng trống cần thiết. Không có tín hiệu báo động hay đuổi bắt. Tôi tự hỏi chuyện thế này có xảy ra luôn ở Vegas không – những chiếc xe đầy khách đến trễ, chạy liều lĩnh qua đường băng, thả xuống những gã Samoa mắt hoang dại, tay ghì chặt những túi vải bí ẩn, bọn họ sẽ chạy thốc lên máy bay vào giây cuối cùng rồi xe rồ ga chạy vào bình minh.
Có lẽ vậy, tôi nghĩ. Có lẽ đây là trình tự tiêu chuẩn ở thành phố này…
Tôi đánh ra sau chiếc xe tải và nhấn phanh đủ để luật sư nhảy ra. “Đừng bắt chuyện với lũ lợn này,” tôi hét. “Nhớ đấy, nếu gặp rắc rối gì, ông có thể gửi điện đến Người Thích Hợp.”
Hắn nhe răng. “Ừ… Giải thích Tình thế của tôi,” hắn nói. “Tên khốn nào đấy đã viết một bài thơ về chuyện này rồi. Có lẽ là lời khuyên tốt, nếu não ông đầy cứt.” Hắn vẫy tay chào tôi.
“Đúng,” tôi nói, chạy xe đi. Tôi tia thấy một kẽ hở chỗ hàng rào chống bão – và bây giờ, khi con xe Whale đang ở số chậm, tôi chạy về phía đó. Dường như không ai đuổi theo tôi. Tôi không thể hiểu nổi. Tôi liếc vào gương và thấy luật sư đang leo lên máy bay, không dấu hiệu ẩu đả… và lúc ấy tôi đã qua cổng và chạy vào luồng giao thông buổi sáng sớm trên phố Thiên Đường.
Tôi rẽ ngoặt bên phải ngay phố Russell, rồi rẽ trái vào Maryland Parkway… và bỗng nhiên tôi đang bình bình chạy qua khuôn viên Đại học Las Vegas mà không ai biết đến tôi… không có sự căng thẳng trên những khuôn mặt này; tôi dừng lại ở đèn đỏ và, trong một lát như lạc giữa ánh hào quang da thịt ở vạch qua đường: những cặp đùi thon nổi gân, những chiếc váy ngắn màu hồng, những bộ ngực non căng mọng, những chiếc áo cánh cộc tay, mái tóc dài váng óng, những cặp môi hồng và những đôi mắt xanh – tất cả những dấu hiệu của một nền văn hóa ngây thơ đến nguy hiểm.
Tôi những muốn dừng lại và bắt đầu lắp bắp những lời van xin thô lậu: “Này em yêu, chúng ta hãy đi thác loạn nhé. Nhảy vào con Caddy kinh khiếp này và chúng ta phóng vèo đến phòng của anh ở Flamingo, rồi chơi ê–te và sẽ xử sự như những con thú hoang trong cái bể bơi riêng hình quả thận…”
Chắc chắn chúng tôi sẽ làm vậy, tôi nghĩ. Nhưng lúc này, tôi đang ở giữa tuyến đường nhiều làn, chầm chậm đổi làn để rẽ trái sang đường Flamingo. Quay lại khách sạn lấy đồ. Có đủ mọi lý do để tin rằng tôi đang chui đầu vào rắc rối, rằng tôi đã đẩy vận mệnh mình đi khá xa. Tôi đã lạm dụng quy tắc sống ở Vegas – chọc tức dân địa phương, gây rối với du khách, làm kinh sợ những người phục vụ.
Tôi chỉ hy vọng rằng có thể do chúng tôi đã vì công việc mà đi quá giới hạn như vậy, nên không ai ở vị trí quyền sinh quyền sát chúng tôi lại có thể tin được. Lại càng không, vì chúng tôi tham dự Hội nghị Cảnh sát. Khi muốn hành động gì ở thành phố này, thì nên hành động cho cực đoan. Đừng lãng phí thì giờ với hành vi rẻ tiền như là phanh đồ hay phạm mấy lỗi nhỏ. Cứ chơi thật mạnh tay vào. Cứ phạm những tội cho nghiêm trọng.
Thái độ ở Las Vegas hoang sơ thô lỗ đến mức một tội ác tày trời thực sự thường không được biết tới. Gần đây một hàng xóm của tôi ở một tuần trong nhà tù Vegas vì “lang thang.” Cậu ta tầm hai mươi tuổi: tóc dài, áo khoác Levi, ba lô – dân bụi kiểu mẫu, Người Lang Thang. Hoàn toàn vô hại; cậu ta chỉ lang thang khắp đất nước tìm kiếm cái mà tất cả chúng ta đều nghĩ rằng mình đã khám phá vào những năm Sáu mươi – một kiểu xê dịch của Bob Zimmerman thời đầu.
Trên đường từ Chicago đến LA, cậu ta tò mò về Vegas và quyết định tìm hiểu một chuyến. Chỉ đi qua thôi, vừa tản bộ và ngắm cảnh quan trên phố Strip… không vội vã, tại sao phải vội? Cậu ta đang đứng ở góc phố gần Circus–Circus, đang ngắm nhìn đài phun nước đa sắc, thì một xe cảnh sát dừng lại.
Ùm. Vào tù luôn. Không gọi điện, không luật sư, không tuyên lệnh. “Bọn họ cho tôi vào xe và đưa tôi thẳng vào trại,” cậu ta nói. “Bọn họ đưa tôi vào một phòng lớn đầy người và bảo tôi cởi hết quần áo rồi mới làm hồ sơ. Tôi đứng trước một cái bàn lớn, cao chừng mét tám, một cảnh sát đứng sau và nhìn tôi như quan tòa thời trung cổ.
“Căn phòng đầy người. Có lẽ hàng chục tù nhân; số cảnh sát thì nhiều gấp đôi, có khoảng mười cảnh sát là nữ. Người tù đi ra giữa căn phòng, móc mọi thứ trong túi ra và đặt lên bàn rồi lột hết quần áo – trong khi mọi người nhìn vào.
“Tôi chỉ có hai mươi đô, và hình phạt cho tội lang thang là hai lăm đô, nên họ cho tôi ra tòa cùng những người sẽ vào tù. Không ai làm phiền tôi. Nó giống như một dây chuyền lắp ráp.
“Hai gã ngay phía sau tôi cũng tóc dài. Dân chơi a–xít. Bọn họ cũng bị bắt vì lang thang. Nhưng khi bọn họ dốc hết túi ra, cả căn phòng náo loạn. Hai người có cả thảy 130.000 đô la, hầu hết là tiền mệnh giá lớn. Cảnh sát không tin nổi. Những gã này cứ lôi ra từng cục tiền và vứt trên bàn – cả hai bọn trọ trần truồng và hơi khom người, không hề nói gì.
“Cảnh sát phát rồ khi thấy đống tiền như thế. Bọn họ bắt đầu thì thầm với nhau; mẹ kiếp, đời nào bọn họ có thể giữ những kẻ này vì tội ‘lang thang[31].’” Cậu ta cười. “Nên họ buộc tội hai người nọ ‘bị tình nghi trốn thuế.’
“Bọn họ đưa chúng tôi hết vào tù, và hai gã đó điên lên. Bọn chúng là dân buôn, dĩ nhiên, và chúng còn hàng giấu trong khách sạn – nên bọ chúng phải ra tù trước khi cảnh sát phát hiện khách sạn chúng ở.
“Chúng cho tên cai ngục một trăm đồng để đi tìm luật sư giỏi nhất thành phố… và hai mươi phút sau có ngay luật sư, gã này ba hoa gì đó về habeas corpus[32] hay cái cứt gì đấy… trời ơi, tôi đã cố nói với gã, nhưng gã đó đúng là thiển cận. Tôi đã bảo hắn tôi có thể trả tiền bảo lãnh, thậm chí trả thù lao nếu bọn họ để tôi gọi cho ông bô ở Chicago, nhưng hắn ta còn mải bán mình cho hai tên kia.
“Chừng hai tiếng sau, gã luật sư quay lại cùng một tên bảo vệ và nói ‘Đi thôi.’ Chúng được ra. Trong khi bọn chúng đợi, một gã bảo tôi chúng tốn mất 30.000 đô… và tôi cũng nghĩ vậy, nhưng cái quái gì thế? Thế còn rẻ, so với chuyện sẽ xảy đến nếu chúng không ra khỏi trại.
“Cuối cùng họ để tôi gửi một bức điện cho ông già tôi và ông ấy gửi cho tôi 125 đô… nhưng mất bảy hay tám ngày mới đến; tôi không chắc mình ở đó bao lâu, vì nơi đó không có cửa sổ và bọn họ cho chúng tôi ăn mỗi mười hai tiếng đồng hồ… khi không nhìn thấy mặt trời, con người ta mất dấu thời gian.
“Họ giam bảy mươi lăm gã trong mỗi phòng giam, phòng lớn có bồn vệ sinh ngay ở giữa. Khi anh vào, họ phát cho một tấm thảm, và anh thích ngủ đâu thì tùy. Gã cạnh tôi đã ở đó ba mươi năm, vì cướp ở một trạm xăng.
“Khi cuối cùng tôi được ra, bọn cớm ngồi ở bàn lấy hai lăm đô nữa trong số tiền ông già tôi gửi, bảo số tiền đó là phạt tôi lang thang. Tôi nói gì được đây? Hắn cứ lấy. Rồi hắn đưa tôi 75 đô tiền thừa và nói họ đã gọi taxi chờ bên ngoài, để chở đến sân bay… Và khi tôi lên taxi, tài xế nói, ‘Chúng ta sẽ không dừng nghỉ, anh bạn ạ, tốt hơn đừng động đậy gì cho tới đến sân bay.’
“Tôi không cử động lấy một li. Nếu không thì hắn đã bắn tôi. Tôi dám chắc như thế. Tôi lên thẳng máy bay và không nói một lời với ai cho đến khi biết mình đã ra khỏi Nevada. Trời ơi, đó là nơi tôi sẽ không bao giờ quay lại.”