Số lần đọc/download: 0 / 3
Cập nhật: 2021-08-28 15:43:54 +0700
Chương 22: Chuyện Ảnh Hưởng Tới Nhận Thức Của Mục Sư
V
ào buổi chiều Pollyanna chuyện trò với ông John Pendleton về Jimmy Bean, Mục sư Paul Ford đã vượt đồi tới khu rừng Pendleton. Ông hy vọng vẻ đẹp và sự yên tĩnh của khu rừng sẽ gột rửa những xáo động ầm ĩ của các con chiên.
Năm qua, khu vực giáo xứ ông quản lí không còn yên ổn. Đôi khi, Mục sư cảm thấy mệt mỏi và bất lực. Những cuộc tranh cãi, nói xấu nhau nổ ra thường xuyên. Nhiều lần, Mục sư phải đứng ra hòa giải những vụ bê bối do thói đố kị giữa những người trong giáo khu gây nên. Ông đã khiển trách những người hay gièm pha gây mất đoàn kết. Trước những vấn đề tồi tệ, mục sư tha thiết khẩn cầu đức Chúa giúp ông. Đối mặt với những chuyện đau đầu, ông rất khổ tâm.
Hai trợ giáo đắc lực của Mục sư Ford đang bất hòa. Còn ba thành viên cốt cán của Hội bảo trợ đã phải đệ đơn xin rời tổ chức chỉ vì miệng lưỡi của những kẻ gièm pha đã thổi bùng lên một vụ tai tiếng lớn. Đội hợp xướng của nhà thờ tan đàn xẻ nghé chỉ vì một thành viên được phân bổ đoạn lĩnh xướng dài hơn người khác. Ngay cả cộng đồng công giáo Endeavour cũng xáo trộn bởi những lời phê phán không thương tiếc của hai giáo chức. Việc người quản lý giáo khu và hai thầy giảng từ chức tại trường học Chủ nhật như giọt nước làm tràn ly, buộc vị Mục sư phải cuốc bộ tới khu rừng để cầu nguyện và tĩnh tâm.
Dưới những tán cây xanh, Mục sư Paul Ford quyết định phải đối mặt với mọi chuyện. Cơn khủng hoảng này buộc ông phải có những biện pháp cương quyết. Mục sư đang phải đương đầu với một sự thật không tốt đẹp gì. Đã có lúc ông hoang mang dao động. Tĩnh tâm lại, ông thấy mình cần phải có biện pháp xua tan những lời gièm pha, kích động và ngăn chặn không cho việc xấu lan tỏa. Biết rằng phải khẩn trương nhưng mục sư vẫn chưa tìm được giải pháp hữu hiệu. Nhiều công việc của nhà thờ bị ngừng trệ. Những buổi lễ Chủ nhật, những buổi cầu nguyện, những buổi tiệc trà của Hội truyền giáo và ngay cả các bữa tối tập thể cũng thưa khách dần. Một số giáo chức tận tâm vẫn ở lại giáo hội nhưng họ thường không tìm được tiếng nói chung trong mọi công việc của nhà thờ và phải luôn dè chừng những con mắt xét nét, những cái miệng luôn đưa chuyện xung quanh.
Là người thực hiện sứ mệnh cao cả của đức Chúa, Mục sư Paul Ford phải tìm cách đưa giáo xứ của mình ra khỏi sự bế tắc. Nhưng làm thế nào đây?
Mục sư chậm rãi lôi từ túi ra bản nháp bài thuyết giáo cho chiều Chủ nhật tới. Với vẻ mặt cứng rắn, khóe miệng nghiêm nghị, giọng nói đầy uy lực, vị mục sư đọc lớn những câu kinh mà ông cho rằng cần được truyền dạy tới giáo dân ngay lúc này.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa Nước trời không cho người ta vào, vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào.”
“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà góa, bởi thế, các ngươi sẽ chịu sự phán xét nặng hơn!”
Giữa rừng bạt ngàn, giọng Mục sư vang lên gay gắt khi ông đọc bản cáo trạng. Những chú chim và sóc trên cây lặng im đầy vẻ kính cẩn. Được tiếp thêm sức mạnh từ những lời lẽ hùng hồn, Mục sư càng thêm vững lòng tin. Chủ nhật tới, bài thuyết giáo của ông sẽ một lần nữa vang lên giữa thánh đường tôn nghiêm.
Song những kẻ bị tố cáo ấy lại chính là đám con chiên trong giáo xứ. Lẽ nào ông nên thẳng tay trừng phạt họ? Bài thuyết giáo có cần phải gay gắt đến mức đó không? Mục sư tha thiết cầu xin đức Chúa dẫn đường chỉ lối để ông vượt qua khó khăn này. Liệu đây có phải là biện pháp đúng đắn mà ông đang tha thiết cầu mong không?
Ông gấp bản nháp lại và bỏ vào túi. Nén tiếng thở dài, ông gieo người xuống một gốc cây và úp mặt vào lòng bàn tay.
Trên đường từ nhà ông Pendleton về, Pollyanna đã trông thấy Mục sư. Cô bé chạy lại phía ông rồi hốt hoảng kêu lên:
“Bác Ford ơi, bác làm sao thế? Không phải là bác bị trật chân chứ ạ?”
Mục sư vội ngẩng lên. Ông cố nở nụ cười trả lời:
“Ồ, bác không sao. Bác chỉ ngồi nghỉ một lúc cho đỡ mệt cháu gái ạ.”
Pollyanna cúi xuống, khẽ thở dài thốt lên: “Vậy mà cháu cứ tưởng bác bị đau chân. Cháu đã bắt gặp bác Pendleton bị gãy chân ở khu rừng này. Bác ấy không ngồi được như bác đâu.”
“Bác không đau chân mà đau ở chỗ khác. Có lẽ bác sĩ cũng không chữa được.”
Mặc dù giọng Mục sư rất trầm nhưng Pollyanna vẫn nghe rõ. Một nét thay đổi lướt nhanh trên mặt em. Đôi mắt em ánh lên sự cảm thông thầm kín. Pollyanna nhẹ nhàng nói:
“Cháu hiểu được ý của bác. Chắc có điều gì làm bác phiền lòng lắm. Trước đây cha cháu cũng thường phải suy nghĩ những chuyện khó xử trong giáo xứ. Cháu nghĩ các vị Mục sư đều trải qua sự bất bình khi gặp những điều không hay bác ạ. Vì trọng trách của họ rất lớn.”
Nghe vậy, Mục sư Paul Ford ngạc nhiên quay lại. Ông kêu lên:
“Cha cháu là mục sư à?”
“Vâng ạ. Cháu tưởng bác biết cha cháu. Mẹ cháu là chị gái dì Polly. Bác biết dì cháu chứ ạ?”
“Bác biết... cháu cũng thấy đấy, bác mới về đây, chưa có thời gian đi sâu tìm hiểu.”
“Vâng ạ.” Pollyanna mỉm cười nói.
Sự im lặng kéo dài. Dường như Mục sư Paul Ford đã quên khuấy cô bé. Ông lại lôi trong túi ra tập giấy nháp bày trước mặt nhưng không đọc chữ nào. Ông đăm đăm nhìn chiếc lá úa trên mặt đất cách chỗ ông ngồi không xa. Pollyanna vẫn nhìn Mục sư với ánh mắt thương cảm. Cô bé tha thiết muốn kéo ông ra khỏi dáng vẻ đăm chiêu, phiền muộn ấy. “Cháu thấy thời tiết hôm nay đẹp hơn hôm qua bác ạ.”
Niềm hi vọng của em vẫn lắng chìm trong im lặng. Một lúc sau, Mục sư mới ngước nhìn Pollyanna và hỏi giọng ngơ ngác:
“Cháu nói sao cơ? À, đúng là tiết trời hôm nay đẹp thật!”
“Hôm nay không lạnh lắm bác nhỉ? Bác Pendleton đã đốt lò sưởi, nhưng chỉ là để ngắm ánh lửa thôi bác ạ. Cháu rất thích ngắm ánh lửa reo vui trong lò. Bác cũng thích phải không bác?”
Mặc cho Pollyanna chờ đợi, Mục sư vẫn im lặng theo đuổi ý nghĩ của mình.
“Thưa bác, sao bác lại trở thành Mục sư ạ?” Pollyanna tiếp tục cố gắng bắt chuyện, lần này đổi sang chủ đề khác.
Mục sư ngước nhìn cô bé thật nhanh. Ông ngạc nhiên hỏi: “Cháu gái, sao cháu lại hỏi bác điều đó?”
“Bác thấy lạ ư? Vì việc gặp bác hôm nay khiến cháu nhớ cha cháu. Đôi lúc ông cũng có ánh nhìn như ánh nhìn của bác ban nãy.”
“Vậy à?” Vị Mục sư lịch thiệp đáp lời, ánh mắt vẫn hướng về chiếc lá khô trên mặt đất.
“Vâng ạ. Cháu thường hỏi cha cháu rằng người có thích công việc của một Mục sư không?”
Dưới bóng cây, khuôn mặt vị Mục sư thấp thoáng nụ cười buồn bã: “Cha cháu đã trả lời thế nào?”
“Cha cháu trả lời có, cha cũng hay nói rằng được vậy là nhờ có những ‘câu kinh tươi vui’.”
“Cháu nói sao?” Rời mắt khỏi chiếc lá khô, Mục sư ngạc nhiên nhìn gương mặt rạng rỡ của Pollyanna.
Pollyanna cười lớn: “Kinh Thánh không gọi như vậy đâu ạ, là cha cháu đã tự đặt cái tên đó cho những câu kinh bắt đầu bằng ‘Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn’, ‘Hãy mừng vui hoan ca’ và còn nhiều nữa. Có một lần cha cháu gặp chuyện phiền muộn, cha đã đếm cả thảy có tám trăm câu kinh tươi vui đấy bác ạ!”
“Tám trăm?!” Mục sư kêu lên sửng sốt.
“Vâng, thưa bác. Tám trăm câu kinh nhắc người ta hãy vui lên. Đó là lí do cha cháu gọi chúng như vậy.”
“Ồ!” Ông thốt lên rồi hướng cặp mắt chăm chú vào trang giấy ông đang cầm. Câu đầu tiên đập vào mắt ông: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Bất hạnh sẽ đến với các ngươi.”
“Vậy là cha cháu đã chọn để thích những ‘câu kinh tươi vui’.” Mục sư khẽ nói.
“Vâng ạ.” Pollyanna hào hứng gật đầu, “Cha cháu bảo ngay lúc cha đếm chúng, mọi phiền muộn trong lòng ông đều nhẹ bớt. Bởi nếu Chúa đã nhắc với chúng ta tới tám trăm lần rằng hãy vui lên, thì hẳn Người thực sự muốn chúng ta làm thế. Cha cháu còn thấy hổ thẹn vì đã không làm theo ý Chúa thường xuyên hơn. Từ đó, những câu kinh tươi vui luôn là nguồn an ủi cho cha cháu, kể cả cái lần các bà trong Hội bảo trợ cãi nhau om s... - ý cháu là bất đồng ý kiến.” Pollyanna cuống cuồng chữa lại. “Cha cháu đã chỉ cháu bày trò chơi với những cặp nạng gỗ, song chính ‘câu kinh tươi vui’ mới là khởi nguồn của trò chơi đấy bác ạ!”
“Cha con cháu chơi trò chơi gì vậy?” Mục sư ngạc nhiên hỏi.
“Trò chơi truy tìm niềm vui trong tất thảy mọi điều cuộc sống đem đến cho ta, bác ạ. Lần đầu tiên cháu được cha chỉ cho cách chơi là với những chiếc nạng. Trò chơi này tuy khó, nhưng thú vị lắm.”
Pollyanna kể cho mục sư nghe về trò chơi nhỏ của mình. Ông chăm chú lắng nghe với ánh mắt dịu dàng, đầy xúc cảm.
Một lúc sau, hai bác cháu nắm tay nhau xuống đồi. Gương mặt Pollyanna ngời sáng. Cô bé muốn kể nhiều chuyện về cuộc sống của hai cha con nhưng thời gian không cho phép. Tới chân đồi, con đường chia đôi. Hai bác cháu mỗi người một ngả.
Tối hôm ấy, Mục sư Paul Ford đã ngồi suy nghĩ rất lâu trong phòng. Tập giấy ghi bài giảng của ông đang để trên bàn. Cây bút chì đã rời khỏi tay ông. Vài trang giấy trắng nằm hờ hững. Mục sư không còn để ý đến bài thuyết giáo mình đã viết. Tâm trí ông lúc này hiện rõ nét hình ảnh một vị Mục sư nghèo, đơn độc ở một thị trấn nhỏ thuộc miền Tây - người phụng sự tận tụy của Chúa, người cầu kinh miệt mài đã thấu thị lời dạy của đấng toàn năng tới con người: hãy hướng tới ánh sáng và niềm vui.
Sau một lúc thả trôi tâm trí về miền Tây xa xôi, Mục sư thở dài quay về với thực tại. Ông xếp lại tờ nháp dưới tay mình rồi viết:
“Mathew 23:13 - 14 và 23,” mới viết đến đó, ông lại thấy nóng ruột đặt cây bút chì xuống và kéo cuốn tạp chí vợ ông để trên mặt bàn lại gần. Ánh mắt mệt mỏi của ông lơ đãng lướt sơ từ mục này sang mục khác rồi dừng lại trước một câu chuyện: “Một ngày, người cha nghe được đứa con trai từ chối đi nhặt củi giúp mẹ, ông liền gọi con ra và hỏi: ‘Tom, cha biết là con luôn vui lòng giúp đỡ mẹ một việc nhỏ như đi nhặt củi, phải không con trai ngoan?’ Đứa trẻ lập tức vâng lời. Sự thẳng thắn và chân thành trong kỳ vọng của người cha muốn con mình làm điều đúng đắn đã phát huy tác dụng. Giả sử người cha dùng những lời như: ‘Tom, sáng nay cha đã nghe thấy con trái lời mẹ. Thật xấu hổ khi có đứa con như mày! Giờ thì có đi lấy củi ngay không?’, Có lẽ cái gùi đựng củi vẫn sẽ còn nằm trơ trọi ở đó.”
Ông Mục sư đọc lướt từng câu rồi dừng ở đoạn kế tiếp: “Người nào cũng cần sự động viên, cả mục sư cũng vậy. Thay vì nhắc đi nhắc lại thói xấu của ai đó, hãy khơi dậy những đức tính tốt đẹp của họ, để họ cảm thấy được khích lệ và tự sửa đổi mình. Hãy đẩy họ ra khỏi lối mòn của những thói xấu cố hữu. Ai cũng biết một tâm hồn hướng thiện và luôn đầy hi vọng sẽ có sức mạnh cảm hóa lớn đến thế nào. Đó là điều tốt đẹp lan truyền và có khả năng thay đổi cả một thị trấn. Con người luôn phát lộ những điều trong tâm can họ. Khi một người sống với tấm lòng rộng mở và chân thành quan tâm tới người khác, chẳng bao lâu sau, người hàng xóm cũng sẽ mở lòng với anh ta. Nhưng nếu người đó hay lớn tiếng rầy la và phán xét, những gì anh nhận lại được sẽ chỉ là sự gièm pha từ người hàng xóm. Người ta rồi sẽ có được điều mà mình chủ tâm tìm kiếm: hãy để chúng luôn là những hạt giống tốt đẹp. Giống như người cha luôn tin cậu con trai Tom là đứa trẻ ngoan, biết thương cha mẹ!”
Mục sư hạ tờ báo xuống, ngồi chống cằm một lúc, rồi đứng lên đi đi lại lại trong phòng. Sau vài phút, ông lại thở dài và buông mình xuống ghế. Ông thì thầm cầu khẩn: “Xin đức Chúa mở lượng hải hà và cứu giúp kẻ tôi tớ của Người! Những con dân ở giáo xứ này, cũng như cậu bé Tom, cần một sự khích lệ chân thành. Con sẽ kiên nhẫn chỉ bảo, khích lệ họ làm tốt công việc của mình; để họ say mê, vui sướng với công việc đó và từ bỏ thói quen xấu dòm ngó cái gùi chứa củi nhà hàng xóm!” Dứt lời, Mục sư cầm những tờ giấy ghi bài thuyết giáo của mình xé đi. Mặt ghế đầy giấy vụn với những hàng chữ: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Bất hạnh sẽ đến với các ngươi...” Bút chì của ông rơi xuống sàn, sau khi đã gạch một đường dứt khoát trên dòng chữ “Mathew 23:13, 14 và 23”.
Và như vậy, bài giảng của Mục sư Paul Ford vào Chủ nhật sau đó sẽ còn được nhắc lại nhiều lần trong giáo xứ, như một hồi kèn chạm tới những đức tính thuần khiết, thiện lương nhất luôn tồn tại bên trong mỗi người đàn ông, đàn bà, con trẻ có mặt ngày hôm đó nghe ông thuyết giáo. Người ta sẽ còn nhớ mãi những lời từ vị Mục sư, mà ông gọi đó là một trong tám trăm câu kinh tươi vui, ấm áp - như cái tên Pollyanna đã chỉ cho ông: “Hãy mừng vui nơi Chúa, hỡi người công bình! Hãy reo mừng hoan ca, hỡi người có lòng ngay thẳng!”