Số lần đọc/download: 2709 / 17
Cập nhật: 2016-07-13 10:12:07 +0700
Chương 22
N
gày 30 tháng 5 năm 1816. Nghị viện
Luân Đôn Hiệp sĩ Garter, người chịu trách nhiệm cho các nghi lễ trong Nghị viện, đang đau khổ trước ngày mới. “Anh phải bắt tất cả bọn họ xếp hàng vào phòng,” ngài Henry Gismond cáu kỉnh nói với vợ, đĩa bánh mỳ nướng và mứt cam để trước mặt. “Tất cả gần hai trăm người, họ sẽ đi lại lung tung, đặc biệt là những người lớn tuổi. Anh ghét những nghi lễ trang trọng như thế, ghét thật sự.”
Phu nhân Gismond gật đầu. Bà biết rằng Henry thân yêu của bà ghét những dịp như vậy, dù ông rất thích cơ hội thể hiện bản thân với tư cách trưởng cố vấn cho Hoàng gia về các vấn đề lễ nghi và tước hiệu. “Đó là một sự kiện hết sức buồn thảm. Bá tước Islay là một chàng trai trẻ dễ mến, trên mọi phương diện. Anh không thích nghĩ đến cảnh anh ta mất tích trên đại dương dữ dội.” “Những gã sâu rượu sẽ gây ra nhiều rắc rối nhất.” Gismond tiếp tục dòng suy nghĩ của mình, “Em sẽ chẳng bao giờ đoán được có bao nhiêu gã giấu bình rượu dưới áo choàng đỏ. Sốc lắm. Thỉnh thoảng anh phải kìm chế lắm mới không gõ vào mu bàn tay họ.”
“Hôm nay họ sẽ không say xỉn đâu,” vợ ông nói một cách quả quyết, “Có mấy khi một quý tộc bị tuyên bố đã mất tích và chết đâu? Và Phu nhân Islay cũng sẽ có mặt. Em chắc chắn tất cả mọi người sẽ tôn trọng sự đau khổ của cô ấy khi phải tạm biệt người chồng trẻ của mình. Họ vẫn nói đó là một cặp yêu nhau, anh biết đấy.” Cần có thêm sự giúp đỡ của bảy vị quan phụ trách nhưng Gismond cũng đã chỉ huy các quý tộc vào hàng, sẵn sàng đi vào Nghị viện – công tước sánh đôi cùng công tước, các bá tước đi cùng nhau. “Như thuyền của Noah,” Gismond lẩm bẩm, không phải lần đầu tiên. “Ngài phải đứng đúng vị trí,” ông nói, đặt tay lên một quý tộc già nua và nghễnh ngãng.
Cuối cùng ông cũng có thể thở dài nhẹ nhõm khi tiếng kèn trumpet chính thức kêu gọi các quý tộc tiến vào, và ông sải bước qua cửa như một con vịt mẹ oai vệ dẫn hai hàng vịt con quàng quạc. Ánh nắng tràn vào qua các ô cửa sổ vòm cao, phản chiếu lên hai chiếc đèn chùm mạ vàng treo trên trần nhà. Nói chung, khi đứng ở trên cao và quay lưng lại, ông chứng kiến một cảnh tượng khá huy hoàng trước mắt khi những quý tộc mặc áo đỏ tía… và áo khoác lông chồn ngồi vào ghế. Ngài Fippleshot có vẻ đã quên kính, Công tước Devonshire đang vẫy tay về phía các hàng ghế đang được các nữ quý tộc ngồi chật kín. Nhưng tổng thể thì tất cả đều đang đi đúng hàng, có vẻ không có ai uống quá nhiều brandy trong bữa trưa.
Đáng buồn thay, căn phòng này chỉ mang bầu không khí đông đúc, phấn khích này khi chủ đề cần xử lý liên quan đến cái chết – ví dụ như một quý tộc bị buộc tội giết người, hoặc bị xem là đã chết, như hiện thời. Các nữ quý tộc cũng chỉ thường xuất hiện với những vấn đề liên quan đến di chúc và con hoang. Những cuộc bỏ phiếu cai trị đất nước thì lại thường chẳng có mấy ai thèm xuất hiện. Nhưng đó là một ý nghĩ không phù hợp, và ông gạt nó đi. Tiếng kèn tạm dừng lại, một vị quan phụ trách đi lên lối đi giữa các hàng ghế, Nữ Bá tước Islay trẻ tuổi theo sau. Giờ cô ta sẽ không bao giờ trở thành nữ công tước nữa, Gismond tự nhắc mình, cảm thấy hơi thương cảm. Nhưng rồi, Phu nhân Gismon – người đọc các tờ báo lá cải với sự chú tâm mà vài người dành cho Kinh Thánh và giấy phép đua ngựa – bám chặt với ý nghĩ nữ công tước sẽ tái hôn. “Cô ấy cần có một người đàn ông của riêng mình,” Phu nhân Gismond đã nói sáng hôm đó, “Không hề nghe thấy một tin đồn nào về cô ấy, nhưng người phụ nữ tội nghiệp đó sẽ không có con cái nếu chuyện này tiếp diễn.”
Tất cả quý tộc đứng dậy khi nữ bá tước, cả người mặc đồ tang, đi lên trước và cúi chào, đầu tiên là chào khách đến nghe, rồi chào các quý tộc nam, rồi chào ngài Chacellor. Sau khi hoàn thành nghi thức, cô về chỗ dành riêng cho các nữ quý tộc và ngồi cạnh và Pinkler-Ryburn. Gismond nheo mắt nhìn cô ta vì vợ ông sẽ đòi biết chi tiết về mọi bộ đồ của cô ta khi ông về nhà. Nhưng Gismond không thấy có gì khác thường. Cô ta cao ráo và có vẻ gầy, dù cũng khó nói vì có lẽ cô ta mặc bốn đến năm váy lót. Cô ta nổi bật như một chấm đen giữa một đám vàng lấp lánh. Không bị buộc phải mặc áo choàng đỏ, các nữ quý tộc có xu hướng chưng của cải lên người, các hàng ghế dành cho họ sáng lấp lánh.
Chấp hành viên toà án yêu cầu im lặng, và họ tiến hành các thủ tục mở màn (từng giây từng phút đều làm tâm hồn yêu nghi lễ của Gismond sung sướng). Cuối cùng, ông quỳ xuống và đưa cho ngài Chancellor quyền trượng. Ngài Chancellor ngồi trên ghế Woolsack, một chiếc ghế không lưng giống như ngai vàng, cao hơn các quý tộc đang khoác áo màu đỏ và vàng ngồi trên những băng ghế đỏ phía dưới.
Ông đứng dậy. “Thay mặt cho các giáo sĩ và quý tộc đáng kính trong Nghị viện,” ông nói, giọng dễ dàng vang khắp đại sảnh rộng lớn, “Chúng ta họp mặt tại đây để giải quyết một nhiệm vụ trang nghiêm – quyết định xem có nên tuyên bố rằng bị quý tộc đáng kính, người bạn của chúng ta, Bá tước Islay – người thừa kế chức Công tước Ashbrook – đã bị mất tích trên biển. Chúng ta khoác lên người áo choàng đỏ và lông chồn lộng lẫy này để tôn vinh ngài Islay, để xử lý đơn đệ trình ‘Chết không rõ tung tích’ từ người thừa kế đau khổ của ngài, ông Cecil Pinkler-Ryburn, người đã bày tỏ nỗi đau khổ sâu sắc trước sự kiện đáng tiếc này.” Tiếng xì xào tán thành vang lên, và Pinkler-Ryburn bồn chồn nhúc nhích trên chiếc ghế ngay bên dưới Gismond, còn ông thì tự động tính toán xem cần bao nhiêu lông chồn để trang trí chiếc áo choàng đỏ phủ lên chiếc bụng vĩ đại khi anh ta trở thành công tước. Nhưng đánh khen cho Pink (như cách mọi người hay gọi anh ta), anh ta không hề có vẻ hân hoan hay vui sướng.
“Chúng ta sẽ trao tước vị Công tước Ashbrook cho vị quý tộc vắng mặt như một phép lịch sự,” ngài Chancellor tiếp tục, “vì người cha đáng kính của chàng trai ấy đã mất khi ngài ấy rời khỏi Anh quốc và hẳn là sau khi ngài ấy đã chìm dưới sóng biển. Do đó, Bá tước Islay trẻ tuổi chưa hề nhận danh hiệu cũng như nghĩa vụ đi kèm với vị trí người thừa kế, và cũng chưa từng ngồi cạnh chúng ta, trong Nghị viện.” Ông ta ngừng lại lấy hơi và để ước lượng tầm ảnh hưởng của câu nói của mình.
“Vợ ngài ấy không thể để tang trong lúc ngài ấy mất tích,” nói đến đây ông nhìn sang ghế ngồi của nữ bá tước một cách hiền hậu, “và không thể nhận nghĩa vụ và trách nhiệm của một nữ công tước, trong lúc ấy cũng không có được sự tự do và quyền lợi của một góa phụ. Hơn thế, điền sản công tước không có bàn tay dẫn dắt của chủ nhân.” Gismond nghe thấy điều ngược lại; trên thực tế, phần lớn mọi người đều biết về bàn tay dẫn dắt của nữ công tước khiến nhà máy dệt Ryburn thành công. Vợ ông đã bọc lại phòng khách bằng vải Ryburn, và chúng tốn khá nhiều tiền.
Giờ ngài Chancellor đang đề nghị thảo luận về đơn tuyên bố Công tước Ashbrook đã chết không rõ tung tích. Như dự đoán, người thừa kế công tước, Cecil Pinkler-Ryburn, xin phép được nói trước hội đồng. Anh ta đi lên và nhìn khắp phòng, chưa lên tiếng. Anh ta có một vẻ kiêu hãnh kỳ lạ, dù béo phì và khá mờ nhạt. “Tôi hết sức đau đớn, và tôi nói vậy một cách thật lòng, khi phải xem xét việc tuyên bố người anh họ đáng mến của tôi đã ra đi như thế này. Tôi chỉ tán thành động thái này theo yêu cầu của Phu nhân Islay. Trong khi tôi muốn trốn tránh các nghĩa vụ và trách nhiệm của điền sản công tước thì tất nhiên, cô ấy muốn được thoát khỏi trách nhiệm nặng nề mà cô ấy phải gánh vác khi chồng cô ấy mất tích.”
Mọi người trong phòng dường như đều cảm thấy anh ta nói năng thích đáng, vì tiếng rì rầm vui vẻ vang lên cũng như rất nhiều nữ quý tộc gật đầu tán thành. Sau đó hội đồng nghe trình bày từ đại diện ủy ban đã xem xét đơn của Pinkler-Ryburn. Ông ta nêu lên rằng đã có tổng cộng hai mươi thám tử Bow Street được thuê tới những địa điểm khác nhau trên thế giới sau khi bị bá tước trẻ tuổi mất tích vài năm, và tin tức về ngài ấy hết sức mơ hồ.
Vì không còn gì để trình bày, ngài Chancellor lại bước lên trước, cầm quyền trượng trog tay phải, “Chắc chắn rằng chúng ta đánh giá cao tình cảm của ông Pinkler-Ryburn, vì tước vị công tước Anh quốc được truyền cho một quý ông luôn đi cùng với sự thương tiếc và đau khổ dành cho người tiền nhiệm.” Nghe thấy điều đó, tiếng cười ngay lập tức vang lên ở nhiều chỗ trong phòng, có vẻ như các khán giả đã chứng kiến không chỉ một tước vị được tiếp nhận với vẻ hạnh phúc chứ không phải đau buồn.
Ngài Chancellor lờ đi sự bất lịch sự này, “Hội đồng này cũng như toàn Anh quốc không thể ngăn cản bước đi của thời gian, cũng như không thể tác động tới chuyển động của thủy triều hay chu kỳ của Trái Đất.” Nữ Bá tước Manderbury đeo những sợi lông đà điểu dài ngoằng uốn xuống gáy và liên tục chọc vào mặt của Phu nhân Bury St.Edmond. Gismond nheo mắt. Chắc chắn ánh bạc kia không phải là chiếc kéo thêu nằm trong tay Phu nhân Bury St.Edmond đấy chứ?
Gismond kìm chế khao khát nhìn vào chiếc đồng hồ mà ông đã bí mật giấu dưới thắt lưng, và lắng nghe giọng nói mạnh mẽ của thượng cấp – người đã chuyển từ thủy triều sang đấng tối cao. Nhưng vào khoảnh khắc đó có một chuyện xảy ra, một sự kiện mà Gismond đã kể đi kể lại suốt cuộc đời còn lại. Nó bắt đầu với sự náo động ở cuối phòng, nơi các vệ binh hoàng gia đang canh gác phòng trường hợp một vị quý tộc lạc đường vào trễ. (Một hành động đáng chỉ trích, nhưng đã từng xảy ra.)
Nhưng chắc chắn người đến muộn không phải là quý tộc. Người đang bước đi giữa các hàng ghế hiện giờ là một kẻ xâm nhập trái phép – một người đàn ông mặc quần bó đen tuyền và áo khoác, không găng tay, và không tóc giả. Ngài Chancellor khựng lại khi đang tả cảnh vòng tay của thiên đường ôm lấy vị quý tộc mất tích.
Gismond do dự bước lên trước. Ông nên quẳng gã ta ra khỏi phòng. Nhưng ông không phải người hành xử bạo lực, giơ một tay lên, ông nhìn xuống các vệ binh ở cuối phòng. Nhưng họ đứng thẳng, mắt cụp xuống. Cảm giác giận dữ này đến, theo sau là cảm giác bối rối – họ đã được đào tạo bài bản và đáng nhẽ chỉ mang thái độ đó khi có một thành viên của giới quý tộc tiến vào. Gismond cảm thấy mình trở nên trắng bệch. Có phải một tay phóng viên đã lừa đảo để đi qua vệ binh vào cửa hay không?
Ông ưỡn thẳng vai lên và chuẩn bị hành động. Người đàn ông đang đứng ở đầu phòng, và sải một bước dài để tiến lên bục.
Anh ta vạm vỡ, hết sức vạm vỡ, dù vậy đi nữa, ngài Henry Gismond biết rằng đây là khoảnh khắc quyết định trong đời ông. Ông phải chứng tỏ mình xứng đáng với vị trí này và ngăn sự hỗn loạn xảy ra trong buổi lễ. Kỷ niệm về vị bá tước trẻ tuổi phụ thuộc vào đó. “Xin ngài hãy rời khỏi căn phòng này,” ông nói, nâng giọng át tiếng kêu lo lắng dường như đang vang vọng khắp các bức tường của căn phòng này.
Anh ta nhìn ông và Gismond ngập ngừng lùi lại một bước. Mái tóc của kẻ xâm nhập chỉ dài đến chớm tai. Da nâu như quả hạch, và ngay dưới mắt phải là dấu ấn của một kẻ hoang dã. “Thề có Chúa, đây không phải là chỗ dành cho một kẻ mọi rợ từ châu Mỹ,” ngài Chancellor rống lên, “Anh kia, hãy trở lại nơi đã đưa anh tới đất nước này!”
Chỉ đáp lại bằng một nụ cười khoe hàm răng trắng, anh ta quay lại để đối mặt với toàn bộ hội đồng. Nhưng anh ta vẫn giữ im lặng. Gismond thấy rằng đến các vị khách cũng đã đứng hết dậy, rướn người xuống nhìn. “Trật tự!” ngài Chancellor hét lên, “Mời mọi người ngồi xuống để chúng ta còn khám phá ý nghĩa của hành động quấy phá này.”
Tiếng kêu lo lắng không giảm xuống nhưng các quý tộc bắt đầu ngồi xuống. Và suốt lúc ấy kẻ xâm nhập chỉ đứng im trước mặt họ, miệng nhếch lên cười một cách kỳ cục. Tâm trí Gismond chạy đua. Ông từng nghe giai thoại về những người Anh-điêng ở châu Mỹ, về sức mạnh và sự xảo trá của họ. Ông thậm chí còn từng nhìn thấy rìu và áo làm từ da được đem ra trưng bày. Nhưng gã thổ dân này có vẻ không mang vũ khí. Vì cái…
Dòng suy đoán của ông bị cắt ngang. “Không ai nhận ra tôi sao?” người đàn ông hỏi. Gismond chưa từng nghe thấy một giọng nói như vậy – mạnh mẽ, trầm, một tiếng gầm rung lên trong không khí như tiếng gấu gầm. Chỉ có điều dù rất thô ráp, giọng nói đó vẫn mang chất quý tộc Anh không thể nhầm lẫn. Phụ âm không sai vào đâu được. Giờ cả căn phòng chìm vào sự im lặng chết chóc.
Qua khóe mắt, Gismond thấy ngài Chancellor run run, bị giằng xé giữa quyền lực và cơn sốc mạnh mẽ đến mức ông ta… như mọi người khác trong phòng… chờ đợi xem điều gì sẽ diễn ra sau đó. “Cân nhắc đến việc các ngài vừa hết sức đau buồn khi phải chôn tôi dưới mồ nước,” anh ta nói thêm, quay đầu lại với ngài Chancellor, “tôi cứ nghĩ mình sẽ được nhận ra chứ.”
Ngài Chancellor kêu the thé như lợn con, “Không thể!” “Hoàn toàn có thể,” kẻ xâm nhập đáp lại. Anh ta có vẻ thích thú. “Ngài thấy đấy, vòng tay thiên đường chưa ôm tôi vào lòng.”
Một loạt tiếng kêu phấn khích vang lên sau nhận xét này. Gismond nghểnh cổ để nhìn nữ công tước đang ngồi trên khán đài. Theo ông thấy thì vị công tước mất tích… nếu thật sự là vậy… không nhận ra các nữ quý tộc cũng có mặt ở đây, anh ta chưa hề nhìn về phía họ. Nhưng Gismond chỉ nhìn thoáng thấy mặt cô ta, trắng như giấy da. Rồi Pinkler-Ryburn đứng dậy và lại leo lên bục. Dù người đàn ông tự nhận là công tước hung hãn hơn hẳn, Pinkler-Ryburn vẫn có một vẻ đường hoàng kỳ lạ.
“Tôi không nhận ra ngài,” anh ta nói bằng giọng cẩn trọng và kính cẩn, như cách người ta đối xử với một con sư tử vừa đột nhiên nói bằng tiếng Anh rằng nó muốn ăn bạn. “Chúng ta không thân nhau lắm,” anh ta đáp.
“Nếu ngài thật sự là công tước thì giọng ngài đã thay đổi đến mức không thể nhận ra.” “Bị cắt họng khiến anh như thế đấy.” Anh ta ngửa đầu ra sau. Cả phòng thở dốc khi mọi người nhìn thấy một vết sẹo ghê gớm chạy gọc dọc cổ họng màu nâu của anh ta như một chiếc cà vạt.
Gismond có thôi thúc muốn ôm chặt cổ mình, nhưng may mà kịp thời nhớ ra vẻ đẹp tinh khôi của chiếc cổ áo được hồ phẳng. “Ngài đã ở đâu trong bảy năm qua?” Pinkler-Ryburn hỏi.
“Ở với những gã giết người.” Pinkler-Ryburn đứng thẳng dậy và vươn vai. “Vậy xin ngài hãy trả lời câu hỏi này – Cái tên mà người ta thường dùng để nhạo báng tôi nhưng ngài chưa bao giờ gọi hồi đi học là gì?”
Lần đầu tiên, một nụ cười làm dịu khuôn mặt dữ tợn của anh ta. “Pink,” anh ta nói, “Họ gọi anh là Pink.” Nếu có ai đó trong phòng tin rằng Pink thầm ước được trở thành công tước thì vào khoảnh khắc đó họ đã biết mình nhầm, vì anh ta ôm lấy anh họ của mình như mới tìm lại được người anh trai mất tích đã lâu.
Đó là một cảnh tượng mê hoặc đến mức không phải tất cả mọi người đều nhận ra rằng Phu nhân Islay – giờ đã là nữ Công tước Ashbrook – đã ngất xỉu vào người ngồi cạnh. Chính chồng cô – vị công tước vừa trở lại vì giờ anh ta đã có quyền thừa kế tước vị đó – là người nhìn thấy cảnh náo động và nhảy xuống khỏi bục.
Gismond bước lên trước một cách khiếm nhã để nhìn rõ hơn. (Như sau đó ông đã nói với vợ mình, nó còn hay hơn kịch.) Nữ công tước nằm bất động và trắng bệch cạnh bà Pinkler-Ryburn. Cô không hề nhúc nhích khi công tước cúi xuống. Một giây sau, ngài công tước thẳng người dậy, ôm vợ mình trong tay.
(“Đúng là một vở kịch,” tối đó Gismond đã nói đi nói lại, “Đầu cô ấy ngả vào vai chồng, nếu em hiểu ý anh. Giống hệt phong cách anh hùng, chỉ có điều không có vị anh hùng nào trông như thế hết.” Ông cũng không giải thích được. “Có lẽ là do biểu cảm của anh ta, không hề có dấu hiệu lo lắng hay phấn khích. Như thể những chuyện thế này xảy ra với anh ta hằng ngày.”) Khoác lên mình vẻ tự tin như khoác một cái áo viền lông chồn, công tước bước lên bục và đứng trước mặt mọi người, ôm vợ trong tay. Anh ta gật đầu với ngài Chancellor. “Tôi tin rằng em họ tôi, Pinkler-Ryburn, sẽ rút đơn xin tuyên bố tôi đã chết.”
“Phải!” Pinkler-Ryburn nói ngay lập tức với một tiếng thở dốc, “Chắc chắn. Sau rốt thì anh chưa chết.” Nghe câu đó, công tước ngửa đầu ra sau và cười lớn. Và dù hành động đó lại làm lộ ra vết sẹo trắng kinh khủng, Gismond thấy mình suýt cười theo. Nhưng ông chưa từng lăng nhục các buổi lễ bằng hành động đó và ông cũng không định làm vậy vào lúc này.
Dù vậy, các quý tộc… những tiếng cười không kìm chế nổ ra, loại tiếng cười giải tỏa sự căng thẳng bị dồn nén. (“Anh ta có một tiếng cười quyến rũ,” Gismond kể với vợ nhiều tiếng sau, “Trông như một gã côn đồ đúng nghĩa, nhưng khi cười thì là giọng cười Anh.”
“Giọng cười Anh là thế nào?” vợ ông hỏi một cách nghi ngờ, “Và anh ta làm gì mà lại đứng đó nói chuyện với mọi người trong khi người vợ tội nghiệp đang ngất xỉu? Em thật sự hi vọng và tin chắc rằng anh sẽ không bao giờ đối xử khinh suất với em như vậy.” Gismond kiên quyết gạt bỏ ý nghĩ rằng ông hoàn toàn không thể bế bổng vợ mình – người nặng hơn ông đến chục cân – chứ chưa nói đến việc bế bà đi vài bước. “Không đâu,” ông nói nghiêm trang, “Không bao giờ.”)