Số lần đọc/download: 1614 / 19
Cập nhật: 2017-04-17 10:34:02 +0700
Chương 23 - Vụn Bánh Mì
Đ
úng lúc tôi đi tới cuối lối đi, Rosaleen vùng ra từ sau chỗ ngoặt để chặn đường. Chắc hẳn bà ta đã đi qua cửa trước. Bà với tay ra chộp lấy cánh tay tôi, nhưng tôi chỉ suýt soát tầm với của bà, móng tay bà bấm vào da tôi khi bà chộp lấy tay tôi rồi cố bám chặt. Tôi kêu thét lên và quay sang Weseley.
“Theo tôi,” anh nói, quay người chạy.
Tôi cũng chạy nhưng đột ngột bị giật ngược ra sau, cổ đau nhói khi mợ túm lấy tóc tôi, cố lôi tôi trở lại. Tôi vung cùi chỏ thúc thật mạnh vào bụng bà, vậy là bà buông tôi ra. Bất chấp cách bà cư xử với tôi một giờ vừa qua, tôi vẫn cảm thấy áy náy và dừng lại để nhìn xem bà có sao không. Mợ cúi gập người lại, nhăn mặt.
“Tamara, đi thôi!” Weseley hét lên.
Nhưng tôi không thể, làm thế thật lố bịch. Tôi không hiểu vì sao chúng tôi đánh lộn, tại sao mợ nổi giận với tôi. Khi tôi lại gần, mợ ngẩng lên, vung cánh tay phải ra sau và tát thật mạnh lên mặt tôi. Tôi cảm giác rát bỏng thật lâu sau khi bàn tay bà đã rời khỏi mặt mình. Weseley kéo tôi, vậy là tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài bỏ chạy.
Chúng tôi chạy qua khu vườn đằng sau, ngang qua khu nhà kho kiêm nhà xưởng ngăn cách cuộc sống hàng ngày khỏi khu vườn thủy tinh bí mật. Khi tới đó, tôi mới nhận ra gió đã thổi mạnh lên đến thế nào. Gió thổi ào ào, tóc tôi bay tung rối bời, vờn quanh mặt tôi một cách cuồng loạn, đôi lúc làm tôi không nhìn thấy cái gì, đôi khi nhét một mớ vào miệng tôi. Weseley nắm chặt lấy một bàn tay tôi, thế nên tôi cần đến cánh tay còn lại để giữ thăng bằng trong khi chúng tôi chạy qua bãi cỏ dính nhằng lấy mỗi bước chân, vì thế tôi không thể vuốt tóc khỏi mặt. Những miếng thủy tinh đang quay mòng mòng rối loạn trong gió, đưa tới đưa lui không theo nhịp điệu nào nên rất khó có thể phán đoán liệu chúng có bay vào mặt khi chúng tôi băng qua hay không. Thật khó có thể chạy lách qua và cố gắng không bị những cạnh sắc của chúng cứa phải.
Tôi bám chặt lấy tay Weseley và chỉ nhớ mình đã nghĩ, “Đừng buông ra, đừng buông ra.” Thỉnh thoảng anh ta lại quay sang để đảm bảo tôi vẫn còn đó, cho dù bàn tay anh ta đang siết chặt quanh bàn tay tôi đến mức như bóp nát các ngón tay. Tôi nhìn thấy vẻ mặt lo lắng trên khuôn mặt, nỗi kinh hoàng trong đôi mắt anh. Chúng tôi đang cùng dấn thân vào chuyện này, và tôi chưa bao giờ cảm thấy biết ơn vì có một người bạn đến thế. Chúng tôi cúi gập người dưới các hàng thủy tinh quay mòng mòng và tìm đường tới mép vườn. Weseley bắt đầu tìm cách để chúng tôi leo tường. Tôi đứng đó quan sát xung quanh, cảm thấy hai cánh tay đau rát khi những vết cắt trên cánh tay tôi, và có thể cả trên mặt nữa, bắt đầu rỉ máu và luồng khí lạnh lướt qua chúng. Tôi nhìn thấy Rosaleen nhanh chóng xuất hiện ở nhà xưởng và đưa mắt nhìn quanh vườn tìm kiếm chúng tôi. Mắt chúng tôi gặp nhau. Mợ lao tới.
Weseley hối hả xếp các thùng gỗ và các khối bê tông chồng lên nhau, chất cao lên để chúng tôi có thể leo qua tường. Anh trèo lên và cuối cùng cũng leo lên đến đỉnh tường.
“Tamara lên ngay đi. Tôi sẽ kéo cô lên.”
Anh ôm eo tôi kéo lên, và tôi loay hoay đẩy người mình lên, hai khuỷu tay để trần cọ lên bê tông, hai đầu gối thúc vào tường, nhưng cuối cùng tôi cũng leo lên được. Tôi nhảy xuống đất ở phía bên kia, cơn đau dội lên từ mắt cá rồi chạy lan khắp chân tôi. Weseley ở ngay sau tôi. Anh lại nắm tay tôi. Và chúng tôi lại chạy.
Băng qua đường, rồi lao thẳng vào ngôi nhà bên cổng, tôi lớn tiếng gọi Arthur và mẹ giữa hai lần thở dốc. Không có tiếng trả lời, ngôi nhà lặng lẽ nhìn trừng trừng vào chúng tôi, với tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc trong hành lang. Cả hai chúng tôi leo lên lầu rồi lại chạy xuống, mở tung các cánh cửa, lớn tiếng gọi từng phòng. Trước đó tôi đã cảm thấy lo lắng, còn giờ thì kinh hoàng tột độ. Tôi ngồi trên giường, quyển nhật ký trên tay. Từ từ nhưng đầy chắc chắn, những trang giấy cháy sém bắt đầu duỗi thẳng trước mắt tôi, xòe ra, dài ra, chữ viết không còn thành hàng lối với các nét móc nắn nót mà xuất hiện những nét nguệch ngoạc méo mó như dược viết trong cơn kinh hoàng tột độ.
“Weseley,” tôi gọi.
“Tôi đây!” anh gọi lớn dưới cầu thang.
“Chúng ta phải đi thôi,” tôi gọi lớn.
“Đi đâu?” anh hét lên. “Chúng ta cần gọi cảnh sát, cô không nghĩ thế sao? Kẻ đó là ai vậy? Chúa ơi, cô có nhìn thấy mặt ông ta không?” Tôi có thể thấy sự hoảng hốt trong giọng nói của anh.
Tôi đứng dậy thật nhanh. Quá nhanh. Máu dồn lên đầu tôi, khiến tôi xây xẩm. Những đốm đen lấm chấm trước mắt tôi, và tôi cố gắng tiếp tục bước đi, hy vọng cuối cùng chúng sẽ biến mất. Tôi tìm đường ra hành lang, bám vào tường, cố hít thở thật sâu. Mạch máu trên trán tôi đập quýnh quáng điên rồ, da tôi nóng bỏng và ẩm ướt.
“Tamara, cô sao vậy?” là tất cả những gì tôi nghe thấy.
Tôi cảm thấy quyển nhật ký rời khỏi tay tôi và rơi bịch xuống sàn. Sau đó - không còn gì nữa.
Tôi tỉnh dậy, nhận ra mình đang nhìn chằm chằm vào một bức tranh của Mary, người mỉm cười nhìn xuống tôi qua một tấm mạng màu xanh da trời nhạt. Đôi môi mỏng của bà mỉm cười nói với tôi rồi mọi thứ sẽ ổn cả, hai bàn tay bà chìa ra và rộng mở như thể đang đưa cho tôi một món quà vô hình. Rồi tôi nhớ lại những gì diễn ra ở ngôi nhà một tầng và giật mình ngồi bật dậy. Đầu tôi đau dữ dội như bị đập vỡ, như thể không khí xung quanh đè nặng lên tôi.
“Ai ôi,” tôi rên rỉ.
“Suỵt, Tamara, con cần nằm xuống, từ từ thôi,” xơ Ignatius dịu dàng nói, nắm lấy tay tôi, trong khi bàn tay còn lại của bà đặt lên vai tôi để nhẹ nhàng đỡ tôi nằm xuống.
“Đầu con,” tôi rên lên, nằm xuống trở lại và chăm chú nhìn mặt bà.
“Con có một cú va đập rất nặng,” bà nói, lấy khăn nhúng chậu nước và nhẹ nhàng lau trán tôi.
Tôi thấy nhói buốt và căng người ra.
“Weseley,” tôi hốt hoảng, nhìn quanh và đẩy tay bà ra.”Anh ấy đâu?”
“Cậu ấy đang ở cùng xơ Conceptua. Cậu ấy không sao cả, cậu ấy đưa cháu đến tận đây,” xơ mỉm cười.
“Tamara,” tôi nghe thấy một giọng nói nữa, và mẹ chạy ùa tới, quỳ gối xuống bên tôi. Trông mẹ khác hẳn. Bà mặc đồ chỉn chu. Mái tóc mẹ được buộc ra sau thành đuôi ngựa và khuông mặt bà gầy hơn, nhưng đôi mắt bà… bất chấp những vằn đỏ và sưng lên như thể bà vừa khóc, sự sống đã trở lại với đôi mắt bà. “Con không sao chứ?”
Tôi không tin nổi mẹ đã rời khỏi giường, tôi chỉ biết nhìn bà chằm chằm, dõi theo bà, chờ đợi bà lại chìm một cơn mê man nữa. Mẹ cúi xuống, hôn tôi thật mạnh lên trán, gần như khiến tôi bị đau. Bà lùa ngón tay vào mái tóc tôi, hôn tôi lần nữa và nói lời xin lỗi tôi.
“Ối,” tôi nhăn mặt khi mẹ chạm vào vết thương của tôi.
“Ôi, con yêu, mẹ xin lỗi,” mẹ lập tức buông tay và lùi lại ngắm nhìn tôi. Bà có vẻ băn khoăn. “Weseley nói cậu ấy tìm thấy con trong một căn phòng ngủ, ở đó có một người đàn ông với những vết sẹo…”
“Ông ấy không hề đánh con,” tôi lập tức biện hộ cho người đàn ông mà không biết vì sao. “Khi Rosaleen xuất hiện, mợ ấy rất tức giận, liên tục tuôn ra những lời dối trá về mẹ và ba. Con lao tới chỗ bà ấy để bảo bà ấy thôi đi, bà ấy đẩy con…” Tôi áp bàn tay lên vết thương của mình. “Có nặng không ạ?”
“Sẽ không để lại sẹo đâu. Hãy kể cho mẹ nghe về người đàn ông đó,” giọng mẹ lạc đi.
“Ông ấy và Rosaleen cãi nhau. Mợ gọi ông ấy là Laurie,” tôi đột nhiên nhớ ra.
Xơ Ignatius bám chặt ghế như thể sàn nhà đang rung chuyển dưới chân bà. Mẹ đưa mắt nhìn xơ, quai hàm nghiến chặt, rồi mẹ quay lại nhìn tôi lần nữa. “Thì ra đúng là thế. Arthur đã nói sự thật.”
“Nhưng không thể có chuyện đó,” xơ Ignatius thì thầm. “Chúng ta đã chôn cậu ấy, Jennifer. Cậu ấy đã chết trong vụ hỏa hoạn.”
“Ông ấy không chết, xơ ơi. Con đã thấy ông ấy. Con đã thấy phòng ngủ của ông ấy. Trên tường là hàng trăm bức ảnh.”
“Anh ấy rất thích chụp ảnh,” mẹ nói, thật khẽ như đang suy nghĩ thành tiếng.
“Tất cả đều chụp ảnh con,” tôi nói, hết nhìn người này lại nhìn người kia. “Hãy nói cho con biết về ông ấy. Ông ấy là ai?”
“Ảnh ư? Weseley không hề nói gì đến chúng,” xơ Ignatius lắc đầu nói, mặt bà tái nhợt.
“Anh ấy không nhìn thấy. Con đã thấy tất cả. Cả cuộc đời con ở trên tường.” Những lời nói mắc lại trong họng, nhưng tôi vẫn tiếp tục. “Ngày con ra đời, ngày con rửa tội,” sau đó tôi nhìn mẹ và cơn giận bùng lên trong tôi. “Con đã thấy mẹ.”
“Ôi,” những ngón tay xương xẩu của bà đưa lên che miệng. “Ôi Tamara.”
“Sao mẹ không nói gì với con? Sao cả hai người đều nói dối?”
“Ta rất muốn nói với con,” xơ Ignatius chen vào, “ta đã nói với con là ta không bao giờ nói dối, và con có thể hỏi ta bất cứ điều gì, nhưng con chưa bao giờ hỏi. Ta đã đợi mãi. Ta không nghĩ đó là chỗ của ta, nhưng đáng ra ta cần phải làm thế. Giờ ta đã hiểu ra.”
“Đáng lẽ chúng ta không nên để con tìm hiểu ra cách này,” mẹ nói, giọng bà run rẩy.
“Thế ư, không ai trong hai người có đủ can đảm để làm điều Rosaleen đã làm. Mợ ấy đã nói với con.” Tôi đẩy tay mẹ và quay đi. “Bà ấy kể những chuyện ngớ ngẩn về ba và ông nội tới đây, muốn mua lại nơi này để xây dựng một spa. Mợ ấy nói ba đã gặp mẹ, và ba đã gặp con.” Tôi đã nhìn bà, chờ đợi mẹ tôi nói với tôi rằng tất cả đều là dối trá.
Mẹ im lặng.
“Hãy nói với con ấy là ba con.”
Mẹ bắt đầu khóc, rồi lại ngừng, hít một hơi thật sâu và tìm cách lấy sức mạnh từ một nơi nào khác. Khi bà lên tiếng, giọng bà quả quyết và trầm sâu. “Được rồi, Tamara, hãy nghe mẹ nói. Con phải tin chúng ta không nói với con điều này vì chúng ta tin đó là điều đúng đắn nên làm trong suốt những năm qua, và Geogre,” mẹ khoát tay, “Geogre rất yêu con, bằng cả trái tim ông ấy, như thể con là một giọt máu của ông ấy…”
Tôi vụt kêu lên, không tin nổi những gì mình đang nghe thấy.
“Ông ấy không muốn mẹ nói với con. Ba mẹ cãi nhau suốt về chuyện đó. Nhưng đó là lỗi của mẹ. Tất cả là lỗi của mẹ, mẹ xin lỗi.” Nước mắt tuôn rơi xuống má bà, cho dù rất muốn không cảm thấy gì, muốn nhìn bà trừng trừng để bà cúi mặt xuống, và để cho bà thấy bà đã làm tôi bị tổn thương đển mức nào, nhưng tôi không thể. Tôi không thể không cảm thấy gì. Thế giới của tôi đã bị đảo lộn đầy tàn khốc, tôi đã bị văng ra khỏi quỹ đạo.
Xơ Ignatius đứng dậy, áp bàn tay lên đầu mẹ trong khi bà cố gồng mình kìm dòng nước mắt, lau má và tìm cách an ủi tôi. Tôi không thể nhìn mẹ, vậy là đôi mắt tôi dõi theo xơ Ignatius trong khi bà đi sang bên kia phòng. Xơ mở ngăn tủ và lấy ra một món quà rồi mang trở lại cho tôi.
“Đây. Ta đã cố đưa cái này cho con từ lâu rồi,” bà nói, rưng rưng nước mắt. Bà quay lại bên tôi với một món quà được gói bọc trên tay.
“Xơ, ngay lúc này con thực sự không có tâm trạng nhận quà sinh nhật sinh nhẽo gì cả. Khi mẹ con đang nói với con rằng suốt cuộc đời con bà đã luôn nói dối con,” tôi nói thật cay độc, mẹ cắn môi, vầng trán bà nhăn nhúm. Mẹ chậm rãi gật đầu, chấp nhận bất cứ điều gì tôi trút xuống đầu bà lúc đó. Khi ấy tôi muốn hét vào mặt bà, muốn tận dụng cơ hội này để nói ra mọi điều xấu xa tôi cảm thấy về bà, giống như tôi hay làm khi cãi cọ với ba, nhưng rồi tôi ngăn mình lại. Những hậu quả. Những tác động ngược. Quyển nhật ký dạy tôi điều đó.
“Mở nó ra,” xơ Ignatius nghiêm giọng nói.
Tôi xé tờ giấy bọc bên ngoài, trong đó là một cái hộp. Trong hộp là một cuộn giấy. Tôi nhìn bà tìm kiếm những câu trả lời, nhưng bà đang quỳ gối xuống bên cạnh tôi, hai bàn tay chắp lại, đầu cúi xuống, chìm trong những lời cầu nguyện.
Tôi giở tờ giấy ra. Đó là Giấy chứng nhận Rửa tội.
Giấy chứng nhận Rửa tội này xác nhận rằng
Tamara Kilsaney
được sinh ngày Hai mươi tháng Bảy, năm Một
nghìn chín trăm chín mươi mốt,
tại Lâu đài Kilsaney, Hạt Meath
và được trình diện Thế Giới
trong tình yêu
bởi
Người mẹ, Jennifer Byrne, và người cha,
Laurence Kilsaney
Vào ngày hôm nay
Ngày 1 tháng Một, năm Một nghìn chín trăm chín hai.
Tôi nhìn chằm chằm vào tờ giấy, đọc đi đọc lại, hy vọng đôi mắt đã đánh lừa tôi. Tôi không còn biết bắt đầu từ đâu nữa.
“Được rồi, bắt đầu từ đâu đã nào, họ ghi sai ngày rồi,” tôi cố tỏ ra tự tin, nhưng giọng nói của tôi nghe thật thảm hại, và tôi biết thế. Đây là thứ tôi không thể đánh bại mặc dù tỏ ra rất cay nghiệt.
“Ta xin lỗi con, Tamara,” xơ Ignatius lặp lại.
“Vậy đó là lý do tại sao xơ luôn nói con mười bảy tuổi,” tôi nhớ lại những cuộc trò chuyện của chúng tôi. “Nhưng nếu cái này đúng thì con đã mười tám… Marcus,” tôi ngước nhìn xơ. “Xơ không định để anh ấy phải vào tù đấy chứ?”
“Cái gì?” Mẹ hết nhìn tôi rồi lại nhìn xơ. “Marcus là ai?”
“Không phải chuyện của mẹ,” tôi gắt gỏng. “Có thể sau hai mươi năm nữa con sẽ cho mẹ biết.”
“Tamara, làm ơn đi con,” bà van nài.
“Anh ấy có thể phải vào tù,” tôi giận dữ nói với xơ Ignatius.
Xơ Ignatius cuống cuồng lắc đầu. “Không. Ta đã hết lần này đến lần khác yêu cầu Rosaleen phải nói cho con biết. Nếu không cho con hay, thì ít nhất cũng phải báo cảnh sát. Bà ấy nhất định khăng khăng rằng cậu ta không sao. Nhưng ta đã hành động. Ta nói với cảnh sát, Tamara, chính ta đã tới Dublin gặp gặp cảnh sát viên Garda Fitzgibbon để cho anh ta xem tờ giấy chứng nhận này. Còn tội phá cửa và xâm nhập gia tư nữa… nhưng sau khi cân nhắc hoàn cảnh, mọi lời buộc tội đã bị bãi bỏ.
“Cái gì đã bãi bỏ? Chuyện gì đã xảy ra vậy?” mẹ hỏi, nhìn xơ Ignatius đầy lo lắng.
“Chúa ơi, Tamara, nếu đến giờ em vẫn chưa biết, thế thì em gặp nhiều rắc rối hơn những gì anh nghĩ. Nghe này, anh chúc em may mắn trong mọi chuyện nhưng… đừng gọi lại cho anh nữa.”
Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng của chúng tôi. Khi đó anh đã biết vì sao những lời buộc tội bị bãi bỏ, cũng như sự tình lôi thôi đến mức nào khi thậm chí tôi còn chẳng biết tuổi thực của chính mình? Tôi đã quá nhẹ nhõm vì Marcus, đến mức cơn giận của tôi dịu xuống trong chốc lát, rồi nhẹ nhõm tan biến, rồi lại sôi lên lần nữa. Đầu tôi đau như búa bổ, tôi đưa tay lên áp vết thương của mình.
“Vậy hãy để con nói thẳng mọi chuyện. Rosaleen không nói dối. Laurie là ba con. Người đàn ông kì quái… với những bức ảnh đó?” Sau đó tôi hét lên. “Tại sao không ai nói cho con hay? Sau tất cả mọi đều nói dối? Tại sao tất cả mọi người để con nghĩ con mất ba ruột của con?”
“Ôi, Tamara, Geogre là ba con. Ông ấy yêu con hơn bất cứ thứ gì trên đời. Ông ấy nuôi dạy con như con ruột. Ông ấy nuôi dạy con như con ruột. Ông ấy…”
“CHẾT RỒI”, tôi hét lên. “Và tất cả mọi người để con nghĩ con đã mất ba ruột của mình. Ông ấy nói dối con. Hai người nói dối con. Con không thể tin nổi chuyện này.” Đến lúc này tôi đã ngồi bật dậy, đầu óc quay cuồng.
“Mẹ con nghĩ Laurie đã chết, Tamara, lúc ấy con mới một tuổi. Mẹ con có cơ hội để bắt đầu cuộc đời mới. Geogre yêu mẹ con, ông ấy yêu con. Mẹ con muốn bắt đầu lại. Bà ấy không nghĩ con cần tới nỗi đau này.”
“Và điều đó làm mọi chuyện ổn hết chăng?” tôi hỏi mẹ, cho dù xơ Ignatius đang biện hộ cho bà.
“Không, không, ta không tán thành với chuyện đó. Nhưng mẹ con xứng đáng được hạnh phúc. Bà ấy đã rất đau khổ khi Laurie chết.”
“Nhưng ông ấy chưa chết,” đến đây tôi hét lên. “Ông ấy sống trong ngôi nhà một tầng, ăn sandwich và bánh táo vào mỗi ngày đáng nguyền rủa, Rosaleen biết ông vẫn còn sống.”
Đến đấy, mẹ tôi òa khóc, xơ Ignatius ôm chặt lấy mẹ trong vòng tay bà, khuôn mặt mẹ đang hiện rõ nỗi đau khổ mà bà đang chịu đựng. Tôi dừng lời, nhận ra không chỉ tôi là người duy nhất bị lừa dối. Mẹ chỉ mới vừa biết người đàn ông bà yêu hóa ra vẫn chưa chết. Thứ trò đùa bệnh hoạn gì tất cả họ đã bày ra đây?
“Mẹ, con xin lỗi,” tôi dịu giọng nói.
“Ôi, con yêu,” mẹ sụt sùi. “Có lẽ mẹ xứng đáng bị như thế. Vì đã làm vậy với con.”
“Không. Không, mẹ không đáng phải chịu như thế. Nhưng ông ấy không xứng đáng với mẹ. Ông ấy phải bệnh hoạn lắm mới giả chết như vậy.”
“Ông ấy đã cố gắng bảo vệ mẹ con, ta đoán vậy,” xơ Ignatius nói. “Ông ấy cố gắng đem đến cho cả hai mẹ con một cuộc sống tốt hơn, thứ ông ấy không thể mang lại cho hai người.”
“Arthur nói khuôn mặt ông ấy bị biến dạng nặng nề đúng không?” Mẹ nhìn tôi. “Trông ông ấy… trông ông ấy thế nào? Ông ấy có tử tế với con không?”
“Arthur,” tôi lại gắt lên. “Arthur Kilsaney. Ông ấy là em trai Laurie phải không?”
Mẹ gật đầu và nước mắt lại rơi xuống.
“Thêm một điều dối trá nữa sau một điều dối trá khác từ mấy người,” tôi nói, lần này không tức giận như trước. Tôi không còn hơi sức nữa.
“Ông ấy không hề muốn thế,” mẹ nói, bà cũng đã kiệt sức. “Bây giờ mẹ đã hiểu tại sao ông ấy luôn phản đối điều đó. Ông ấy nói luôn muốn trở thành bác của con. Chúng ta chưa bao giờ nói ông ấy là anh trai mẹ. Không hề, cho đến khi con con tự đoán mò như thế, rồi sau đó…” Bà khoát tay, cảm thấy sự lố bịch của toàn bộ câu chuyện.
Sau đó, Weseley đi vào phòng. “Okay, cảnh sát đang trên đường tới. Cô không sao chứ?” Anh nhìn tôi. “Ông ấy có làm cô đau không?”
“Không, không đâu,” tôi xoa mắt. “Ông ấy đã cứu tôi thoát khỏi Rosaleen.”
“Nhưng tôi nghĩ ông ta…”
“Không,” tôi lắc đầu.
“Tôi nhốt ông ấy lại trong căn phòng ngủ đó.” Weseley nói đầy hối lỗi, lấy chìa khóa phòng từ trong túi ra. “Tôi cứ nghĩ ông ta đang định hành hung cô.”
“Ồ, không.” Cơn tức giận của tôi đã dịu đi nhiều. Giờ tôi cảm thấy thương cảm cho ông ta. Ông đã bảo vệ tôi. Ông đã gửi quà cho tôi. Ngày sinh nhật thứ mười tám. Tất nhiên ông phải nhớ rồi. Và tôi đã cảm ơn ông như thế nào? Tôi đã nhốt ông lại.
“Arthur đâu rồi?” xơ Ignatius hỏi.
“Ông ấy tới ngôi nhà một tầng gặp Rosaleen.”
Thế rồi tôi nhớ ra. Quyển nhật ký. “Không,” tôi loay hoay cố ngồi dậy lần nữa.
“Con yêu, con cố nằm nghỉ,” mẹ nói, cố ấn tôi nằm xuống nhưng tôi đã bật dậy.
“Ông ấy cần ra khỏi đó,” tôi hốt hoảng. “Tôi đã làm gì ở đây suốt từ lúc ấy tới giờ chứ? Weseley, gọi cứu hỏa đi, nhanh lên.”
“Tại sao?”
“Con yêu, giờ hãy nằm nghỉ đi,” mẹ lo lắng nói. “Nằm xuống và…”
“Không, nghe con nói đã. Weseley, chuyện đó được nói đến trong nhật ký. Tôi cần ngăn nó lại. Gọi cứu hỏa ngay đi.”
“Tamara, đó chỉ là một quyển sách thôi, nó chỉ là..”
“Luôn đúng từng ngày một cho tới lúc này,” tôi đáp.
Anh ta gật đầu.
“Cái gì vậy?” mẹ đột nhiên hỏi, bước ra phía cửa sổ.
Từ phía xa, trên ngọn cây, từng đụn khói bốc lên trời.
“Rosaleen,” xơ Ignatius nói đầy căm phẫn, giọng nói bà làm tôi lạnh toát, “Gọi cứu hỏa đi,” bà nói với Weseley.
“Đưa tôi chìa khóa,” tôi nói, giật lấy chìa khóa và chạy ra khỏi căn phòng. “Con cần cứu ông ấy ra. Con sẽ không để mất ông ấy lần nữa.”
Tôi nghe thấy tất cả họ gọi tôi trong lúc tôi chạy, nhưng tôi không dừng lại, tôi không lắng nghe. Tôi chạy qua giữa những thân cây, hướng theo mùi khói, chạy thẳng về phía ngôi nhà một tầng. Tôi vừa mất người cha đã nuôi dạy tôi, tôi không định để mất thêm một người cha nữa.