That is a good book which is opened with expectation and closed with profit.

Amos Bronson Alcott

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: 海辺のカフカ Umibe no Kafuka - Kafka on the Shore
Dịch giả: Dương Tường
Biên tập: Yen
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 53
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 11581 / 1048
Cập nhật: 2015-10-06 23:32:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20
ã hơn tám giờ tối khi chiếc xe tải ĐÔNG LẠNH mười tám bánh rẽ khỏi xa lộ Tomei và thả Nakata xuống bãi đậu xe của khu nghỉ Fujigawa. Tay xách túi đồ và ô, lão lụi hụi bước xuống mặt đường rải nhựa.
“Chúc bác may mắn kiếm được một chuyến xe khác,” người lái xe thò đầu qua cửa xe nói. “Bác cứ hỏi quanh đây, chắc thể nào cũng có.”
“Đa tạ. Nakata này cám ơn cậu đã giúp đỡ.”
“Vô tư đi,” người lái nói, rồi vẫy tay và quay xe trở về xa lộ.
Fu-ji-ga-wa, người lái xe đã nói thế. Nakata không biết Fu-ji-ga-wa là nơi nào, song lão hiểu là mình đã rời Tokyo và đi về hướng Tây. Chả cần đến la bàn hay bản đồ, bản năng lão mách vậy. Giá bây giờ có chiếc xe tải nào đi về hướng Tây, cho lão quá giang thì hay quá.
Đói bụng, Nakata quyết định vào nhà hàng của khu nghỉ làm một bát mì. Cơm nắm và Sô-cô-la trong bị, lão để dành, phòng trường hợp đột xuất. Vì không biết đọc, lão phải mất một lúc để tìm hiểu xem làm cách nào để mua được đồ ăn. Trước khi vào phòng ăn, phải mua phiếu ăn từ một máy bán hàng tự động, lão phải nhờ người đọc hộ nút bấm. “Mắt lão kém, không nhìn rõ,” lão nói với một bà trung niên. Bà này bỏ tiền vào cho lão, bấm nút và đưa tiền thối lại cho lão. Kinh nghiệm đã dạy cho lão là tốt nhất đừng để người ta biết là lão mù chữ. Bằng không, họ sẽ trừng trừng nhìn lão như nhìn một con quái vật.
Ăn xong, Nakata vai đeo túi, tay xách ô, đi tua các xe tải trong bãi đậu, hỏi xin quá giang. Nakata này đi về hướng Tây – lão giải thích – có cậu nào hảo tâm cho lão quá giang không? Nhưng tất cả các tài xế đều lắc đầu sau khi nhìn lão từ đầu đến chân. Một lão già xin đi nhờ xe là điều ít thấy và dĩ nhiên, họ phải cẩn thận đề phòng chuyện bất trắc. Rất tiếc, công ty chúng tôi không cho phép lấy khách quá giang, họ đều nói vậy.
Nakata đã phải mất một thời gian dài để đi từ quận Nakano đến ngả vào xa lộ Tomei. Trước đó, lão chưa bao giờ ra khỏi Nakano và không biết xa lộ ở chỗ nào. Lão có một tấm thẻ đặc biệt đi các tuyến xe buýt nội thành miễn phí mà lão vẫn dùng thường xuyên, nhưng lão chưa bao giờ đi xe điện ngầm hay xe lửa một mình, dùng các phương tiện này thì cần phải mua vé.
Trước mười giờ sáng một chút, lão bỏ một bộ quần áo, khăn mặt, xà phòng, bàn chải, thuốc đánh răng và một ít lương thực vào chiếc túi vải bố, lấy số tiền giấu dưới chiếu cất cẩn thận vào ruột tượng cho an toàn, rồi xách cái ô đen to tướng rời khỏi căn hộ. Khi lão hỏi người lái xe buýt nội thành làm sao đến được xa lộ, anh ta cả cười.
“Xe buýt này chỉ đến ga Shinjuku thôi. Xe buýt nội thành không chạy trên xa lộ. Bác phải bắt xe đò chạy đường dài cơ.”
“Thế bến xe chạy đường dài đến xa lộ To-mei ở đâu?”
“Ga Tokyo,” người tài xế trả lời. “Bác đáp chuyến xe buýt này đến ga cuối, rồi chuyển sang đi tàu đến ga Tokyo, tới đó bác đặt vé trước để giành chỗ. Chuyến xe đò ấy sẽ đưa bác đến xa lộ Tomei.”
Nakata không hiểu rõ lắm những chỉ dẫn của anh ta, nhưng cứ đáp chuyến xe đó đến tận Shinjuku. Nhưng khi tới đó, lão thấy ngợp. Cái nhà ga mênh mông chật ních những người là người, lão phải khó khăn lắm mới lách qua được đám đông. Có bao nhiêu là tuyến đường, lão không sao biết được tuyến nào đi đến ga Tokyo. Không đọc được biển chỉ dẫn, lão phải hỏi những người đi ngang qua, nhưng họ giải thích quá nhanh, quá rắc rối, với những địa danh lão chưa nghe thấy bao giờ. Thà nói chuyện với Kawamura còn dễ dàng hơn, Nakata nghĩ thầm. Kể ra có thể hỏi đường ở trạm cảnh sát đặt ở trong ga, nhưng lão sợ họ lầm tưởng lão là một ông già lẫn cẫn và tạm giữ lại, điều mà dạo trước lão đã từng bị một lần. Loanh quanh mãi trong ga, hơi người và tiếng ồn ào bắt đầu làm lão cảm thấy váng vất. Lần theo những lối đỡ đông hơn, lão mò ra ngoài, tìm thấy một công viên nhỏ giữa hai tòa nhà cao tầng và ngồi xuống một chiếc ghế băng.
Nakata hết sức hoang mang. Lão ngồi đó, thỉnh thoảng lại lầm bầm, xoa xoa cái đầu húi cua. Trong công viên, không thấy bóng một con mèo, nhưng lại đầy quạ sà xuống bới những thùng rác. Nakata nhìn lên bầu trời mấy lần, và bằng vào vị trí của mặt trời, có thể đoán được là mấy giờ. Khí thải bão hòa nhuộm bầu trời một màu kỳ lạ.
Đến trưa, nhân viên từ các tòa nhà gần đấy tràn ra công viên ăn trưa. Nakata cũng lấy mấy cái bánh rán nhân đậu ra ăn, chiêu bằng nước trà nóng từ cái phích lão luôn mang theo. Hai cô gái kéo nhau đến ngồi ở chiếc ghế băng bên cạnh. Lão quyết định bắt chuyện với họ. Làm thế nào đến được xa lộ To-mei? Lão hỏi. Họ nói với lão y hệt như người lái xe buýt đã chỉ dẫn. Đáp tàu tuyến Chuo đến ga Tokyo rồi lên xe đò đi xa lộ Tomei.
“Nakata này đã thử làm thế mà không xong,” lão thú nhận. “Trước nay, lão chưa bao giờ ra khỏi quận Nakano, nên không biết đi tàu. Lão chỉ biết đi xe buýt nội thành thôi. Lão không biết đọc, thành thử không mua được vé. Lão đã đi xe buýt nội thành đến đây, nhưng không biết làm thế nào để đi xa hơn.”
Bác không biết đọc? Họ ngạc nhiên hỏi. Nom lão có vẻ là một ông già vô hại. Tươi cười, ăn mặc gọn gàng. Trời đẹp như thế này mà mang cái ô tổ bố kể cũng hơi kỳ, song lão không có vẻ là kẻ vô gia cư. Mặt mày dễ coi, đặc biệt là đôi mắt sáng long lanh.
“Trước nay, bác chưa bao giờ ra khỏi quận Nakano, bác nói thật đấy chứ?” cô gái tóc đen hỏi.
“Phải. Lão đã cố không bao giờ ra khỏi đó. Nếu Nakata này bị lạc, sẽ không có ai đi tìm đâu.”
“Và bác không biết đọc?” cô kia, nhuộm tóc nâu, hỏi.
“Đúng thế. Lão hoàn toàn không biết đọc. Lão biết mấy chữ số đơn giản, nhưng không biết cộng.”
“Hmm. Cháu nghĩ thế thì bác khó mà đi tàu được.”
“Vâng, rất khó. Lão không thể mua được vé.”
“Nếu có thì giờ, chúng cháu có thể đưa bác tới ga rồi đảm bảo đưa bác lên đúng chuyến tàu, nhưng chúng cháu sắp phải quay về làm việc rồi. Cháu thực tình xin lỗi.”
“Không, không cần phải xin lỗi đâu. Lão sẽ nghĩ ra cách nào đó.”
“M nghĩ ra rồi!” cô tóc đen reo lên. “Chẳng phải Togeguchi ở bộ phận bán hàng bảo hôm nay anh ta phải đi Yokohama đấy sao?”
“Ừ nhỉ, giờ cậu nhắc mình mới nhớ. Chúng mình nhờ thì anh ta sẽ giúp thôi. Anh ta hơi u sầu nhưng vốn không phải người xấu, thật đấy,” cô tóc nâu nói.
“Nếu bác không biết đọc thì nên vẫy xe xin quá giang, có lẽ tốt hơn,” cô tóc đen nói.
“Xin quá giang?”
“Bác hỏi ai đó xin đi nhờ xe. Nên hỏi cánh lái xe tải chạy đường dài, chứ đám du lịch đi xe con ít khi chịu cho đi nhờ lắm.”
“Nakata này không biết xe tải chạy đường dài như thế nào.”
“Bác cứ thử hỏi các tay lái xe tải, khắc được đấy. Hồi còn ở trường đại học, cháu đã xin quá giang một lần. Cánh lái xe tải thường rất hảo tâm.”
“Bác định đến tận đâu trên xa lộ Tomei?” cô tóc nâu hỏi.
“Nakata này không biết,” lão đáp.
“Bác không biết?”
“Chừng nào đến đó, lão sẽ biết thôi. Vậy nên, khởi đầu, lão sẽ đi về hướng Tây trên xa lộ To-mei. Sau đó, lão sẽ nghĩ về nơi mình sẽ đến. Dù thế nào đi nữa, lão vẫn phải đi theo hướng Tây.”
Hai cô gái nhìn nhau, nhưng những lời của Nakata có sức thuyết phục kỳ lạ khiến họ bỗng có thiện cảm với ông già. Họ ăn nốt bữa trưa của mình, vứt hộp vào thùng rác và đứng dậy.
“Bác hãy đi với chúng cháu,” cô tóc đen nói. "Chúng ta sẽ nghĩ ra một cách nào đó.”
Nakata đi theo họ vào một tòa nhà gần đó. Trước nay, lão chưa từng đặt chân vào tòa nhà nào lớn như vậy. Hai cô gái đặt lão ngồi ở một chiếc ghế dài gần quầy tiếp tân, rồi nói với nhân viên tiếp tân và bảo Nakata chờ đó một lát. Họ biến vào một trong những buồng thang máy trong sảnh. Trong khi lão ngồi đấy ôm chiếc ô và túi vải, đám nhân viên lũ lượt trở vào sau giờ ăn trưa. Thêm một cảnh tượng nữa lão chưa từng thấy trong đời. Như thể đã thỏa thuận với nhau, tất cả những người này đều ăn vận thật đẹp – cà vạt, cặp bóng lộn, giày cao gót, tất cả đều hối hả rảo bước về cùng một phía. Nakata không tài nào hiểu nổi cái đám người đông đến thế có thể làm gì ở đây.
Sau một hồi, hai cô gái trở lại cùng một gã cao kều mặc sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc.
“Đây là anh Togeguchi,” cô tóc nâu giới thiệu. “Anh ấy sắp lái xe đi Yokohama. Anh ấy nhận sẽ đưa bác đi cùng. Anh ấy sẽ thả bác ở bãi đậu xe Kohoku trên xa lộ Tomei. Hy vọng tại đó bác sẽ có thể kiếm được một người khác cho đi nhờ tiếp. Bác cứ đi một vòng hỏi các tài xế, nói là bác muốn đi về hướng Tây. Và nếu có ai cho bác quá giang, bác nhớ mua đãi anh ta một suất ăn khi dừng lại nghỉ ở đâu đó. Bác có hiểu không?”
“Nhưng liệu bác có đủ tiền để làm thế không?” cô tóc đen hỏi.
“Dạ, lão có đủ.”
“Bác Nakata là bạn tụi em, hãy tử tế với bác, nghe anh,” cô tóc nâu nói với Togeguchi.
“Nếu cô tử tế với tôi,” chàng trai rụt rè nói.
“Ờ, một ngày nào đó...” cô tóc đen nói.
Khi chào tạm biệt, hai cô gái nói, "“Đây là một chút quà chia tay. Phòng khi bác đói bụng.” Họ đưa cho Nakata mấy nắm cơm và một thanh sô-cô-la vừa mua ở siêu thị.
“Lão không biết cảm ơn các cô thế nào cho vừa về tất cả những gì các cô đã làm,” Nakata nói. “Lão sẽ cầu nguyện cho những điều tốt lành đến với cả hai cô.”
“Cháu hy vọng lời cầu nguyện của bác trở thành sự thật,” cô tóc nâu nói trong khi cô bạn cười rúc rích.
Togeguchi để Nakata ngồi ở ghế cạnh mình trên chiếc xe Hi-Ace, rồi theo đường Metropolitan, cho xe chạy đến xa lộ Tomei. Đường bị kẹt xe nhiều quãng, nên hai người nói đủ các thứ chuyện trong khi xe nhích từng tí một. Togeguchi vốn tính nhút nhát, thoạt đầu không nói gì mấy, nhưng sau khi quen với sự hiện diện của Nakata, gã bắt đầu thao thao đến mức, rốt cuộc, thay vì đôi bên trò chuyện, chỉ có mình gã độc thoại. Có rất nhiều điều gã muốn nói và gã thấy dễ dàng dốc bầu tâm sự với một người xa lạ như Nakata mà hẳn gã sẽ không bao giờ gặp lại. Gã kể gã đã cắt đứt với vợ chưa cưới cách đây một tháng. Cô ta có một thằng bồ khác, hai đứa vẫn lén lút gặp nhau suốt. Gã nói là gã không hợp với các sếp trong công việc và đang tính xin thôi. Cha mẹ gã ly hôn từ hồi gã còn học cấp hai và mẹ gã chẳng bao lâu đã tái hôn với một tay vô tích sự. Gã đã rút hết tiền tiết kiệm cho một thằng bạn vay, chả biết bao giờ nó mới trả. Và cái thằng sinh viên ở căn hộ bên cạnh suốt ngày mở nhạc to tướng làm gã chẳng ngủ được mấy.
Nakata chăm chú lắng nghe, phụ họa ở những điểm thích hợp, thi thoảng chêm vào một ý kiến riêng. Đến lúc chiếc xe rẽ vào bãi đậu xe Kohoku, Nakata đã biết gần hết những điều cần biết về chàng trai này. Có vô khối điều lão không hiểu, nhưng lão có thể hình dung được toàn cảnh cuộc đời Togeguchi, chàng trai tội nghiệp này đã cố gắng sống một cuộc đời ngay thẳng, nhưng cứ vấp phải hàng lô vấn đề.
“Đa tạ,” lão nói. “Nakata này rất cám ơn cậu đã cho đi nhờ xe.”
“Chính cháu phải cám ơn bác, bác Nakata. Giờ, cháu cảm thấy hoàn toàn thư giãn. Trước nay, cháu chưa từng nói chuyện như thế với ai bao giờ. Và cháu lấy làm mừng là đã có thể kể tất cả với bác. Cháu hy vọng đã không làm bác chán ngấy với những vấn đề của cháu.”
“Không, hoàn toàn không. Nakata cũng rất sung sướng được nói chuyện với cậu. Cậu Togeguchi, lão tin chắc những điều đại cát sắp đến với cậu.”
Chàng trai lấy trong ví ra một chiếc thẻ điện thoại đưa cho Nakata. “Xin bác nhận lấy chiếc thẻ này. Đây là sản phẩm của công ty cháu. Hãy coi đây như một món quà chia tay. Cháu những muốn có cái gì hay hơn để tặng bác.”
“Cám ơn rất nhiều,” Nakata nói và cẩn thận nhét chiếc thẻ vào ví mình. Lão chẳng có ai quen để gọi điện thoại, cũng không biết cách dùng thẻ ra sao, nhưng lão nghĩ cứ nhận cho lịch sự. Lúc này là ba giờ chiều.
Phải mất thêm một tiếng nữa mới kiếm được một tài xế xe tải đồng ý cho lão đi nhờ đến Fujigawa. Đó là một người to béo trạc ngoại tứ tuần, tay như khúc gỗ, bụng phệ, chở cá tươi trên xe đông lạnh.
“Mong bác không phiền vì mùi cá,” người lái xe nói.
“Cá là một trong những món ăn ưa thích của Nakata này,” Nakata đáp.
Người lái xe cả cười. “Bác quả là một người kỳ dị.”
“Đôi khi người ta cũng bảo lão thế.”
“Tôi lại thích những người kỳ dị,” người lái xe nói. “Những người coi bộ bình thường và sống một cuộc sống bình thường lại chính là những kẻ ta phải đề phòng.”
“Thế ư?”
“Hãy tin tôi, đời nó thế đấy. Dù sao đó cũng là ý kiến của tôi.”
“Nakata này không có nhiều ý kiến. Tuy nhiên, lão thích lươn.”
“Tốt, thích lươn cũng là một ý kiến.”
“Lươn cũng là một ý kiến à?”
“Tất nhiên, bác nói bác thích lươn, đó là một ý kiến.”
Cứ thế hai người đi đến Fujigawa. Người lái xe nói tên anh ta là Hagita.
“Vậy bác nghĩ thế giới này rồi sẽ ra sao, bác Nakata?” anh ta hỏi.
“Xin lỗi, lão không phải là người thông minh, lão mù tịt về chuyện í,” Nakata nói.
“Có ý kiến riêng và không thông minh là hai chuyện khác nhau.”
“Nhưng thưa cậu Hagita, không thông minh thì làm sao nghĩ được về chuyện í.”
“Nhưng bác chả nói bác thích lươn là gì.”
“Phải, lươn là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Đó là một mối liên quan, bác thấy không?”
“Ừm.”
“Bác có thích cơm gà với trứng không?"
“Có, đó cũng là một món ưa thích của Nakata này.”
“Ấy đấy, lại một tương quan nữa,” Hagita nói. “Cứ lần lượt lập những tương quan là tự khắc hình thành ý nghĩa lúc nào không biết. Càng nhiều tương quan, ý nghĩa càng sâu. Bất kể là lươn hay cơm gà, hay cá nướng. Bác hiểu không?”
“Không, lão vẫn không hiểu. Thức ăn cũng liên quan với các sự vật ư?”
“Không chỉ thức ăn. Xe điện, hoàng đế, tất tật.”
“Cơ mà lão không bao giờ đi xe điện.”
“Hay đấy. này nhé, điều tôi muốn nói là: chỉ riêng việc ta đang sống đã thiết lập một mối liên hệ giữa ta với sự vật xung quanh, bất kể chúng là gì. Điều quan trọng là phải xem điều đó diễn ra có tự nhiên hay không. vấn đề không phải thông minh hay đần độn, mà là nhìn sự vật bằng đôi mắt của chính mình.”
“Cậu Hagita, cậu rất chi là thông minh.”
Hagita cười phá lên. “Đã bảo đây không phải là vấn đề thông minh mà. Tôi chẳng thông minh gì lắm đâu. Tôi chỉ có cách nghĩ riêng của mình thôi. Vì thế người ta ngán tôi. Họ kết tội tôi là luôn luôn nhiễu sự. Hễ anh dùng đầu mình để suy nghĩ là thiên hạ không muốn dây với anh.”
“Nakata này vẫn chưa hiểu, cơ mà cậu vừa nói là có một mối liên hệ giữa việc thích ăn lươn với việc thích cơm gà trộn trứng phải không?”
“Tôi nghĩ bác có thể diễn đạt theo cách ấy. Bao giờ cũng có một mối liên quan giữa bác, ông già Nakata, với những thứ mà bác quan tâm tới. Cũng như có một mối liên quan giữa lươn và cơm gà. Và khi mạng lưới những liên quan đó phát triển rộng ra, tự khắc sẽ hình thành một mối liên quan giữa bác, ông già Nakata, với các nhà tư bản và giai cấp vô sản.”
“Vô gì?”
“Giai cấp vô sản,” Hagita nói, cất tay khỏi vô lăng, khoa lên. Hai bàn tay to tướng như găng bóng chày, Nakata nghĩ thế. “Những con người làm lụng cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm miếng cơm, đó là giai cấp vô sản. Ngược lại, có những kẻ ngồi mát ăn bát vàng, không động một ngón tay, chỉ ra lệnh cho người khác mà hưởng gấp trăm lần lương tôi. Đó là bọn tư bản.”
“Lão không biết gì về những người cậu gọi là tư bản. Nakata này nghèo, đâu có biết ai quyền quý như thế. Người quyền quý nhất lão biết là ngài Tỉnh trưởng Tokyo. Ngài Tỉnh trưởng có phải là một nhà tư bản không?”
“Phải, tôi chắc thế. Tuy nhiên, các tỉnh tưởng dễ là chó kiểng của bọn tư bản hơn.”
“Ngài Tỉnh trưởng là một con chó ư?” Nakata nhớ đến con chó đen kếch sù đã đưa lão đến nhà Johnnie Walker, và hình ảnh dễ sợ ấy cùng ngài Tỉnh trưởng chồng lên nhau trong tâm trí lão.
“Thế giới này nhan nhản những loại chó như thế. Những quân cờ của bọn tư bản.”
“Quân cờ?”
“Tức là những con chó ngoan ngoãn tuân lệnh chủ.”
“Thế có mèo tư bản không?”
Hagita cười phá lên. “Chà, bác Nakata, bác thật khác người. Nhưng tôi thích cái cách của bác. Mèo tư bản! Thật là hay. Bác có một ý kiến rất chi là độc đáo.”
“Cậu Hagita này...”
“Gì vậy bác?”
“Vì lão nghèo nên ngài Tỉnh trưởng cấp cho lão một món chợ cấp hàng tháng. Việc lão nhận chợ cấp có phải là sai trái không?”
“Mỗi tháng bác được bao nhiêu?”
Nakata cho anh ta biết số tiền.
Hagita lắc đầu, vẻ ghê tởm. “Thật khó mà sống nổi với một món tiền bọ ấy.”
“Được chứ, vì Nakata này có tiêu gì mấy đâu. Ngoài chợ cấp, lão còn kiếm thêm bằng cách giúp người ta tìm mèo lạc.”
“Không đùa đấy chứ? Một tay tìm mèo chuyên nghiệp?” Hagita nói, vẻ thán phục. “Tôi phải nói bác là một quái kiệt.”
“Tình thật, lão biết nói chuyện với mèo,” Nakata nói. “Lão có thể hiểu chúng nói gì. Điều đó giúp lão tìm ra những con bị mất tích.”
Hagita gật đầu. “Tôi chắc điều đó không ngoài tầm của bác.”
“Thế nhưng cách đây không lâu, lão phát hiện ra là mình không nói chuyện với mèo được nữa. Lão không hiểu tại sao.”
“Sự vật thay đổi từng ngày, bác Nakata ạ. Mỗi sớm thức dậy, thấy thế giới không còn như hôm trước nữa. Bản thân mình cũng không còn là con người từng là mình hôm qua. Bác hiểu tôi muốn nói gì chứ?”
“Vâng.”
“Những mối liên quan cũng thay đổi. Ai là tư bản, ai là vô sản. Ai thuộ cánh hữu, ai thuộc cánh tả. Cách mạng thông tin, cổ phiếu, biến động vốn, tái cấu trúc nghề nghiệp, công ty đa quốc gia – cái gì tốt, cái gì xấu? Ranh giới giữa sự vật không ngừng được xóa nhòa. Có lẽ vì thế mà bác không nói chuyện được với mèo nữa.”
“Nakata này chỉ có thể phân biệt được tả với hữu. Đây là hữu, còn đây là tả. Đúng không?”
“Chính xác,” Hagita đồng ý. “Đó là tất cả những gì bác cần biết.”
Cuối cùng, họ cùng ăn với nhau một bữa trong tiệm ăn ở khu nghỉ chân. Hagita gọi hai suất lươn và khi Nakata đòi trả tiền để cám ơn anh đã cho đi nhờ, anh lắc đầu quầy quậy.
“Không được,” anh nói. “Tôi không đời nào để bác dùng cái khoản tiền còm người ta trợ cấp cho bác để đãi tôi đâu.”
“Vậy thì đa tạ. cám ơn cậu về bữa ăn ngon,” Nakata nói, vui vẻ chấp nhận sự hảo tâm của Hagita.
Nakata bỏ cả một tiếng đồng hồ ở khu tạm nghỉ Fujigawa đi hỏi các lái xe, nhưng không tìm được ai thuận tình cho quá giang. Tuy nhiên, lão vẫn không hoảng sợ hoặc buồn bã. Trong ý thức của lão, thời gian qua rất chậm. Hoặc gần như ngưng đọng.
Lão ra ngoài cho thoáng và lang thang đây đó. Trời không một vẩn mây, trăng sáng vằng vặc. Nakata dạo quanh bãi đậu xe đầy những chiếc xe tải to đùng như những con vật khổng lồ vai kề vai nằm nghỉ. Một số xe có ít nhất là hai mươi bánh, mỗi bánh cao bằng đầu người. Ngần nấy xe đều chạy trên xa lộ vào đêm khuya, không biết chở gì bên trong nhỉ? Nakata không thể hình dung nổi. Nếu mình đọc được những chữ viết trên thành xe, liệu mình có thể đoán ra không nhỉ? Lão tự hỏi.
Sau khoảng một tiếng đồng hồ, lão phát hiện ra độ chục chiếc mô-tô ở một góc của bãi đậu, nơi có ít ô-tô hơn. Một nhóm thanh niên đứng thành vòng tròn gần đó, xem một cái gì và la hét. Tò mò, Nakata tiến lại gần. có thể bọn họ đã khám phá ra một cái gì bất thường.
Khi đến gần hơn, lão thấy là họ đang vây quanh một người nằm dưới đất và đang đấm đá người đó – nói chung là ráng hết sức làm cho anh ta đau. Hầu hết đều tay không trừ một gã cầm một dây xích và một gã khác cầm một cây gậy ngắn màu đen nom giống như dùi cui cảnh sát. Họ mặc sơ mi cộc tay không cài khuy, một số mặc áo phông. Phần lớn đều nhuộm tóc vàng hoặc nâu, một số xăm hình trên cánh tay. Người thanh niên bị họ đang đấm đá cũng ăn vận tương tự như thế.
Khi Nakata tới gần, đầu nhọn của chiếc ô gõ lách cách trên mặt đất rải nhựa khiến vài gã chột dạ quay lại nhìn lão trừng trừng, nhưng trấn tĩnh lại khi thấy đó chỉ là một ông già vô hại. “Này, bố già phắn đi!” một gã quát.
Tỉnh bơ, Nakata bước lại gần hơn. Người nằm dưới đất ứa máu mồm. “Máu đang chảy ra kìa,” Nakata nói. “Khéo cậu ấy chết mất.”
Bị bất ngờ, bọn kia không kịp phản ứng.
“Liệu đấy, bố già, kẻo tụi tôi giết cả bố luôn thể,” gã cầm xích nói. “Giết một hay hai cũng vậy thôi, chả khó khăn gì hơn.”
“Các cậu không thể giết người vô cớ,” Nakata nài nỉ.
“Các cậu không thể giết người vô cớ,” một gã nhại lại và cả bọn cười ồ lên.
“Tụi này có cớ đấy anh già ạ,” một gã khác nói. “Với lại, tụi này có giết nó hay không, cũng chẳng bận gì đến anh già. Vậy nên hãy xách cái ô thổ tả của anh già mà biến đi trước khi trời đổ mưa.”
Người nằm dưới đất bắt đầu trườn lên và một gã đầu trọc liền xông tới đá thật mạnh vào sườn anh ta bằng đôi ủng lao động.
Nakata nhắm mắt lại. Lão cảm thấy một cái gì dâng lên bên trong mình, không kiểm soát nổi, khiến lão hơi buồn nôn. Lão chợt nhớ lại lúc đâm Johnnie Walker. Bàn tay lão còn nguyên cái cảm giác khi cầm dao cắm vào ngực một con người. Liên quan. Phải chăng đây là một trong những mối liên quan cậu Hagita đã nhắc tới ban nãy? Lươn = dao = Johnnie Walker? Tiếng của bọn thanh niên trộn vào nhau méo mó, không tách biệt, hòa với tiếng bánh xe rào rạo không dứt trên xa lộ thành một âm thanh kỳ lạ. Tim lão dồn đẩy máu đến tận những đầu mút của cơ thể trong khi đêm tối bao quanh lão.
Nakata nhìn lên trời rồi chậm rãi mở ô, giương lên che đầu. Rất thận trọng, lão lùi lại sau mấy bước, mở một khoảng cách giữa lão với bọn kia. Lão nhìn quanh rồi lùi thêm vài bước nữa.
Thấy vậy, bọn thanh niên cười hô hố. “Này, nom anh già kìa,” một gã nói. “Anh già giương ô lên thật kìa!”
Nhưng chúng không cười được lâu. Bất thình lình, những vật bầy nhầy từ trên trời rơi xuống đất bồm bộp ngay sát chân chúng. Chúng ngừng đá nạn nhân của mình và ngước nhìn trời. Không một đám mây, vậy mà rành là từ một chỗ trên trời, những vật đó vẫn nối tiếp nhau rơi xuống. Mới đầu còn lác đác, rồi dần dần dồn dập hơn, thành một trận mưa rào thực sự, trút xuống chúng những vật nhỏ đen đen dài độ hơn ba phân. Trong ánh đèn của bãi đậu xe, nom như tuyết đen lấp lánh đang rơi xuống vai, cổ và cánh tay đám thanh niên rồi dính chặt vào đấy. Chúng cuống cuồng tìm cách dứt những vật ấy ra mà không được
“Đỉa!” một gã la lớn.
Như tuân theo một hiệu lệnh, cả lũ kêu ầm lên và chạy qua bãi đậu xe về phía nhà vệ sinh. Một gã tóc vàng đâm sầm vào một chiếc xe hơi, ngã nhào xuống đất. Gã bật dậy, vung tay đấm lên capô và lớn tiếng chửi người lái xe. Tuy nhiên, gã dừng lại ở mức đó và tập tễnh đi về phía nhà vệ sinh.
Cơn mưa đỉa ập xuống ào ào một lúc, ngớt dần rồi tạnh hẳn. Nakata cụp ô lại, phủi những con đỉa bám vào quần áo và trở lại xem người bị đánh ra sao. Một đống đỉa nhung nhúc xung quanh và phủ lên anh ta khiến lão không thể đến gần hơn. Nhìn thật kỹ, Nakata có thể thấy máu rỉ ra từ hai mí mắt bị rách và mấy chiếc răng bị gãy. Nakata biết một mình lão thì không thể xoay xở được nên chạy về tiệm ăn bảo một nhân viên là có người bị thương nằm ở bãi đậu xe. “Cậu nên gọi cảnh sát mau kẻo cậu ta chết mất.” lão nói.
Sau đó không lâu, Nakata tìm được một tay lái xe tải đồng ý cho lão quá giang đến Kobe. Một gã khoảng hai mươi lăm, hai sáu tuổi, mắt gà gà như buồn ngủ, không cao lắm, để tóc đuôi ngựa, đeo khuyên tai và đội chiếc mũ của đội bóng chày Chunichi Dragons. Gã ngồi trong tiệm ăn, vừa hút thuốc vừa xem một cuốn truyện tranh. Một chiếc sơ mi Hawai sặc sỡ và đôi giày Nike quá cỡ hoàn tất trang phục của gã. Gã vẩy tàn thuốc lá vào mấy sợi mì còn sót lại trong bát, trừng trừng nhìn Nakata rồi gật đầu với vẻ miễn cưỡng. “ờ, thôi được. Ông có thể đi cùng. Ông có cái gì giông giống ông nội cháu. Cung cách, hay có lẽ lối nói tựa như lạc đề của ông... Về sau, ông cụ đâm lẫn cẫn rồi chết. Cách đây mấy năm.”
Gã giải thích rằng sáng mai, xe phải đến Kobe giao đồ gỗ cho một cửa hàng lớn của thành phố này. Xe vừa ra khỏi bãi đậu đã gặp ngay một tai nạn giao thông. Hai chiếc xe tuần tra đã có mặt tại hiện trường, đèn đỏ chớp loang loáng, và một cảnh sát đang điều khiển giao thông bằng một đèn tín hiệu. Có vẻ như không đến nỗi nghiêm trọng lắm. Mấy chiếc xe va quệt nhau, thành một chiếc buýt mini bị xây xước, một chiếc đèn hậu bị vỡ.
Gã tài xế thò đầu ra cửa xe, trao đổi vài câu với một cảnh sát tuần tra, rồi quay cửa kính xe lên. “Anh ta bảo một đống đỉa từ trên trời rơi xuống,” gã nói, thản nhiên như không. “Chúng bị xe nghiền nát, làm cho đường rất trơn, và một số lái xe bị lạng tay lái. Vậy nên hãy đi từ từ và thoải mái, anh ta bảo cháu thế. Ngoài ra có một băng đảng mô-tô tính sổ với nhau, đánh một tên thừa sống thiếu chết. Đỉa và băng đảng mô-tô một sự phối kết kỳ quái! Ít nhất thì cũng làm cho cảnh sát bận rộn.”
Gã thận trọng lái về phía lối ra khỏi xa lộ. Ngay cả đi rất chậm, xe cũng đôi lần bị trượt bánh và gã tài xế khéo léo lựa tay lái, chỉnh lại ngay ngắn. “Chà, có vẻ là cả một núi đỉa ụp xuống thật, đường trơn như mỡ. Chao, đỉa, cái giống thật tởm! Ông đã bao giờ bị đỉa bám vào người chưa?”
“Chưa, theo trí nhớ của Nakata này, thì hình như chưa bao giờ,” Nakata đáp.
“Cháu lớn lên ở vùng núi Gifu và chuyện đó xảy đến với cháu bao nhiêu lần. Đang đi trong rừng, đùng một cái nó từ trên cây rơi xuống. Đang lội suối, nó lao đến bám vào bắp chân. Cháu chả lạ gì cái giống đỉa, hãy tin cháu. Một khi nó đã bám vào mình rồi thì khó rứt ra lắm. Nếu rứt một con bự, da sẽ bị tuột theo và để lại sẹo. Cho nên tốt nhất là đốt cho nó rụng xuống. Thật gớm ghiếc, cái cách nó hút máu người ta! Khi hút no, nó phình ra, nung núc, mềm nhão. Thật tởm lợm, phải không?
“Vâng, chắc chắn là thế,” Nakata đồng ý.
“Nhưng đỉa không thể từ trên trời rơi xuống một bãi đậu xe của một khu dừng chân dọc đường. Cháu chưa bao giờ nghe thấy chuyện gì vớ vẩn đến thế. Dân vùng này chẳng biết tí gì về đỉa cả. Đời thuở nào đỉa lại từ trên trời rơi xuống bao giờ?”
Nakata lặng thinh không trả lời.
“Cách đây mấy năm, một số lượng rết nhiều vô kể đồng loạt xuất hiện ở tỉnh Yamanashi và xe hơi bị trượt bánh khắp nơi. Cũng giống như thế này, đường sá trơn như mỡ gây nên rất nhiều tai nạn. rết tràn ngập cả đường sắt, xe lửa cũng không chạy được. nhưng rết không rơi từ trên trời xuống, mà từ một nơi nào đó bò ra. Bất kỳ ai cũng biết thế.”
“Lâu lắm rồi, lão đã từng sống ở Yamanashi. Trong thời gian chiến tranh.”
“Ông không đùa đấy chứ?” gã lái xe nói. “Là cuộc chiến tranh nào vậy?”
Kafka Bên Bờ Biển Kafka Bên Bờ Biển - Haruki Murakami Kafka Bên Bờ Biển