No person who can read is ever successful at cleaning out an attic.

Ann Landers

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick White
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 23
hững ai không muốn dính líu đến cái chết chẳng mấy chốc đều tìm cách lảng tránh gia đình Parker. Hai người đi đây đi đó như thể không có việc gì xảy ra. Thật là buồn cười. Có lẽ họ chưa nghe nói về chuyện đó. Vì thế những kẻ sợ chết bắt đầu hấp háy đôi mắt nhìn tang gia. Thậm chí họ ra ngoài và giúp đỡ những người đã miễn cho họ cảnh lúng túng phải phân ưu. Họ mang quà đến và giúp những việc lặt vặt. Song điều đó làm cho họ cảm thấy yếu mệt.
Thế rồi ông cụ Parker đọc báo, sau khi cuộc điều tra được tiến hành, biết tin rằng con trai mình đã chết. Ông lão đang đứng đó, trong sương giá, đầu trần, vì ông chỉ ra ngoài để lấy báo buổi sáng; cụ đọc lướt qua và thấy ngay cái tin về một người đàn ông tên là Ray Parker bị bắn vào bụng trong một hộp đêm. Nó chết rồi.
Đúng là thằng Ray. Ray đã chết, trong sương giá trắng, đúng trên quãng đường ấy. Thằng Ray, ông tự nhủ, kéo tờ báo về một bên như một cái cánh, đập đập. Ông nhìn theo con đường. Nó hoàn toàn vắng vẻ. Rồi ông lại đọc tiếp, về chuyện đã xảy ra. Hoặc nhìn quanh. Và run lên. Kêu một ai đó đến. Để xem họ đã đọc tin này chưa.
Mọi người trừ ông bà Parker đều đã đọc vụ án này, dĩ nhiên, nhưng lảng đi ngay khi có dấu hiệu là điều bí mật sắp bị tiết lộ.
Tối hôm ấy, Ray Parker đã xuống khu phố tồi tàn, mông quần căng chật, vì vào thời điểm chết, hắn là một người to lớn, nhưng mềm yếu, quanh cái miệng dày với hai khóe mềm, ủ rũ. Hắn đi lại khá phóng khoáng ở những nơi quen thuộc, trên cái cầu thang lỗ rỗ, màu gio. Phía dưới, một vài người đàn bà đang trang điểm hoặc chải đầu, vứt những cuộn tóc rối xuống dưới mấy cái bàn màu xám. Vào giờ ấy đêm trôi chậm chạp. Cái miệng ngáp không buồn ngậm lại mà cứ mở to ra, cho đến khi ta nhìn thấy sâu bên trong có cái lưỡi gà nho nhỏ ánh ngời. Vào một giờ khác ai có thể nghĩ rằng nó ở đấy? Hay âm nhạc, đang bập bùng quanh rãnh đĩa than, riêng tư như những chiếc kim đọc.
Ray đi lên thẳng chỗ Lola, người đang sống chung với hắn, cô mặc một chiếc áo sơ-mi vừa lấy ở thợ giặt về hôm ấy; nó còn mang mùi hiệu giặt, nhưng vẫn còn nguyên các vết xúp không tẩy sạch. Jack Cassidy cũng ở đấy, ngoài những thứ khác y có một cuốn sách, và dắt theo một gã đàn ông mà chẳng ai biết, chẳng ai từng biết. Có nhiều cô gái và phụ nữ khác cùng túi xách và chỉ có tên thánh. Họ ngồi ở đó đã một lúc lâu, trước một cái gạt tàn đầy tàn thuốc và những cốc bia. Lola bồn chồn lo lắng.
Nhưng mọi người mải chuyện trò và cười ầm ĩ, họ hỏi Jack Cassidy về cái tin có ai đó bị một người bạn làm rầy rà. Ray Parker ngả người qua cái bàn. Hắn đang nói chuyện với Lola, phân vân không biết mình sẽ nghĩ thế nào về người đàn bà đó, nếu vào phòng này và nhìn thấy ả lần đầu tiên, chắc là kinh khủng lắm, nhưng ả đã trở nên cần thiết đối với hắn. Còn Lola đang nói chuyện với Ray nhưng không nhìn vào hắn, bởi vì ả không muốn nói chuyện với hắn trước mắt mọi người. Sau này ả không nhớ được hai người đã nói những gì.
Đúng lúc đó Alfie bước vào. Y tiến đến chỗ Ray. Ray quay ngoắt lại, và bị bắn bằng một khẩu súng lục mà chẳng ai có thể tin được. Cái chết chẳng thực tí nào. Đầu tiên Ray bị bắn vào háng. Hắn là một người to lớn, và lố lăng. Rồi Alfie bắn tiếp, lần này vào bụng, sau này Ray kể lại, lúc hắn đã qua cơn sợ hãi. Khi hắn nằm sóng sượt trên sàn nhà nhìn Alfie, cơ thể gã này co lại thành một lớp da vàng, như thể y cũng không tài nào tin được ý định của mình. Bắn Ray vì tội báo cảnh sát hay vì một lý do nào đó mà y đang tìm kiếm.
Dẫu sao Ray Parker đã bị bắn. Hắn đang nhìn vào chiếc áo của Lola may bằng xa-tanh trắng hay màu sò, cái màu sắc của ả, màu của ả lúc buổi sáng. Ả là một người đàn bà béo bệu. Và sau đó không lâu Ray chết, trước mặt người đàn bà này, cùng một viên cảnh sát và một nữ tu sĩ. Họ đang thấm ướt đôi môi của hắn khi chẳng bao giờ hắn còn có thể cúi mặt xuống hút nước màu nâu của cái đập, chẳng thể ném cho những hòn đá nhảy lên, hay nói ra thậm chí những lời đơn giản hắn vẫn quen nói. Hắn đã chết.
Một phần của câu chuyện này ông lão Parker đọc trong đám cỏ bạc bên đường. Ông cụ đọc tên và tuổi. Ray Parker nổi tiếng là một kẻ oa trữ đồ ăn cắp. Hắn lãnh nhiều án tù ngắn hạn ở các bang khác về tội đột nhập và ăn trộm. Hắn khét tiếng ở trường đua ngựa. Đây là con trai của ông bà Parker. Chứng cớ được cung cấp bởi người vợ ngoài giá thú của người quá cố, Mary Brill, còn có tên là Lola Brown hay Joanne Valera. Người đàn bà này chuyên làm trò mua vui, tờ báo viết vậy.
- Anh đang làm gì đằng ấy thế? - Amy Parker hỏi.
Bà khó chịu hết sức về việc ông không đội mũ.
- Ở cái tuổi này. - Bà nói.
- Ồ. - Ông nói rồi mỉm cười.
- Thôi, vào nhà đi. - Bà nói. - Trứng đã xong rồi.
Ông vào nhà và đặt tờ báo xuống đằng sau cái chạn bằng gỗ tuyết tùng nặng mà bà không di chuyển, trừ vào mùa xuân, khi đó bà thường nhờ ông giúp một tay. Thế là tờ báo ở yên đấy với bụi bặm.
Sau đó chẳng bao lâu Stan Parker nói với vợ:
- Anh có chút công chuyện phải đi lên Sydney, Amy ạ.
- Ồ. - Bà nói.
Bà hài lòng. Bà không hỏi. Cả ngày Amy Parker loanh quanh trong nhà, mở các ngăn kéo ra ngắm nhìn các vật bà đã quên, hoặc nhìn những cây đang vươn về phía mặt trời, rồi bà quay chúng lại, rồi lại ngắm nhìn. Những hành động riêng tư này làm cho bà khuây khỏa.
Thế là bà lắng nghe, không hề than vãn với con dao cạo trên má chồng bà, sau khi hôn da thịt nhẵn nhụi của chồng, cài cổng trước bằng một cái xích con, bà trở về với những ý nghĩ của bà và chẳng bao lâu ngụp lội trong đó.
Stan Parker, choáng váng vì đau buồn, muốn tâm tình với một người nào đó. Ông muốn nói chuyện với con dâu, nhưng Elsie và đứa con trai đang đi du lịch ở một bang khác với bố cô, một người buôn tạp hóa đã về hưu, một người tráng kiện. Còn Thelma đã đi New Zealand với chồng, thực hiện một cái gọi là chuyến đi nửa công nửa tư. Ray chết rồi, Stan Parker thầm nói. Ông bắt đầu nghĩ đến thằng bé con, cái điều quá ít ỏi ông biết về con trai mình. Một bí mật nào đó bắt đầu khép lại khuôn mặt của đứa trẻ. Cuối cùng trên tàu hỏa ông lão khóc một chút, quay người để khóc bên tấm kính cửa sổ và trước những ngôi nhà chẳng có hình thù. Miệng ông đầm đìa nước.
Khi tàu đến thành phố, ông bị xô đẩy khá nhiều tại Nhà ga Trung tâm, và nhận ra ông chưa biết mình sẽ làm gì. Có lẽ ông sẽ chẳng làm gì cả. Ông có thể làm được gì nào? Ông bị lôi vào cơn lốc của những người đang đi về một nơi nào đó. Chiếc mũ ông lão, một chiếc mũ mới, đã bị móp méo, nhưng ông không hề nghĩ đến chuyện nắn lại.
Trong khi ấy, mặc dầu bị xô đẩy và tâm trí bất định ông vẫn tiến tới, hỏi thăm đây đó, cho tới khi đến sát cái phố ngày trước người quá cố đã sống. Một anh chàng nhỏ bé, khô khốc, đeo tạp dề, thậm chí còn quen biết Ray Parker, tò mò nhìn ông lão.
Khi Stan Parker đến cái phố đó, vào một trong những buổi sáng màu xanh mà cái lạnh đã bị hút vào biển cả lộng lẫy, những đường hẻm màu đất sét rộng mở như trong giấc mơ, cả sâu bọ đều im ắng, ông được mấy đứa trẻ nhanh chóng đưa đến một ngôi nhà; chúng biết rõ các chi tiết về vụ án mạng, đây là vụ đầu tiên chúng có liên quan.
Chúng đưa ông lên gác, nhưng đến chiếu nghỉ thì bỏ ông ở đấy. Bọn trẻ chạy xuống theo lồng cầu thang, nhanh như gió, lan can nóng bỏng dưới bàn tay chúng.
Ngay sau đó, một người đàn bà đi đến cửa bên trên cầu thang. Chị ta đứng đấy, đợi người ta buộc tội. Ông cụ nghĩ thầm: Nếu không có cái chết của Ray thì cái gì khác có thể đưa ta đến với người đàn bà này?
- Có phải ngày trước Ray sống ở đây không? - Ông hỏi.
- Vâng. - Chị ta trả lời nhanh, hoặc nấc vì khóc quá nhiều.
- Tôi là cha của nó. - Ông cụ nói.
Chị ta không tỏ vẻ vui mừng. Mặt chị sa sầm.
- Cháu không biết có gì để nói cho cụ. - Chị nói một cách lén lút.
Sáng hôm ấy tóc chị nom rất kinh khủng. Hệt như tóc người chết. Nhưng chị đưa ông vào qua một cái phòng nhỏ quanh có căng diềm, và theo thói quen bắt đầu mân mê bộ tóc, kéo hoặc xoắn mấy lọn tóc, miết xuống da đầu, lộ móng tay qua mớ tóc.
- Cháu không muốn cụ bàn chuyện về cái chết. - Chị ta nói khi hai người ngồi xuống bàn, hai tay đặt trước mặt. - Cháu ngấy lắm rồi. Cháu muốn mời cụ uống một chút nhưng nhà chẳng có gì. Đến khi có người chết mới biết mình có bao nhiêu bạn bè, và họ uống nhẵn ráo. Sau khi Ray bị giết chúng cháu bán tống bán tháo hết.
Ông cụ ước sao mình có thể nói được điều gì với người đàn bà này, và cảm thấy ngớ ngẩn vì chẳng làm được.
- Tôi muốn giúp đỡ cô. - Ông nói, băn khoăn không rõ mình sắp sửa hứa hẹn điều điên rồ gì đây.
- Cụ không thể giúp đỡ được người ta đâu, - chị ta nói, ân miễn cho ông. - Họ phải tự lo liệu lấy. Làm như thế ít ra mình cũng độc lập.
- Cây gì kia? - Ông cụ hỏi cái vật đang vùng vẫy trong một cái chậu.
- Cây kia à? - Chị nói. - Cháu cũng chả biết nữa. Cháu kiếm được. Thế rồi đâm ra gắn bó với nó.
Chị xì mũi.
- Cô có định ở đây không? - Ông hỏi.
Bàn ghế ruồi bâu bốc lên một mùi mốc meo tởm lợm. Nhưng có một chiếc radio bóng nhoáng.
- Cháu chẳng biết. - Vợ của người quá cố nói; chị vừa mang đến một bao thuốc lá, nhét một điếu vào mồm như nhét một món thức ăn, và thổi ra một làn khói ở đằng mũi nom như chiếc kèn trumpet dài.
- Có bao giờ cụ biết được mình sẽ làm gì không?
- Có, - ông trả lời làm ra vẻ quả quyết.
Thực ra ông cảm thấy những ý định của ông bao giờ cũng bốc lên như làn khói. Chúng bị cuốn đi.
- Cháu chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì đã xảy ra. - Người đàn bà nói, nuốt một ngụm khói và nhả ra với vẻ trầm tư khó hiểu. - Ở quê cháu, - chị ta nhắc đến tên một đoạn đường sắt nào đó ở vùng tây bắc, - cháu vẫn thường nói rằng mình sẽ làm việc này việc nọ. Cháu nói sẽ là một ca sĩ. Bởi vì cháu có giọng hát rất hay. Và rồi. Cháu hát được bài One fine day, vân vân, và hát rất chuẩn. Cháu có tâm hồn nghệ sĩ. Cháu có một chiếc váy màu hồng, một chiếc mạng màu hồng, với mấy bông hoa hồng bà cô cháu thêu lên viền áo, và đôi giày xa-tanh. Nhưng đương nhiên cuộc sống ở đó cũng chẳng sôi động lắm. Chỉ những con lật đật lắc lư trong gió. Mùa hè có thể nghe thấy tiếng ì ầm trong các bồn nước, vì nóng. Và có cả tàu hỏa ban đêm. Cháu thường lên tàu, mang theo ấm trà, và phục vụ mọi người cả bánh nướng, thứ bánh nổi tiếng. Ban đêm đèn thắp đẹp lắm, các gương mặt lạ lẫm cũng nom đều đáng yêu. Cháu nhìn đám hành khách. Chẳng ai biết bên trong cháu ẩn giấu cái gì, thật kỳ diệu. Mà cháu cũng chẳng hay. Khác hẳn với khi mình còn trẻ, ngồi với người lạ, bên ánh đèn. Ban ngày dĩ nhiên chỉ có tàu chở cừu. Chuyến lên chuyến xuống. Đàn cừu khốn khổ xếp chặt như nêm. Bố cháu là trưởng ga, cứ đi ra và thi thoảng chửi thề giữa cái nóng bức. Vào những ngày hè như thế chẳng mấy chốc mặt mày lấm đầy bùn. Nhưng ban đêm thì trời đầy sao. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Và cũng đã xảy ra. Cháu leo lên một chuyến tàu đêm với người gác, chẳng vì lý do gì ngoài việc bàn chân cháu đã đặt lên bậc cấp. Chỉ đơn giản thế thôi. Khuôn mặt anh ta hiện ra. Và suốt đêm hôm ấy cháu cứ nghĩ rằng chuyến tàu là một điều vĩnh hằng. Thế đấy, cháu đã phạm nhiều sai lầm tệ hơn, nhưng sai lầm đầu tiên vẫn là sai lầm tồi tệ nhất. Người đàn ông ấy, cháu quên mất tên rồi - tên là Ron thì phải - anh ta có một sợi dây đồng hồ bên trên có gắn với mấy viên ngọc lục bảo, sáng ra anh ta đâm sợ vợ. Đàn ông là thế, họ thành ra dơ dáy khi ta thích họ, trừ phi ta là người đầu tiên, mà ai là người đầu tiên cơ chứ? Thế đấy, cháu không thể quay trở lại, và cũng không muốn. Cháu chẳng bao giờ có kỳ vọng về những điều lớn lao của quá khứ. Do vậy cháu cứ quẩn quanh mãi. Cháu có tham gia dăm ba sô diễn. Nhưng không trở thành ca sĩ đúng theo ý định của mình, như trước kia cháu đã tin chắc. Không phải là vì không còn muốn nữa. Mà như thể bị đẩy đi. Thế là đêm đêm, cháu cứ tỉnh giấc, lắng nghe tàu điện chạy qua, và biết mình sẽ chết dí ở đó. Đôi khi cháu khóc, nhưng thật ra cháu chẳng thiết gì nữa. Dẫu sao cháu vẫn có thể đi tàu điện tới Waston Bay và nhảy xuống, hoặc mua một miếng bít tết ngon đỏ lừ, hoặc kiếm một gã đàn ông. Đó là tất cả những gì cháu chưa biết tới. Bởi vì ngày ấy cháu còn trẻ, có thể ngủ suốt ngày, và da thịt cháu còn tươi mát.
Ông lão từ nãy đến giờ vẫn lang thang trong màn sương của câu chuyện, bỗng nhận ra rằng nỗi khổ đau của ông lại trở nên riêng tư. Ông nghĩ đến đôi chân của Ray với những mẩu vụn bánh mỳ vàng rơi ra từ đó. Thế ra ta đến đây không phải để giúp đỡ mà được giúp đỡ. Ông hãi hùng nhìn người đàn bà nhếch nhác kia.
- Cháu thật sự là một con nô lệ, - người đàn bà thở hổn hển nói. - Mặc dù cháu không nhận thức được điều đó trong một thời gian. Rồi đến khi nhận ra rằng mình bắt đầu đi tìm một người để được giải thoát. Cháu tìm, tìm mãi.
Ông lão giờ đây lại nóng lòng muốn nói chuyện về con trai mình, hay ít ra là về người con mà ông biết, và nghe một điều gì tốt về hắn, nghĩa là về chính bản thân hắn. Ông bỗng hỏi:
- Vậy cô quen biết thằng Ray bao lâu?
Nhãn cầu của người đàn bà tên là Lola nhìn chăm chăm.
- Suốt đời cháu, - chị ta nói một cách quả quyết, - cháu biết Ray trong một cơ thể này, hoặc cơ thể khác. Đôi khi cháu nhìn vào đôi mắt anh ấy cố tìm xem ở đó có cái gì khác không, nhưng chẳng bao giờ thành công. Khi anh ấy chết, cháu ôm cái thân xác ấy, dựng lên, rốt cục nó chẳng khác gì mấy, chỉ nặng hơn thân xác của một người đã lấy đi tất cả những gì anh ta cần, và rồi ngủ thiếp đi.
- Cô có cầu Chúa không?
- Cháu sẽ không làm một loại nô lệ khác đâu. - Lola thét lên. - Thế cụ biết gì về Chúa nào?
- Chẳng là bao, - ông lão nói. - Nhưng tôi hy vọng cuối cùng tôi sẽ biết một cái gì đó. Còn gì khác đáng để biết nữa không?
- Ồ, cháu không đủ kiên nhẫn. - Lola nói, vò mái tóc chết khô. - Đôi lúc cháu nghĩ cuối cùng mình sẽ quay về nhà. Cháu muốn ngồi lại. Cháu nghĩ rằng trước kia mình tự do hơn. Hay là đã quên? Hay là cháu mơ điều đó từ bấy đến nay? Có một vài cây chết trong bình nguyên ấy. Cháu muốn ngồi đấy, cạnh chuồng gà. Chẳng có gì khác nữa, ngoài không gian trống trải. Thế còn tốt hơn cầu nguyện.
- Tự do. Nhưng cầu nguyện là tự do, hoặc nên là thế. Nếu con người có lòng tin.
- Không. - Chị thét lên. - Không, không, không!
Mặt lập tức đỏ bừng.
- Cụ đang tìm cách tóm cháu, - chị nói. - Nhưng sẽ chẳng tóm được cháu đâu.
- Tôi làm sao tóm bắt được cô, - ông lão hỏi, - khi bản thân tôi đang bị tóm? Tôi đã bị trói chặt.
- Các ông già, - chị lầu bầu, - luôn là người tồi tệ nhất. Họ nghĩ rằng nếu nói chuyện họ sẽ chứng minh rằng mình khỏe mạnh. Cháu chẳng cần bất kỳ người nào cả, khỏe, hay già, hay bất cứ loại nào.
Mắt chị ánh lên với tình huống chị vừa tạo ra, với không gian mênh mông. Hơi thở của chị hắt ra như của trẻ thơ.
- Me… ẹ, - thằng bé bước vào gọi chị. - M… e… ẹ…
- Cái gì thế? - Chị hỏi, chộp lấy hơi thở vừa thoát ra.
- Con muốn ăn phó mát.
- Không có phó mát.
- Một tẹo thôi.
- Trẻ con không phải chạy lung tung vừa ăn phó mát.
- Con cứ.
- Thế này thì hư quá.
Khi sự yên lặng xoa vào chị được một hồi, chị đi vào căn bếp nhỏ, lấy xuống một cái hộp bằng thiếc trên có mấy bông hoa và thái một lát mỏng pho mát tựa như xà phòng.
- Đây, - chị nói, - chẳng còn nữa đâu.
Nó không cám ơn mẹ, vì đó là quyền lợi của nó. Nó phải ăn.
Ông lão ngồi nhìn. Thằng bé như thể là con trai ông. Ông muốn nói với người mẹ: “Ta sẽ bảo cho cô biết cái gì đang dành cho cô,” nhưng dĩ nhiên cô ta sẽ chẳng bao giờ tin đâu. Vì thế, ông hỏi thằng bé:
- Cháu có biết ông là ai không?
Một cách ngu xuẩn, lập tức nhận ra rằng ông sẽ phải chịu đựng.
Bởi vì thằng bé nhìn ông và nói:
- Không.
Rõ ràng là, với cái mồm đầy phó mát, nó không muốn biết.
- Ray chẳng bao giờ nhắc đến cụ cả, - người đàn bà mơ màng nói, không có vẻ nhẫn tâm.
Chị đang vuốt mái tóc sống động của thằng bé, mà chị có thể ngửi thấy thoang thoảng, và mỉm cười.
- Đây là ông nội con, - chị nói, - đến thăm mẹ con ta.
Ông lão ước gì chị không nói điều ấy.
- Sao lại thế? - Thằng bé hỏi.
Không ai có thể trả lời được.
Thằng bé hất mạnh đầu để giải thoát.
- Con chẳng cần ông nào cả, - nó nói, ngờ vực tất cả những gì không phải là thức ăn hay vui thú, đặc biệt là những điều nó chưa biết, cái làm lung lay sự tự tin của nó.
- Cứng đầu thật, - người mẹ nói với giọng không hề mắng mỏ.
Ông già chấp nhận điều ông đáng phải chịu.
- Đến đây mẹ chải tóc cho nào, - người mẹ bảo thằng bé, chị say đắm mớ tóc ấy.
- Không, - nó nói, - để lúc khác.
- Chỉ một tẹo thôi mà, - chị nài nỉ, vừa đi tìm một chiếc lược nhỏ có cán. - Nào, lại đây, Ray.
Như vậy thằng bé này cũng là Ray.
- Không. - Thằng bé nói. - Với lại đó là lược con gái.
- Cháu chẳng làm được cái gì với nó. - Người mẹ nói với vẻ vui sướng cực độ.
Một lúc sau ông già thấy mình phải để mặc chị ta với cảnh nô lệ của chị. Chị say trong tình yêu và hương tóc trẻ thơ. Thế là ông cụ chuẩn bị ra đi.
Ông đi dọc hành lang mờ tối thêm vì lớp lót sàn cũ màu nâu, người đàn bà tên Lola chạy theo ông và nói:
- Cháu chẳng biết nói gì để cảm ơn cụ.
- Về chuyện gì?
- Cụ đã giúp cháu thấy rõ nhiều điều.
Đôi mắt ông đang nhìn chị lòa đi bởi sự bối rối.
- Cảnh nô lệ tất yếu này, - chị nói, - nếu đó là cái điều mà cụ định nói ra.
Ông vừa đi vừa cảm thấy ngạc nhiên rằng mình có thể làm sáng mắt ai đó bằng sự u tối của mình.
Nhưng đây chỉ là một trong những điều kỳ lạ.
Khi Stan Parker về đến nhà, sau khi tháo dây xích con cài ở cổng để ngăn đám súc vật từ vùng dưới lạc đến, ông nhìn thấy Amy đang ngồi ở ngoài hiên, như bà vẫn thường ngồi, nhưng nom héo hon. Liệu mình có khả năng đương đầu với chuyện này không? Ông lão băn khoăn trong khi hai chân ông vẫn bước về phía trước.
- Cái gì thế? - Ông hỏi.
Mặc dù ông đã biết.
Khi ông bước tới ông thấy cô gái gầy gò vẫn nằm nguyên trong bà lão vững chãi này, và nỗi thương tâm kia cũng làm ông tan nát cõi lòng.
- Tôi định bụng tạm thời giữ không cho bà biết, - ông nói, - có thế thôi.
Ông vừa bước tới vừa đưa hai tay ra. Chẳng bao giờ ông chạm tới bà.
- Được thôi, - bà nói như thách ông chạm vào bà, vì bây giờ bà đã thôi khóc. - Em đã trải qua những chuyện như thế này nhiều lần, chỉ có điều là hơi khác nhau. Nhưng mỗi lần nó đến thì chẳng ai ngờ.
Khi tin ấy đến, Amy Parker đang ngồi ngoài hiên trong một ngày quang đãng. Một cây nhỏ bao nhiêu năm nay bà theo dõi lần đầu tiên đâm bông. Thật là một viên ngọc.
Thế rồi bà nghe thấy tiếng xích. Tiếng lách cách của một người lạ lẫm với nó; sau cùng người ấy đi vào, xô qua những bụi trúc đào và những bụi hồng mọc lộn xộn móc vào quần áo, thậm chí còn cào rách người lạ, khiến họ bực mình.
Người lạ bước tới, mà hóa ra không phải người lạ, mà chính là bà O’Dowd, bạn của bà Parker đã bao nhiêu năm nay.
- Kìa, - bà O’Dowd nói, - chị thật là một người bạn tốt, nếu có thể gọi chị như thế, tôi không chắc lắm.
- Thế đấy, - bà Parker nói, - chị để lại bao nhiêu thứ, và rồi thời gian trôi đi.
Bà ngờ ngợ không biết mình có vui mừng không.
- Chị có khỏe không? - Bà O’Dowd hỏi.
- Khỏe, chị ạ, - bà Parker trả lời; bà không đứng lên, có thể vì cái chân, cũng chẳng mời bất cứ thứ gì.
Bà O’Dowd có vẻ ngoài chảy xệ, bây giờ mới nom rõ. Lớp thịt chắc nịch hầu như mất rồi, chỉ còn lại những lớp da nhẽo, cố nhiên là bà ta xấu xí và vàng vọt, nhưng hoạt bát. Bà luôn luôn là một người phụ nữ năng động. Cuộc đời chiếm hữu bà một cách không gọn gàng. Cũng may cho bà O’Dowd là bản thân cuộc đời bà cũng lộn xộn. Nó tạm bợ và vỡ thành nhiều mảnh nhỏ, mà đôi mắt bà luôn luôn soi xét song có lẽ chẳng bao giờ nhìn thấy đầy đủ, hầu như bất an và mờ đục.
- Thế ông O’Dowd thế nào? - Amy Parker hỏi, bởi vì bà phải hỏi. - Mấy năm nay tôi chẳng nghe tin tức gì cả.
- Ông ấy không được khỏe, - bà O’Dowd nói, vì sự thể không thể thay đổi được, nên cũng không đau buồn. - Ông ta giống như con chó kia.
Đó là một con chó già, màu đen, con chó của Stan, có một tai hỏng và đôi mắt lòa.
- Tội nghiệp ông ấy, - bà O’Dowd nói. - Ông ta bị đục thủy tinh thể, cả hai mắt. Ông cứ đi quanh quẩn như một con chó, chị phải đến thăm ông ấy, chõ mũi vào mọi thứ, trông thương phát khóc.
Thế nhưng bà ta không khóc, bà đã quen thế rồi.
Amy Parker không muốn chứng kiến chuyện đau thương dưới bầu trời mùa đông yên tĩnh. Bà thay đổi tư thế trong chiếc ghế.
- Tôi có biết một người, - bà nói, - bị đục thủy tinh thể một bên mắt. Chị ấy đã mổ chữa nó.
- Ông ấy sẽ không chịu đâu, - bà O’Dowd nói. - Không phải ở cái tuổi này. Ông bảo là ông cảm nhận được sự vật, và sẽ chẳng nhìn thấy cái gì mới mẻ, ông nói vậy, bước đến cổng nghĩa trang rồi.
Bản thân bà O’Dowd, đương nhiên, biết rõ hơn, đưa mắt nhìn chỗ này chỗ kia.
- Đầu hồi mới có mái che, bà Parker nhỉ? - Bà O’Dowd nói.
- Vâng, - bà Parker nói, - cái ấy mới đấy. Sẽ còn nhiều cái mới nữa. Đối với chị.
Bà hếch cái cằm về phía bà O’Dowd, và không phô ra quá nhiều, song bà bạn cũ - mới của bà, quay sang bên này bên nọ, trong chiếc áo choàng màu đen, với mớ tóc trên cổ áo nơi tóc thường xõa xuống, và chiếc mũ nhỏ màu nâu mà bà không thể nào tìm thấy nhưng hẳn nó đã mọc lên từ cái đầu bà, hình như lại sẵn sàng phô trương. Bà ta thật cởi mở, bề ngoài dẫu sao cũng thế.
Bà O’Dowd cười vang thẳng thắn, để lộ hai lợi ra, vì đã mấy năm nay bà bỏ hàm răng giả vào trong một cái hộp. Bà nói:
- Đấy, cái lợi của sự xa cách là thế đấy, chị bạn thân yêu. Xa bạn một vài năm, ta sẽ thấy bao nhiêu điều mới mẻ. Cũng sẽ thấy cả cái cũ nữa. Ôi.
Bà cười vang.
Và quẹt sạch một vết đờm trên cằm.
- Chị sẽ nhìn thấy nhiều thay đổi dưới chỗ chúng tôi. Chị sẽ thấy các cây hoa vân anh bị chặt sạch. Chị có thể nhìn thấy ngôi nhà. Nói thật với chị, tôi bao giờ cũng ghét hoa vân anh, chúng chẳng bao giờ ngẩng cao đầu, đồ ngốc nghếch. Thế là tôi vớ lấy chiếc rìu vào một buổi trời mưa và chặt ráo. “Này,” ông nhà tôi bảo, “tôi có thể cảm thấy ánh sáng đang tràn vào, bà có nghĩ rằng chúng ta có thể chịu đựng được nó không? Và liệu bà Parker sẽ nói gì, bà ta vốn rất thích hoa vân anh.”
- Tôi không nhớ, - Amy Parker nói, - đặc biệt về chuyện thích hoa vân anh, tuy rằng dĩ nhiên chúng cũng đẹp.
Và run rẩy dưới những con chim luôn chõ mỏ vào, những cái mỏ dài màu đen.
- Ông ấy bây giờ xanh xao lắm, - bà O’Dowd nói, - và đôi lúc đi không vững. Ông ấy giờ chỉ còn cái vỏ người. Song vẫn làm những công việc lặt vặt. Ông ấy mò mẫm chẻ một chồng củi ngon ơ.
Bà ta ngẩng cao đầu và liếm môi.
Amy Parker thấy lại cảnh họ đã từng ngồi trong cái nóng như thiêu của mùa hè, dưới lùm cây hoa vân anh. Ông ta là một người đàn ông đen đúa có lông mũi. Bà không có ý định ngồi một mình với ông, chưa bao giờ, trừ đúng một lần, rồi sau đó lại bỏ đi thật nhanh, chiếc váy lê qua các cây hoa vân anh. Ông không chạm vào người bà, trừ cái dịp ấy, còn sau đó chỉ bằng đôi mắt. Thế thì bà sợ cái gì? Đúng ra bà sợ một sự giả trang nào đó về sau. Ông ấy đã đi lên con đường mòn, và vận quần áo màu đỏ. Bà đã đợi ông ở đấy, có chủ đích, bà biết rõ. Ông ta hừng hực. Leo, ông bảo tên mình là thế. Nhưng ông ấy cũng đen đúa, người mà bà đã chạy khỏi trong khi vẫn còn sợ, bà chỉ có thể đương đầu với tội lỗi của mình dưới một màu sắc khác.
Do vậy bà O’Dowd đúng, bây giờ bà ta mới hỏi:
- Anh Parker đâu?
Ở chốn này chẳng có gì xuất hiện để đón chào một người bạn cũ.
- Anh ấy đi lên phố. Có công chuyện. - Bà Parker nói.
- À… à, - bà O’Dowd thở dài. - Đàn ông họ có thể vùi mình vào những việc như thế. Nhưng rồi ông ấy sẽ đau buồn, như những đàn ông khác, tôi có thể đoán trước được, là sẽ không để lộ ra đâu.
Bởi vì lúc này bà đã nín thở đi thẳng vào vấn đề. Lời của bà tuôn ra như đám lông vũ nhẹ nhàng bay trong làn gió nhẹ. Bà cũng hoảng sợ.
- Trước giờ tôi vẫn thương cảm cho ông ấy. - Bà O’Dowd nói, - và đương nhiên là cả với chị nữa, chị thân mến. Tôi nói như thế nghe có vẻ ngốc nghếch. Chúng ta là bạn với nhau kia mà.
Và thế là bà từ từ lần theo đường nối trên chiếc áo đen bà đã mặc vì lòng thành kính. Lúc này long não khiến Amy Parker thấy giá lạnh. Quả vậy, những viên long não đang lúc lắc trong hai túi áo của bà bạn và phả hương thơm từng đợt.
- Bà định nói gì, chị O’Dowd? - Amy Parker hỏi.
Thế rồi trong giây lát bà bạn hối tiếc là mình đã quá liều lĩnh.
- Tôi không hiểu. - Amy Parker nói.
- À. - Bà O’Dowd nghẹn ngào.
Mình đang thả con mèo giương đầy nanh vuốt ra, bà ta nhủ thầm, thôi đành vậy, nhưng liệu ta có đủ mạnh?
- Lẽ ra tôi không nên nói ra, chỉ vì tôi nghĩ rằng chị chắc hẳn đã nghe rồi.
- Tôi chưa nghe gì cả, - Amy Parker lắng nghe giọng nói to và giá lạnh của chính mình.
- Thế thì, trời ơi. - Bà O’Dowd nói, nhìn vào trong cái túi không đóng lại mà bà thường mang theo vào những dịp quan trọng, để trả lãi suất, đi đám tang, và những việc tương tự, cuối cùng bà tìm ra trong đó mẩu báo bà đã giữ lại, chẳng vì lý do gì, bà đã đọc và thuộc tất cả các câu chữ, có điều bà không can đảm, không đủ can đảm để nói ra, vì thế bà đưa mẩu báo cho bà bạn.
- Đấy, - bà nói.
Amy Parker, trong khoảnh khắc biết được tin xé trời, đọc mẩu tin về cái chết của con trai bà.
Bà đang ngồi đó một mình.
Ray, bà thầm nói, mẹ đã bảo con mà, mẹ đã bảo con mà. Tuy bà chẳng biết rõ bà đã bảo gì.
Thế rồi tình yêu thương bỗng bùng lên dữ dội, bà đang hôn nó, và khóc.
Cho đến khi bà láng giềng, nãy giờ vẫn theo dõi cái điều mình vừa đạt được, không phải vì ác ý mà vì chút hằn học, bỗng cảm thấy buồn, nỗi buồn của cuộc đời đè lên bà trong chiếc mũ màu nâu.
Thế là bà ta cau mày, bắt đầu toát mồ hôi trước cái ẩm ướt thật sự đến. Các lỗ chân lông của bà lóng lánh khi bà nói:
- Đàn bà chúng ta luôn phải trả giá. Chị hãy nhớ điều này, chị Parker ạ, mỗi khi chị buồn phiền, là tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền. Ôi, thật tồi tệ.
Và bà ta khóc. Bà có thể thổ lộ tình cảm với bất cứ ai một khi bà đã bắt đầu.
Nhưng Amy Parker vẫn cô đơn.
Cả một khoảng trống của cái lạnh lẽo bao la vây quanh bà, khoảng trống của khu vườn tăm tối, của muôn hương giá buốt, đó là những bông hoa violet đẫm nước vào mùa này trong năm. Hoa violet nhòe nhoẹt mọc khắp nơi. Thỉnh thoảng bà vẫn hái hoa và dùng dây bó lại, rồi đặt vào một chiếc giày bằng sứ mà Ray vẫn thường mang theo khi không đựng thứ gì, nó thích mang vào giường để ngủ cùng. Giấc ngủ sẽ đền bù lại, nhưng không. Tất cả những người say ngủ bà theo dõi đều biến đi khi tỉnh giấc.
Bầu trời nhợt nhạt như căng ra.
Ta phải làm gì đó, Amy Parker tự nhủ, nhưng làm gì đây? Dĩ nhiên chẳng có gì để làm.
- Liệu chị có rượu trong nhà không, loại gì đấy? - Bà O’Dowd hỏi.
Bà Parker không có.
- Ôi, những linh hồn đáng thương. - Bà O’Dowd kêu lên.
Trong khi họ khóc than họ phần nào hòa nhập với nhau. Hai cô gái lại gần gũi, thân thiết. Túi của họ có thể đổi cho nhau, để trao cho nhau khăn mùi soa cùng lòng tốt. Tư tưởng và tóc tai hai người trộn lẫn vào nhau. Chỉ khi đã mệt nhoài thì hai cô gái mỡ màng mới co lại thành hai bà già nhẽo nhẹt, nhớ lại mình đang ở đâu.
Rồi họ xì mũi. Bà láng giềng ầm ĩ hơn, bởi vì bà khóc cho bạn, cũng như sở dĩ Amy Parker trầm lặng vì nỗi đau là của riêng bà.
- Chị Parker ạ, bây giờ chị có thể trông vào tôi. - Bà O’Dowd nói. - về mọi thứ. Nếu chị muốn, tôi sẽ vãi ít thóc cho gà.
- Gà à? - Amy Parker nói. - Chẳng vấn đề gì đâu. Chị còn phải chăm nom ông O’Dowd.
- À, còn ông ấy, - Bà O’Dowd nói - Ông ấy đã thấy rằng sốt ruột chẳng thay đổi được gì đâu. Ông lão đáng thương ấy đã biết điều rồi, trước kia chưa từng được như thế.
Thế rồi khi bà O’Dowd sửa soạn chuẩn bị ra về, thì hình như dưới ánh sáng của tình bạn u buồn và những lùm cây ảm đạm, hành động của bà có vẻ đạo đức. Bà ta chạm vào người bạn và nói:
- Chị nhớ đến thăm tôi nhé, chị Parker, khi nào chị thấy khá hơn, chúng ta sẽ nói chuyện ngày xưa. Rồi cười vang, tôi đoan chắc. Tôi có mấy con vịt con, xem hay lắm.
Bà O’Dowd lại sắp sửa khóc vì lòng tốt của chính bà cũng như vì đôi mắt của bà bạn, nhưng vội vàng và tôn kính ra đi.
Và Amy Parker nói:
- Vâng, tôi sẽ đến. Một ngày nào đó. Uống một tách trà.
Khi bà đã sống trọn vẹn, biến cố vẫn còn đang diễn ra. Nhưng đó sẽ là vấn đề thời gian.
Do vậy bà vẫn ngồi, một người đàn bà già nua và nặng nề, hai chân dạng ra, khi Stan bước vào, từ xa bà thấy rõ là ông đang đau khổ, mà bà thì chẳng giúp được gì.
- Nếu việc này cũng không thành thì ta định làm cái gì nữa đây? - Ông lão hỏi, người đã trở nên nhăn nhúm sau chuyến đi.
Đầu óc ông trống rỗng.
- Muộn quá rồi, - ông nói.
Thế là bà nhúc nhích, và run rẩy, quyết định giả ngơ.
- Sắp có sương giá, - bà nói một cách cân nhắc, - mà em thì chưa lo củi lửa gì cả.
- Mình già rồi, - ông tiếp tục, - chẳng có gì để phô trương.
- Em chẳng hiểu gì cả, - bà vợ nói, kéo tay áo may bằng sợi thô xuống. - Điều đó vượt quá sức của em. Em chẳng hiểu gì.
- Nhưng ta phải cố mà hiểu, Amy ạ.
- Thế thì được cái gì nào? Miễn là chúng ta sống cuộc sống của chúng ta.
- Nhưng đời đâu có phải dễ dàng. Ngay cả bây giờ.
- Em không hiểu anh, Stan ạ. - Bà nói, vội vàng đưa hai tay lên miệng.
- Anh đủ tầm thường để hiểu được điều đó.
- Khi chúng ta có nhau, - vợ ông nói, ấn trở lại nỗi bất hạnh vào trong miệng. - Những điều bí ẩn không phải dành cho chúng ta, anh Stan ạ, Stan? Stan?
Bà không chịu được việc ông thoát khỏi bà trong sự suy đoán buồn rầu chung chung, vì thế bà bắt đầu kéo ông về phía mình, dùng hơi ấm của cơ thể mình, như thể bà vẫn còn là một bà thiếu phụ trẻ tuổi hơn, và khi họ đã tìm kiếm nhau họ bỗng thấy sâu trong đáy mắt của họ rằng ngay cả những thất bại của họ cũng là tất yếu.
Rồi đôi vợ chồng già đã hồi phục dần dần, ngoại trừ cái cảm giác rin rít trong xương cốt, vì chúng chẳng bao giờ hồi phục sau những trận đòn họ phải chịu đựng. Những đồng cỏ vẫn mờ mờ. Các khóm bắp cải mùa đông mà Stan trồng trải dài một màu tím nhờ nhờ, tới tận hai bàn chân của ông, rồi chúng sẽ trổ ra thực sự huy hoàng, các lá kim loại bung ra, phơi bày trên những cái đĩa màu xanh bao giọt nước như những giọt trân châu. Bà thường đến với ông giữa những luống cải bắp. Những lúc đó họ cảm thấy sung sướng, sưởi ấm nhau bằng ngôn từ tẻ nhạt và sự gần gũi.
Trong tâm trạng thanh bình ấy, Amy Parker có ý định đi thăm người bạn, người hàng xóm, như đã từng được mời và hứa hẹn. Nhưng bà không đi. Bà ấy vẫn khỏe, Amy thầm nói, nhăn mặt lại. Bà rất muốn đi, nhưng không đi. Cô con gái Thelma đã sắm cho bà một cỗ xe ngựa hai bánh, một chú ngựa con, và bà thường đánh xe đi khắp miền quê. Một sự thay đổi. Với một cái chăn cũ màu xanh lục vắt ngang gối. Vó ngựa phi và phân ngựa rơi lộp bộp. Vậy thì thật dễ, quá dễ, nếu muốn đi thăm ông bà O’Dowd. Nhưng bà không đi. Tuy bà rất mến họ. Bà không thể gạt họ ra khỏi ý nghĩ của mình được, họ can dự vào những thời điểm quan trọng của đời bà, và sẽ còn như thế nữa.
Thế rồi chính bà O’Dowd đã đích thân trở lại vào cuối năm, hẳn là thế; sương giá đã phủ trên đất khi bà O’Dowd lại đến, đi dọc theo hàng rào như thể bà đang tìm kiếm một vài chiếc gậy, đung đưa cái túi dây rút.
- Chị Parker này, - bà hàng xóm nói thấp giọng, mà bà ta đã lập tức cố gắng nâng cao. - Chúng ta đã quên nhau rồi, hình như thế. Thật là đáng tiếc. Không kết thúc như đã bắt đầu.
- Lỗi là tại tôi. - Amy Parker nói một cách khiêm tốn.
Vào ngày im lìm này bà có thể nhận tất cả lỗi về mình. Bà đang nhìn quanh từ dưới bàn tay bà. Mọi dáng hình đều hiền hòa.
- Thật đấy, - bà nói. - Chị biết rồi đó. Tôi vẫn có ý định, và sẽ vẫn có ý định.
- Vâng, - bà O’Dowd nói, hắng giọng.
Bà đang vung vẩy một chiếc túi con có đựng một gói gì đó mua từ cửa hiệu.
Hình như họ sẽ không nói gì thêm nữa lúc bấy giờ. Cả hai đều nhìn những cọng cỏ vàng trên mặt đất.
Lúc đó bà O’Dowd mang màu ngọn cỏ mùa đông, liếm môi và nói:
- Vừa qua tôi bị ốm, chị biết không?
Amy Parker tỏ ra cảm thông. Mặt trời quá nhân từ, khó mà không biểu lộ niềm cảm thông xã giao nào.
- Phải nằm suốt à?
- A, - bà O’Dowd nói, đung đưa chiếc túi, - nằm giường thì làm gì được chứ? Tôi chẳng bao giờ nằm cả, trừ ban đêm, hoặc có lúc vào buổi trưa, nếu ông ấy mong muốn. Bây giờ thì không đâu, cám ơn. Không, hai bàn chân tôi sẽ đưa tôi ra ngoài, nếu Chúa sẵn lòng.
- Thế bà ốm sao? - Bà Parker hỏi.
Hai người đã cùng đến chỗ hàng rào màu xám.
- Tôi ốm. - Bà O’Dowd nói.
Cái gói nhỏ trong cái làn đang đung đưa bỗng tung ra ngoài. Nó rơi xuống. Hai người nhìn theo nó.
- Đó là bệnh ung thư. - Bà O’Dowd nói.
Họ nhìn cái gói trên cỏ.
- Không thể nào. - Bà Parker nói.
Bởi vì cổ họng bà ứ lại. Đó là cuộc sống đang phản kháng trong bà.
- Không thể vậy được, - bà nói, - chị O’Dowd ạ.
- Đúng thế, - bà O’Dowd nói, - hình như thế.
Bản thân bà đang nhìn các sự vật một cách ngờ vực. Và nhìn cái gói nhỏ đang nằm kia, cần phải được nhặt lên.
- Sẽ có một thứ thuốc nào đó, - bà Parker nói, vừa cúi xuống, - thứ họ vừa mới tìm ra.
Cả hai đều cúi người xuống. Tay chạm vào nhau, hai tay đều mang nhẫn cưới màu vàng. Thậm chí họ va đầu vào nhau một cách ngốc nghếch.
Khi họ đã đứng thẳng lên, bà O’Dowd vuốt lại cái mũ, và cái gói được cất đi, bà nói:
- Họ chẳng phát hiện ra cái gì cho tôi cả. Tôi thối rữa vì bệnh tật. Bây giờ thì tôi đã rõ nó định sẵn như thế rồi.
Nhưng Amy Parker tiếp tục phản đối:
- Không đâu, - bà nói. - Không thể như thế được.
Bà giữ lấy hai bàn tay mình vừa bắt đầu run lên, vì dẫu có yêu quý và thương cảm bạn đến bao nhiêu đi nữa, thì nỗi đau ấy cũng là của bà. Bà kinh hãi về mối liên hệ không thể tin cậy được của bản thân bà với cuộc sống.
- Tôi sẽ không chết dễ dàng dù ngay cả như vậy đi nữa. - Lúc này bà O’Dowd nói. - Tôi sẽ vật lộn với nó. Như từ trước đến giờ vẫn thế.
Như bà ta đã vặn cổ vịt, vật một con bê, và một lần chọc tiết lợn, nếu cần thì cỡi trên lưng nó cho đến khi sự sống tuôn trào ra khỏi nó. Bà đã tống cuộc sống đi, và bây giờ phải đến lượt bà.
Hai người đàn bà vụng về đứng đấy, nuốt lấy bầu không khí đặc quánh, không muốn chia tay, mặc dù họ không thể đoàn tụ với nhau.
- Tôi sẽ đóng xe ngựa và đưa chị về nhà. - Amy Parker nói.
Để lấy trứng chọi đá. Vả lại chết không khó bằng chứng kiến một người đang chết.
- Tôi không muốn làm phiền chị. - Bà O’Dowd nói. - Tôi đi bộ đến đây để dạo chơi và cho thư thái. Tôi sẽ tiếp tục như thế. Suốt dọc đường sẽ có bao nhiêu các bà đứng bên bờ rào tỉ tê trò chuyện với tôi. Bây giờ đường có xa vẫn dễ dàng đi được. Chị có nhớ ngày trước ta đã phải nói toạc ra ý nghĩ của mình để có được câu trả lời không?
Thế là hai người đàn bà da nâu cùng đi bộ với nhau một quãng ngắn, trên mặt đất rền vang, dưới ánh mặt trời màu đồng đen, và cuối cùng họ chia tay. Họ mang sắc lá tàn.
Khi Amy đã đi vào trong nhà, bà nói:
- Em buồn quá anh ạ, bà O’Dowd bị ung thư.
Ông già trả lời:
- Vớ vẩn!
Và vùi đầu vào một tờ báo, từ đó hai tai ông vểnh ra. Ông bỗng nhớ lại thời niên thiếu của ông, các buổi sớm mai mới quan trọng làm sao, thực vậy, buổi sáng gần như là tất cả ngày. Cái gì phải xảy ra ắt phải xảy ra vào buổi sáng.
- Bà ấy nói với em bao giờ thế? - Ông hỏi, khi đã cam chịu sự ngắn ngủi ngang trái của đời mình.
- Vừa mới rồi thôi, - bà vợ trả lời. - Bà ấy nom kinh khủng quá.
Làn da bà đôi lúc vẫn còn ánh lên, và để xem sự diệu kỳ này có thể xảy ra không, bà đi dọc theo tấm gương, chậm chậm, kéo dài sự phản chiếu, nhưng hầu như không để ý đến khuôn mặt mình bởi vì đôi mắt mộc của bà đang nhìn vào bên trong.
Tối hôm ấy gian phòng họ ngồi có cái gì bí hiểm đối với họ. Mỗi người đều hy vọng rằng người kia hiểu rõ vị trí của mình.
Hôm ấy về khuya trời bắt đầu mưa và mưa dai dẳng mấy ngày liền, phủ lên ngôi nhà nhỏ một màn mưa màu xám. Rồi, khi trời tạnh và dòng nước vàng không chảy hai bên đường nữa, miền đất này ngập ngừng vươn lên, không màu sắc, thì bà lão bắt đầu hắt hơi. Rõ ràng là bà bị cảm lạnh. Cũng rõ ràng bà không thể đi thăm bà láng giềng trong tình trạng này. Mà phải giữ gìn, quàng một chiếc khăn dày màu đen mà bà đã đan và quên khuấy đi. Ăn cháo hành. Và than vãn một mình.
Như thế bà ít nhiều giải thoát khỏi lời hứa đi thăm bà O’Dowd. Tuy sau này dĩ nhiên bà sẽ đến thăm với một thức gì ngon ngon, xúp hoặc một liễn xương khuỷu bê. Còn lúc này, bà chọn lấy nỗi thương cảm đối với nhân loại, và đặc biệt là đối với phụ nữ. Nhưng những buổi chiều tối thật buồn, khi những bóng râm ngả màu xanh đen phủ quanh thành giếng, và tiếng móng của loài thú túi trong ống khói. Rồi sự nhận thức về sự bất lực của bản thân mình, nay đã trở thành một sự phản bội tích cực, đã đưa Amy Parker đi khắp nhà. Bà trở nên hồi hộp, mắc chứng khó tiêu, đôi khi nấc thật to, tuy điều đó không hề gì vì bà thường ở một mình. Có một lần thậm chí bà nghĩ đến bạn trong tư thế chết. Bà hình dung việc ấy khá chi tiết. Thế thì nếu bà ấy chết, bà thầm nói, chúng ta sẽ không phải nói về những điều quá kinh khủng và quá tuyệt vời để nhắc tới, chúng ta sẽ không nhắc đến quãng đời đã qua hay nói một cách thống khổ. Bà ấy sẽ chết. Nhưng người sống sót cũng không được yên bình.
Và một hôm vào lúc chuyển mùa, bà được giải thoát khi có một bé gái đứng ngoài cửa gọi bà. Em bé nói có người muốn gặp bà ở nhà bà O’Dowd. Đó là bé Marly Kennedy, và Parker nhận ra; mẹ của bé là Pearlie Britt, có lần đã gọi bà đến nhà bà O’Dowd về một công chuyện khác.
- Thế bà ấy có làm sao không? - Bà Parker hỏi, tay giữ cánh cửa đang lắc mạnh.
Nhưng cô bé nghe nói vậy thì đâm hoảng và bỏ chạy. Nó chạy để lộ gót chân trần và đũng quần dài, tóc bay ngược ra sau.
Bà Parker không đợi lâu, đóng ngay con ngựa con vào cỗ xe.
Bà đánh xe xuyên qua cơn gió từ hướng tây thổi đến tràn ngập người bà. Những luồng gió mạnh ào đến khiến bà lắc lư trong cỗ xe con. Chẳng mấy chốc hai má bà phồng ra. Gió thổi xốc xuống cổ họng, khiến bà cảm thấy mình thật quan trọng với cái sứ mệnh này. Bà vẫn là một phụ nữ đẫy đà. Dù xe chạy bon bon hay lắc lư khi vấp phải đá, bà vẫn vững tâm. Có thể mọi lỗi lầm của bà, mà bà có rất nhiều, sẽ được bỏ qua.
Bà đánh xe đi tiếp, rõ ràng là bà đã chẳng hề thờ ơ với bạn, ngoại trừ việc nấn ná đến nông nỗi này. Rồi bà đánh xe xuôi về phía nhà O’Dowd, ngọn gió dũng cảm thổi rạp các cây đại thụ, và bà lão trong cỗ xe con thật sự xúc động vì mong chờ, lo lắng và yêu thương.
Khi bà đến, nhà O’Dowd vừa bước vào một giai đoạn mới của quá trình sụp đổ. Gió đang tra tấn mái nhà. Nó cuốn một tấm tôn và xé toạc ra. Tấm tôn gỉ bám đầy, kêu leng keng, vụt qua sân, quật khá mạnh vào mông một con lợn. Xong xuôi, nó chìm xuống ao, hoặc một vũng nước màu nâu, từ đó một bầy vịt trắng phau vọt lên. Súc vật kêu inh ỏi, tưởng như có án mạng, nhưng chẳng ai để ý. Ngôi nhà, chung quanh là vài cái ô tô lắp ráp lỏng lẻo và xe ngựa kiên cố, trẻ con đang chơi, những con chó lông xanh đang nhấc chân lên, tự bày trò tiêu khiển.
Buộc ngựa xong, bà Parker đi vào nhà, chưa gì đã có mùi chết chóc cùng nhiều cơ thể sống. Họ thử làm một cái gì đó bằng cách rắc nước hoa Cologne từ một cái chai mua ở Bangalay, và đốt một thứ tỏa khói mù mịt khiến đám người lạc hướng. Nhưng sau khi bà Parker lách người bước vào, lại dậy lên nghi ngờ trong căn phòng đó, bà tìm thấy bà bạn, hay cái còn lại của bà ta, trên những chiếc gối cao.
Vì bà O’Dowd đã hoàn toàn suy sụp, chỉ còn chờ chết, nên toàn thân cứng đờ. Ngày hôm ấy bà đau đớn - có phải là cơn đau ghê gớm nhất không, bà vẫn chưa biết. Tuy rất yếu, hai lợi bà vẫn có thể mím lại mỗi khi đau, đến bật cả máu. Hai má đã biến mất. Còn đôi mắt, nơi linh hồn đã lùi đi, là hai vật lớn trắng lờ mờ. Chúng không phải của bà nữa, hay đúng hơn chúng là bộ phận của một con người không nhận ra được trên đời.
Một số người có mặt cư xử với bà như một người xa lạ hay như một người đã ra đi, dẫu là mới về thể xác, đó là cái điều duy nhất họ dám tính đến.
- Ta nhấc bà ấy lên một tí nào. Bà ấy đã tụt xuống, - một người đàn bà nói. - Bà Kennedy, giữ một tay nào. Đấy, xốc ở nách. Khốn khổ. Chà chà. Thế này mà vẫn nặng ghê.
- Bao giờ thì cậu ta đến? - Bà O’Dowd hỏi.
- Ai bây giờ chứ? - Một người hỏi, ghì bà xuống một cái mền đan bằng kim móc vắt ngang cằm.
- Cậu ta bảo sẽ đến nếu cần. Bây giờ thì rất cần, - bà nói. - Tôi sẽ không trở lại vào thứ Ba nếu tôi không thể dứt điểm. Song chàng trai trẻ sẽ làm dễ dàng thôi. Chỉ cần xoa nhẹ thật tuyệt vời. Tôi chẳng bao giờ đi bộ, toàn chạy như bay.
- Cậu bác sĩ đấy. - Mọi người hiểu ra.
- Bác sĩ Smith. - Bà O’Dowd nói.
- Bác sĩ Brown. - Mọi người ồ lên, suýt cười ầm lên.
- Bác sĩ Smith là ông bác sĩ già, - một người đàn bà nhỏ nhắn có nốt ruồi nói; bà ta cúi sát xuống người ốm, do vậy bà nhìn rõ cái nốt ruồi như thể nó là một quả lý gai. - Cậu bác sĩ trẻ mới đến là bác sĩ Brown.
- Tên thì nghĩa lý gì? - Bà O’Dowd nói. - Những sợi lông cứng nhỏ kia sẽ cháy sém biến ngay khỏi lưng lợn.
- Chẳng biết bà ấy sẽ nói gì nữa đây? - Người đàn bà nhỏ bé đang cười khẩy thì thầm, vừa sờ cái nốt ruồi bị lãng quên.
- Đã cho mời bác sĩ Brown rồi, bà O’Dowd ạ. Ông Doggett xuống rồi. Ông bác sĩ lên Fingleton đỡ đẻ cho một thiếu phụ. - Một người đàn bà nói, - hay một mệnh phụ khác, theo cách vẫn thường gọi.
- Tôi không tin bà đâu, - bà O’Dowd nói. - Các mệnh phụ chẳng có con đâu. Họ biết một, hai thứ thôi.
Nói buồn cười thật, mọi người tự nhủ. Tội nghiệp.
- Tôi chẳng có con, - bà O’Dowd nói, nhắm nghiền mắt rồi lại mở ra. - Cũng chẳng phải là mệnh phụ. Trong quãng thời gian lâu đến khốn khiếp. Mà tôi cũng không biết đủ. Tôi vẫn mù tịt kinh khủng, - bà thở dài, - mù tịt về cuộc sống, về cái chết, thật thế. Tôi chẳng tin vào điều đó mãi cho đến khi nó đến. Làm thế nào được? Suốt ngày giặt giũ trong chậu, nướng bánh mì trong khay, nhìn lợn con bú lợn mẹ, thì làm gì được nữa.
- Bố tôi cũng cái kiểu thế. Ông cụ là loại người hầu như chẳng tin gì hết. - Một người đang ngồi kia, mặc chiếc áo có cái cổ cứng to, màu vàng, nói.
Người này tên là Cusack, có họ với nhà O’Dowd, ở Deniliquin thì phải, đã nhiều năm nay, chưa gặp lại ông O’Dowd, từ ngày chuyển từ cầu tàu vào đất liền. Gần đây anh có đến vùng này, nghe phong thanh về cái chết và đã đến đây, cũng khá tự nhiên thôi. Mọi người đều biết rõ anh chàng từ Deniliquin, nên đã biếu anh ta một chai bia để cho anh ta yên, nhưng chẳng ăn thua gì. Anh ta thích nhất là nói chuyện về thú vật và tiền bạc, bởi anh ta rất tò mò, lại có lòng kính nể, với cả gia súc cùng dã thú, đặc biệt là cá sấu, mà anh ta đã từng nhìn vào mắt nó, còn với tiền bạc, nó đã lẩn tránh anh ta, song anh ta đã nâng nó lên cao bằng một sự sùng bái vô tư và thuyết thần bí, thậm chí cả màu sắc của nó.
- Thôi, bây giờ trở lại với bố tôi, - anh chàng ở Deniliquin nói, - hãy bắt đầu với ông ta, vì tôi tin chắc rằng đây là lần đầu tiên tôi nói đến quý ông già cả đó. Ông cụ chết vì bị đau tim trong hoàn cảnh rất khả nghi. Thế đấy, ông cụ đã được báo trước rồi, nhưng chẳng thèm nghe, cũng giống như tiền bạc không mọc ngoài cát bụi. Ông cụ cũng rất yêu hoa, và thường đi dạo giữa các bụi hồng, chạm vào hoa, như ông thường gọi là cảm nhận da thịt của hoa, là cái phần đẹp nhất. Ngay cả khi một số người không hài lòng bảo ông điên, ông cũng không tin, mà cứ sống như thế, mỉm cười với những người ông chẳng quen biết, khiến họ càng cho đấy là một dấu hiệu chắc chắn. Và khiến mẹ tôi gần phát điên. Bà không sao hiểu nổi tình yêu của ông đối với mọi người, đặc biệt là đối với những cô gái da ngăm, có hàng ria mép đen đen. Mẹ tôi, bà con thấy đấy, lúc nào cũng mạng đồ. Bà luôn ngồi với một chiếc bít tất trên một quả đấu, cau mày nhìn nó, bởi vì xưa kia nó vốn là một công trình tuyệt vời của mẹ tôi, không bị vá víu, cắt xén. Bà cụ chuyên mạng. Nhưng bố tôi thích làm cho mọi người sung sướng, bằng sự sờ mó, bằng những biện pháp kém xác thực hơn, bằng cách làm sáng tỏ những thứ mà trước đây họ không hề để ý đến. Thế là với thiên bẩm của ông về cuộc sống, mà ngay cả mẹ tôi cũng phải thừa nhận, và với việc bà ghét ông vì yêu, ông không thể tin vào cái chết của mình, nó đang đợi ông trên gác ba một ngôi nhà ở đường Corrigan. Ngày ấy tôi chỉ là một chú bé con, người ta gọi tôi về vì là người thân thích, đương nhiên không thể nói với mẹ tôi, vả lại bà đang bị đau đầu. Họ bảo là bố tôi chết rồi, các quý bà làm ầm ĩ lên, như cụ Harry, nhất là quý bà La Touche, “Mấy quý bà nào vậy?” Tôi hỏi, hồi ấy tôi là một chú bé cả thẹn, “A,” họ cười ầm lên, một số còn đủ tốt bụng để đỏ mặt thay tôi, “đó là mấy ả gái điếm.” Họ nói:
“Bố cháu đã xuôi tay rồi, cháu hãy đến đón bố cháu đi, trước khi các bà phát cuồng lên.” Đương nhiên là tôi đi, bởi vì có những dịp ta không thể chạy được, tôi bị tóm lấy đũng quần đùi và đẩy đi. Thế là tôi đến đấy, một số đang khóc vì hoảng sợ, và một số đang cười, vì hiếm lắm mới có một người đàn ông được mang ra khỏi nhà thổ trong trạng thái cứng đờ. Chỉ quý bà La Touche, chủ nhà thổ, là lo ngại cho thanh danh của nhà bà. Thế đấy, người ta bàn luận rất nhiều về tình hình, một số véo tôi, và một số hôn tôi, bởi vì tôi là một đứa bé xinh xắn. Vâng, - anh ta nói, - nói chung cứ xoay vần như thế, chúng tôi đã đưa được ông bố đáng thương của tôi lên tận trốc nhà, và chẳng hề có ý đưa xuống. Ngay cả quý bà La Touche, lúc ấy đang mải vui câu chuyện, cũng kinh ngạc. Thế là chúng tôi lại phải làm việc, phải đẩy, phải kéo, khiêng thi hài ông bố quá cố tội nghiệp của tôi, và vã mồ hôi, bấy giờ là mùa hè, các vị nhớ cho, rồi một cô gái bỗng nói đến sữa mới trong xô, cô ta không bao giờ quên được hơi bò cái, cô ấy to lớn lắm, một cô gái nông thôn, vạm vỡ. Vậy chúng tôi đưa được ông bố đáng thương của tôi xuống. Vừa đúng tảng sáng thì chân ông cụ vừa đến cửa. “Thế nào,” tôi nói, “tôi phải làm gì bây giờ?” “Đó là việc của cậu, Tim ạ,” họ cười ầm lên. “Bọn này không thể cho trẻ bú được đâu, bọn này không quen cái việc ấy. Có lẽ gọi một chiếc xe đi vậy.” Và họ đóng cái cửa đang mở. Ông bố tội nghiệp của tôi có khuôn mặt dễ thương lắm, vẫn chấp nhận được ngay cả lúc chết. Ông cụ chẳng tin cả điều xấu nhất. Ông cho mọi thứ là đương nhiên. Cho rằng trời sẽ hửng, như đang lúc bấy giờ, rằng sẽ có một giải pháp, luôn luôn là vậy. Thế rồi cuối cùng cũng có một xe tưới nước đến, tưới đầy đường trong ánh sáng lung linh. Lúc này tôi sợ toát mồ hôi, hẳn là mặt tôi thuỗn ra vì đăm chiêu. “Mày vớ được cái gì thế chú bé?” Người tưới nước hỏi. “Đây là bố tôi,” tôi nói, “và ông cụ chết rồi.” Thế là người tưới nước nói: “Được, nếu có thể đưa lên đây thì ta có thể đưa ông lão đến chặng tiếp.” Do vậy, chúng tôi đưa ông cụ lên xe, tạm thôi, tuy việc đó làm chúng tôi hút chết, và một lát sau ông ta đánh xe qua các phố tràn đầy nước. Ở đấy hay lắm. Tôi chả bao giờ quên được. Tiếng nước chảy êm đềm qua các đường phố xám xịt. “Nghề này chẳng tồi đâu,” ông lái xe tưới nước nói, “đường phố sẽ nom như thế này sau Ngày Phán Xét.” “Thế chúng ta đã được phán xét rồi chứ?” Tôi hỏi, như một chú bé tự phụ. Nhưng người tưới nước chẳng nghe thấy. Và tôi cũng chẳng thiết, Vì đó là một trong số ít điều không thể hỏi lần thứ hai. Do vậy, chúng tôi tiếp tục đi, tán chuyện ra trò, cho đến khi tiếng kèn trumpet xen vào, tôi phải che tiếng kèn bằng hai khuỷu tay, và suýt nữa là hất chúng tôi ra khỏi xe, rồi tiếng reo hò, phần lớn là của bọn gái điếm đang nhoài người ta ngoài cửa sổ các phòng, bên trong những chiếc bàn dài đã bày sẵn. Rồi một thiếu phụ trẻ há miệng rộng đến mức tôi biết là mình đi tong rồi, tôi dạng hai chân trên chiếc xe, tránh né, bám lấy ông bố quá cố của tôi cùng lúc đó. Lúc này bố tôi ngồi dậy và nói: “Con ơi, nếu con phải ngã xuống thì con hãy dang rộng hai tay hai chân và bắt chước mùn cưa, như thế chẳng gãy cái xương nào.” Bố tôi lao xuống khỏi xe theo phương thức ấy, và cách đó hai phố tôi tìm thấy cái xác, tôi bị cộc đầu khi lăn ông cụ sang bên. “Cái xác của cậu thật khủng khiếp,” ông tưới nước nói đưa mắt nhìn xuống. Bây giờ mặt trời đã mọc. Mọi người đổ ra xem, đàn ông mặc áo may ô, đàn bà mặc xu-chiêng, những người này chúng tôi quen biết cả. Họ nói: “Kìa thằng Tim Cusack và bố nó lại say bí tỉ nữa rồi, lão già khốn nạn.” Đó là lời phán xét chúng tôi nhận được. Và vì tôi biết rõ hơn thế, tôi bỏ ngoài tai, trong khi dường như là không thể.
- Chậc… chậc, - người đàn bà có nốt ruồi có lông nói. - Chuyện ly kỳ thật.
- Để giết thời gian, - người đàn ông từ Deniliquin nói; anh ta cảm thấy luồng hơi từ tận nơi sâu thẳm trong người đang buồn bã dâng lên.
Lúc này bà O’Dowd, từ nãy giờ vẫn ngủ, hoặc bị kéo đi bởi một gọng kềm nhân từ nào đó, mở mắt nhìn một cách hết sức đau đớn và nói:
- Vì có quá nhiều quý bà nên chẳng còn mứt dâu nữa.
- Đúng như thế, chị Parker ạ. - Bà nói với bà bạn, đang ngồi ở đó, bên giường, trên một cái ghế, đầu đội mũ. - Trước đây chị bao giờ cũng thích mứt dâu. Và thịt lợn ướp. Tôi còn nhớ rõ thứ thịt lợn ướp của chị như mặt của chính tôi. Chẳng bao giờ thấy có lông con lẫn vào trong thịt ướp. Chị còn nhớ không?
- Tôi nhớ. - Bà Parker nói, gật gật chiếc mũ đen ngay ngắn của bà.
Hai người nhận ra nhau, tuy một người là một bà già béo tốt trong lớp cải trang thời gian, còn người kia thì hầu như bị hao mòn.
- Đã vài năm nay tôi không làm thịt lợn ướp, - bà Amy Parker nói, như thể giật mình thừa nhận những hành động mà bà không còn thực hiện nữa. - Cứ thôi không làm một cái gì là mất ngay thói quen.
Tất cả những lời lẽ của bà nghe lạ lẫm, vì bà bị thôi miên bởi cái chết đang đến. Bà đang nhìn vào gương.
- Tôi còn nhớ một người đàn ông có thói quen ăn nửa lít nước mật đường trộn với nửa cân cám. - Anh Cusack nói. - Mỗi buổi sáng.
Nhưng mọi người chặn anh ta lại.
Amy Parker nhìn gương mặt của bạn đang khép lại. Chị ấy đang chết, bà thầm nói, và ta không thể hiểu được điều ấy, không thật sự. Ta chẳng hiểu cái gì cả. Thế là bà gật gật đầu. Bà không đừng được.
- Đó sẽ là một ơn huệ, - cô Kennedy trẻ tuổi nói. - Đến giờ bữa trà thì chắc sẽ xong xuôi.
- Tôi chẳng bao giờ đánh cược cái gì trên đời này. - Bà O’Dowd nói. - Aaaa, - bà thét lên, ngả ra sau. - cố nhiên là họ sẽ thắng tôi, khi mà họ đã sẵn sàng.
Amy Parker cũng muốn chịu đựng ít nhiều điều này, vì sự có mặt của bà buộc bản thân phải can đảm; vì thế bà ngả người về phía trước và cầm tay người bạn, trong đó cuộc sống vẫn đang từ từ nhỏ giọt. Như thế này hai dòng đời của họ lại chảy cùng với nhau, trong giây lát.
Sau khi bà láng giềng đã nằm xuống, vã mồ hôi và mang sắc gio, đích thị là màu của tóc bà ta, mái tóc đã sổ tung, xõa thành hai cánh, bà bắt đầu thì thầm về những gì đang thấy hay đã thấy, khó mà phân biệt được bởi cả hai đều đang mang cùng một một màu men gio. Trong gian phòng ấy, gian phòng đã thu nhỏ lại với số gối tăng lên, với những chăn lông vịt chồng chất, với hàng dãy những đồ đan móc nặng nề, mọi người bắt đầu cảm thấy sức kéo của những dòng nước màu gio mà giọng nói của bà O’Dowd đang rót vào trong phòng, để bập bồng và tuôn chảy, đôi khi trên dòng chảy của những giấc mơ u buồn hiện tại của bản thân họ, đôi khi xoáy mạnh quanh những vật mà bà O’Dowd chỉ ra. Nhưng chính Amy Parker, người đang nắm lấy bàn tay sắp chết đuối, mới là người đang bị cuốn đi một cách kinh khủng theo dòng đời, trong khi hai linh hồn của họ lèo lái qua những trò đùa và hiểm nguy của dòng sông.
- Bởi vì trước kia chúng tôi có bảy người, - bà O’Dowd nói, - nếu tôi không quên người thứ tám, đứa con gái nhỏ bị ngã sấp xuống đầm lầy và chết đuối, hay chết ngạt, bởi vì sặc dưới bùn, cũng là một Mary, vả lại chúng tôi toàn là Mary cả, đặt tên như thế là vì Đức mẹ của chúng ta. Tất cả bọn trẻ con chúng tôi, hay tất cả những đứa năng động nhất, thi thoảng lại bơi thuyền xuôi dòng sông trong một chiếc thuyền con, khúc sông rất đẹp, đôi chỗ có cỏ dại, khiến cho nước ngả màu nâu; chúng tôi cứ chèo mãi đến tận mấy cái cầu ở Wullunya. Cầu toàn bằng đá cẩm thạch, sờ lạnh buốt. Bây giờ tôi còn cảm thấy lạnh. Ngay cả khi có nắng trên cầu. Và di chuyển. Chính là nước thôi, nhưng cũng có thể nói là đá cẩm thạch. Trên cầu một vị phu nhân ngồi trong xe ngựa rất sang; bà ấy cho tôi cái cây này, chị nhìn thấy rõ đấy, chị Parker nói. Chị đừng nói là không nhìn thấy nhé.
- Cây nào, chị O’Dowd thân yêu? - Amy Parker hỏi.
Bà bối rối không muốn trở lại căn phòng đóng kín.
- Cây màu đỏ ấy, - bà O’Dowd nói, - rất xinh đẹp lúc chiều tối, trên bậu cửa sổ ấy.
- À, - bà Parker nói, - chị định nói cây phong lữ phải không?
- Đúng thế, - bà O’Dowd nói. - Đúng là nó. Đó là món quà tặng của một phu nhân ở Killarney. Bây giờ tôi không nhận ra bà ấy đâu, vì tôi nghĩ rằng bà ấy cũng chết rồi. Song chúng ta đứng trên cây cầu ấy, chị Parker ạ, chị sẽ nhớ thôi, ngắm nhìn đàn cừu đi qua, và bị xô đẩy đến đứt cả khuy áo, tuy đó là những con cừu say ngủ. Chị có nhớ tay chúng ta đầy len êm dịu và mùi len như thế nào không? Lúc đó chị nói: “Chúng ta không đến đây để chơi, mà có mục đích.” Và tôi nói: “Nếu chúng ta không lựa chọn mục đích, thì làm gì có chuyến đi chơi này, có gì hay hơn một trận lụt.” Trời ơi, chị đã sục tìm chồng trong đám đông. Tôi rất thích đám đông. Tôi thích nhìn vào lỗ mũi người lạ. Tôi nhìn chẳng biết chán cả. Tôi có thể xọc tay qua làn da của người lạ. Chị có biết không?
Một vài trong số những người có mặt ở đấy, những người đang bị giày vò vì đã khám phá ra cuộc sống của họ, giờ đây thoát ra khỏi những cơn đau họ đang chịu đựng để cười vang.
Tiếp theo sẽ là gì đây? Một vài bà khịt khịt mũi, nhưng khẽ khàng, từ mũi xuống cằm.
Nhưng Amy Parker biết rõ. Có những lúc con người ta chẳng biết gì cả, song có những lúc lại biết tất cả. Thế là mắt bà ánh lên.
Do vậy bà cúi xuống từ trên cầu, để nhặt những khuôn mặt đang nổi ở đó. Vài đôi môi hé mở để nhận lấy những cái hôn, vài đôi môi khác mím chặt. Tất cả bồng bềnh trong dòng lũ màu gio. Cả những lá thư cũ và những tấm ảnh vàng ố.
- Chị nên nằm yên một lát, - bà nói với bà O’Dowd, - để lấy sức.
Bản thân bà cũng mệt nhoài vì vận động quá nhiều.
- Trong này ngột ngạt thế, - người đàn bà có nốt ruồi nói và mở cửa sổ. - Buồn ngủ đến díp cả mắt.
Người đàn ông từ Deniliquin đến, anh Cusack, bị khói làm nhức cả mắt và chốc chốc lại ợ bia chua, rất muốn kể một câu chuyện gì đó, một câu chuyện khủng khiếp, nhưng rất thực, khiến cho mọi người quay lại nhìn, sẽ nhớ đến anh ta mãi về sau, nhưng một câu chuyện như thế, xét cho thật kỹ, đã lẩn tránh anh ta, và anh lại ngồi yên, một người đàn ông to lớn, cái cằm xanh xanh. Thế thì anh đến đây làm gì, nếu không phải để đưa một cái xác chết vào cõi đời này? Lúc này hầu như mọi người đều bị lừa dối. Chỉ có cây phong lữ là ánh lên trên bậu cửa sổ, lúc này trời đã về chiều.
Rồi ông chồng bước vào, người ta đã bảo ông ra ngoài để hít thở không khí, và tiêu khiển một tí. Đến cạnh giường ông chỉ có gây phiền hà thôi. Đôi khi tình yêu của ông đối với vợ trở nên lố bịch, ông bỗng liếm bàn tay vợ, như một con chó mù, tru lên, rồi nhe bộ răng ít ra cũng còn trắng và nhọn.
Chẳng ai quan tâm đến ông O’Dowd. Ông là di vật của một con người. Rồi đây ông sẽ ra sao? Liệu ai sẽ lo cơm nước và khâu vá cho ông? Lòng thương xót có thể giảm đi. Tốt nhất là, như một con chó, ông sẽ nằm xuống dưới một bụi mâm xôi và chết. Ông cũng sẽ làm như thế, nhưng bây giờ thì chưa.
Ông chồng đang dò dẫm đi qua căn phòng, va người vào những vật đã đổi chỗ, và vào người những kẻ ông không mong đợi, ông to lớn, lóng ngóng, trong bộ quần áo mặc quàng trong bóng tối. O’Dowd chỉ là mớ quần áo lôi thôi lếch thếch. Đôi mắt trắng dã của ông ưng ửng vì nước mắt hoặc chuyện gì đó. Nếu ông không kiểm soát được khuôn mặt của mình nữa, thì đó vẫn là nỗi đau buồn riêng tư, ít ra cũng đối với ông, bởi vì phần lớn các thứ trên đời đã được che đậy bằng sự riêng tư của bóng tối.
Cứ như thể ông tiến qua phòng. Một vài người quay mặt tránh đôi tay nổi cục của ông, lộ rõ vẻ hoảng hốt. Những người khác dịch sang một bên đầy thận trọng và trở nên mờ ám với sự dửng dưng giả tạo.
- Bà O’Dowd đâu rồi? - Người đàn ông bèn hỏi một cách vô vọng, bơ vơ giữa đám đông. - Bà ấy có đỡ hơn tí nào không? Nói cho tôi biết với.
- Bà O’Dowd ổn như chúng ta mong đợi. - Bà Kennedy lên tiếng, bà có một người chị họ đang tập sự làm hộ lý, vì thế bà xem ra khá quan trọng. - Ngồi xuống kia, song phải yên lặng. Không được làm phiền người khác đấy.
Bà dẫn ông đi qua căn phòng của ông, đến cái giường nơi bao nhiêu năm nay ông chiếm ưu thế tuyệt đối, trên đó ông đã tóm bắt bao nhiêu vần thơ luôn luôn tuột khỏi tay ông.
- Ông muốn cái gì bây giờ? - Bà O’Dowd làu bàu, mắt vẫn nhắm nghiền.
Bà chẳng làm gì được nữa cho chồng. Mái tóc của bà đã trở nên quá nặng.
- Tôi muốn ngồi ở đây một lát. - Ông nói.
Sờ sờ cái chăn viền hình tổ ong.
Vì một lý do nào đó bà không muốn ông cầm tay mình, có lẽ vì bà đi trước ông rồi, bây giờ chẳng có nghĩa gì với ông cả. Ngược lại bà víu chặt lấy tay Amy Parker. Đôi người chỉ muốn có một người bạn mới để kể lại những điều bí mật nhất của mình. Và Amy Parker, nay đã già, trở thành một người bạn mới do lâu ngày xa cách. Thế là hai người đàn bà cầm tay nhau, vẫn còn nhiều cái để kể lể và tỏ bày.
- Tôi chưa bao giờ kể cho chị nghe, chị Parker ạ. - Bà O’Dowd mấp máy làn da môi. Và mỉm cười.
- Gì thế, chị? - Bà Parker hỏi.
Bà cúi xuống nhìn xem. Bởi vì bà không nghe rõ.
- Các bụi vân anh, - bà O’Dowd nói, - đều bị chặt sạch.
Do vậy Amy Parker mới nghe thấy tiếng rền của kèn trumpet. Bà cảm thấy luồng gió nóng ban mai. Bà nhìn sâu vào đôi mắt của bà O’Dowd, nay đã ngả màu vàng sẫm, trầm ngâm với những chuyện vô cùng nhỏ nhặt.
- Vừa đây, - bà O’Dowd nói, - chị Amy ạ, tôi nhìn thấy khuôn mặt chị lần đầu.
Amy đỏ mặt, bởi vì suốt đời bà chẳng ai nói với bà một điều tâm sự như thế cả.
Lúc này ông O’Dowd, người không thể lý giải được bao nhiêu thứ ngôn ngữ người ta đang nói quanh giường mình, bỗng huơ hai tay vào không khí, phát cáu lên và thét to:
- Tại sao các người không cút hết đi để chúng tôi được chết với nhau?
Nhưng người ta đặt ông trở về vị trí, vì những người lo tổ chức kia cho rằng chết là một hoạt động xã hội.
Và người đàn bà có nốt ruồi đến gần, hạ thấp nốt ruồi xuống tận mặt bà O’Dowd, nói:
- Bà có chắc là không mời cha cố đến không?
- Tôi sẽ làm gì với một ông cha cố chứ? - Bà O’Dowd hỏi.
- Bà cứ thử xem. - Bà hàng xóm nhiệt tình nói.
Vừa lúc đó ông O’Dowd bị một cơn đau dữ đội và đang vò bóp chiếc chăn, thét lên từ nơi sâu thẳm của buồng phổi, từ trung tâm của căn phòng tối đen, đến nỗi mọi thứ đều rung chuyển.
- A, Kathy, Kathy, em không bỏ anh đấy chứ? Anh biết làm gì đây nếu anh sống một mình?
Bà O’Dowd rất bình thản.
- Tôi sẽ không cần đến cha cố. Tôi không sợ. Tôi có thể tự biện hộ cho bản thân tôi. Cảm ơn Chúa.
Rồi tiếng ồn ào nổi lên, người khen, kẻ chê, tiếng chép miệng, tiếng người đàn ông kêu khóc, một vài người chỉ lắng nghe tiếng đó, vì rất hiếm khi có cơ hội nghe một người đàn ông kêu khóc, mà ông ta lại là người to lớn, ồn ào quá đến nỗi không ai để ý tới vị bác sĩ đang bước vào, người đã đến sau khi đỡ đẻ ở Fingleton.
Vị bác sĩ là một thanh niên ngơ ngác và rụt rè, ít dùng thuật ngữ y học nên chẳng mấy ai tin, mặc dù họ vẫn đến và thậm chí trả tiền anh. Nhiều lúc khốn đốn quá, anh ước gì mình là một nhà ảo thuật.
- Thế nào rồi? - Anh hỏi một người nào đó và tất cả mọi người.
Hoặc giả anh là một nghệ sĩ tung hứng. Để thu hút sự chú ý của khán giả bằng một chuỗi bóng màu.
- Bà ấy đau kinh khủng, nhưng vẫn khá tươi tỉnh. - Bà Kennedy nói với vẻ quan trọng. - Vừa mới đây bà ta có hỏi xin chích một mũi, nhỏ thôi.
Anh bác sĩ trẻ rất vui sướng lấy từ trong túi xách ra một cái gì đó mà hai đứa trẻ đã nhìn chăm chăm nãy giờ.
Nhưng Amy Parker, đang ngồi cầm bàn tay của bà bạn, biết rõ bà ấy hết rồi. Bà phải nói ra điều này ngay bây giờ, bà tự nhủ. Nhưng cổ họng của bà cứ nghẹn không nói lên lời.
- Bà O’Dowd, - cuối cùng bà nói, - chết rồi.
Và bỏ đi, áp chiếc mùi soa vào miệng để không bật ra tiếng khóc.
Bà không bao giờ khóc nhiều, và bây giờ cũng thế trước mặt mọi người.
Kết quả là tất cả những ai lao đến để xem, để làm, để so sánh, để liệm thi thể với bàn tay khéo léo từ bao đời lưu lại, và sau đó để uống trà trong mối thương cảm nồng nàn, đều nói rằng bà Parker trước giờ vẫn là một người đàn bà lạnh lùng, kiêu kỳ, chẳng rõ vì sao, và chẳng được bà con quanh đó ưa thích, của đáng tội.
Bà cụ đi ra khỏi phòng, qua cây hoa phong lữ vẫn còn ngời sáng và người đàn ông to lớn đang khóc than, bà không biết làm thế nào để phân ưu với ông; bà đi qua sân đến bên chú ngựa con mà bà đã đặt một cái túi vắt qua mông đề phòng lạnh giá. Vào cái đêm mùa xuân ấy trời cũng khá rét, cây cối đung đưa trong làn gió yếu đi khi bà cụ đánh xe về nhà. Lăn trên cành và lá cây. Trong chiếc xe ngựa mảnh mai.
Khi bà vào nhà, ông cụ, chồng bà, đang quỳ trên sàn, cào mớ than hồng.
- Bà O’Dowd thế nào? - Ông ngẩng lên hỏi.
- Chị ấy đi rồi. - Bà nói, để mặc cánh cửa bật trở ra bên ngoài.
Hai ông bà già không nói thêm gì nữa về cái chết, một lát sau họ ngồi xuống dùng bữa gồm trà, thịt sườn và khoai tây rán. Khi họ lau mỡ dính vào môi, uống mấy chén trà ngọt, và nói những lời ấm lòng tuy vô nghĩa, họ cảm thấy thiếu nhau.
Về sau họ bình tĩnh hơn, do một sự xếp đặt nào đó và khi họ nằm dưới chăn lông vịt, đã dám nghĩ đến người đàn bà quá cố tuy bà ta đã hòa lẫn vào trong đất cát dưới nghĩa trang. Thật là kỳ quái. Bà O’Dowd, nếu họ dám nghĩ đến, đang nằm trong một cái hố chật chội. Những lời nói của bà ta đã từng nhảy múa, và sẽ còn nhảy múa, dẫu sao cũng là trong ký ức, bản thân nó đang tàn lụi.
Cho đến khi, hai vợ chồng già cuối cùng cũng ngủ thiếp đi.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người