Hãy tiến lên và cứ phạm sai lầm. Phạm thật nhiều sai lầm. Bởi vì đó là nơi bạn sẽ tìm thấy thành công ở phía sau những sai lầm này.

Thomas J. Watson, Sr.

 
 
 
 
 
Tác giả: Jeffery Deaver
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cold Moon
Dịch giả: Đinh Minh Hương
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 44
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3331 / 106
Cập nhật: 2021-02-07 13:19:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21
hỉ còn Kathryn Dance cùng Rhyme trong căn phòng của anh. Ờ, cả Jackson, chú chó giống Havanese, nữa. Dance đang ôm chú chó.
"Thật tuyệt vời", cô bảo Thom. Ba người vừa ăn bữa tối do anh chàng phụ tá chuẩn bị với bò Bourguignon 1, cơm, sa lát, và một chai Caymus Cabernet. "Tôi sẽ hỏi anh công thức nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ nấu ngon bằng."
"A, một khán giả biết tán thưởng", Thom nói, liếc nhìn Rhyme.
"Tôi cũng biết tán thưởng. Chỉ không quá mức thôi."
Thom hất đầu về phía cái bát lúc nãy đựng món chính. "Đối với anh ấy, nó đơn giản là thịt hầm. Anh ấy thậm chí chẳng cố gắng dùng tiếng Pháp. Hãy cho chị ấy biết anh nghĩ thế nào về thức ăn, Lincoln."
Nhà hình sự học nhún vai. "Tôi không cầu kỳ về việc mình ăn gì. Thế thôi."
"Anh ấy gọi đó là nhiên liệu", anh chàng phụ tá nói và mang những chiếc đĩa vào bếp.
"Chị có nuôi chó không?", Rhyme hỏi Dance, hất đầu về phía Jackson.
"Hai con. Chúng to hơn cậu này nhiều. Mỗi tuần, bọn trẻ và tôi đưa chúng ra bãi biển đôi, ba lần. Chúng đuổi theo đám mòng biển, còn chúng tôi thì đuổi theo chúng. Tất cả đều được tập thể dục. Và nếu như thế nghe có vẻ quá lành mạnh, cũng đừng lo. Sau đó chúng tôi đến ăn bánh quế tại tiệm First Watch ở Monterey và bù lại toàn bộ số ca-lo đã mất."
Rhyme liếc nhìn vào bếp, nơi Thom đang rửa đĩa và chảo. Anh hạ giọng hỏi liệu cô có ngại một chút gian trá không.
Dance cau mày.
"Tôi thì chẳng ngại nếu một chút ấy...", Rhyme hất đầu về phía một chai Scotch Glenmorangie lâu năm, "... dừng lại ở kia". Cái hất đầu chuyển hướng về phía chiếc cốc của anh. "Tuy nhiên, chị có lẽ sẽ muốn kín đáo."
"Thom ấy à?"
Một cái gật đầu. "Thi thoảng cậu ấy lại đề ra Luật cấm rượu. Việc này khá khó chịu."
Kathryn Dance biết giá trị của sự tự cho phép mình hưởng thụ. (Chà, cô có lẽ đã tăng gần ba ki-lô ở Tijuana. Đó là một tuần rất, rất dài.) Cô đặt chú chó xuống và rót cho anh một cốc đầy. Cô lắp nó vào giá đỡ ở xe lăn, xoay chiếc ống hút đến gần miệng anh.
"Cám ơn." Rhyme làm một hơi dài. "Dù chị có gửi hóa đơn thanh toán cho thời gian chị ở đây bao nhiêu, tôi cũng giải quyết trả gấp đôi. Và chị cứ tự nhiên nhé. Chị thì Thom không làm gì đâu."
"Có lẽ là ít caffeine." Dance rót một tách cà phê và tự cho phép mình thưởng thức một chiếc bích quy yến mạch mà anh chàng phụ tá đã bày ra. Chính anh ta nướng những chiếc bích quy đó.
Dance liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Ở California chậm hơn ba tiếng. "Xin lỗi một phút. Tôi gọi về nhà kiểm tra."
"Xin mời chị."
Dance sử dụng điện thoại di động của mình. Maggie nghe máy.
"Này, cưng."
"Mẹ."
Con bé vốn nói nhiều và Dance mất mười phút để nghe nó tường thuật chuyến đi mua sắm đồ mừng Giáng sinh với bà ngoại. Maggie kết luận: "Rồi bà và con về nhà và con đọc Harry Potter".
"Cuốn mới à?"
"Vâng."
"Bao nhiêu lần rồi?"
"Sáu."
"Con không thích đọc cái gì đó khác sao? Mở rộng tầm hiểu biết?"
Maggie trả lời: "Ôi, mẹ, nói chung, mẹ đã nghe Bob Dylan 2 bao nhiêu lần? Album Blonde on Blonde ấy. Hay ban U2?"
Logic không thể bác bỏ. "Cưng, con bắt bẻ được mẹ, chỉ có điều đừng nóinói chung."
"Mẹ. Khi nào mẹ về?"
"Có thể là ngày mai. Yêu con. Đưa máy cho anh nào. "
Wes cầm điện thoại và hai mẹ con trò chuyện một lúc, cuộc trò chuyện có nhiều chỗ ngừng lại hơn và giọng điệu nghe nghiêm túc hơn. Thằng bé từ trước đã nói bóng gió về việc đi học karate và bây giờ nó hỏi thẳng thừng mẹ là nó thực hiện việc đó được không. Tuy nhiên, Dance muốn nó tập môn gì ít tính hiếu chiến hơn, nếu nó thích một môn thể thao nào đấy ngoài bóng đá và bóng chày. Cô nghĩ thân hình cuồn cuộn cơ bắp của nó hoàn hảo cho thể dục dụng cụ hoặc tennis, nhưng những môn ấy lại chẳng mấy hấp dẫn nó.
Là nhân viên thẩm vấn, Kathryn Dance biết rất rõ về sự giận dữ, cô thấy nó ở các đối tượng cũng như ở các nạn nhân cô phỏng vấn sau những vụ phạm tội. Cô cho rằng mối quan tâm hiện tại của Wes đối với võ thuật có nguồn gốc là sự giận dữ đôi lúc xuất hiện tựa một đám mây bao phủ lấy nó, kể từ khi người cha qua đời. Sự giận dữ được chấp thuận có thể rất nguy hiểm, đặc biệt đối với bọn trẻ.
Dance trò chuyện cùng thằng bé một lúc về quyết định đó.
Hợp tác giải quyết vụ Thợ Đồng Hồ với Rhyme và Sachs đã khiến Kathryn Dance ý thức rõ rệt về thời gian. Cô nhận ra mình đang sử dụng thời gian nhiều chừng nào trong công việc – và trong quan hệ mẫu tử. Chẳng hạn, thời gian trôi qua làm nguôi ngoai sự giận dữ một cách nhanh chóng (các cơn bùng nổ hiếm khi có thể duy trì quá ba phút) và làm tình trạng kháng cự suy yếu thành những hình thức phản đối – hữu hiệu hơn là cãi nhau đinh tai nhức óc, trong hầu hết các trường hợp. Lúc này, Dance không phủ quyết karate, nhưng thuyết phục thằng bé đồng ý thử tập tennis. (Một lần, cô tình cờ nghe thằng bé bảo một đứa bạn: "Ừ, thật chả ra sao khi mẹ cậu là cảnh sát". Dance đã cười một mình đến đau cả bụng.)
Rồi tâm trạng thằng bé thay đổi đột ngột và nó vui vẻ nói tới một bộ phim nó xem trên kênh HBO. Rồi điện thoại của nó kêu bíp báo tin nhắn bạn nó gửi. Nó phải đi, tạm biệt, mẹ, con yêu mẹ, hẹn sớm gặp lại mẹ.
Cách.
Một phần nghìn giây của câu nói đầy tự nguyện "con yêu mẹ" khiến toàn bộ cuộc thảo luận thật bõ công.
Dance ngắt máy và liếc nhìn Rhyme. "Anh có con không? "
"Tôi á? Không. Tôi không nghĩ rằng chúng sẽ là điểm mạnh của tôi."
"Chúng không là điểm mạnh của bất cứ ai, cho tới chừng nào ta có chúng."
Rhyme nhìn chiếc tai nghe iPod của Dance, nó đung đưa xung quanh cổ cô tựa chiếc ống nghe của bác sĩ. "Tôi đoán chị thích âm nhạc… Chị thấy sự suy luận thông minh đó thế nào?"
Dance nói: "Nó là sở thích của tôi".
"Thật vậy à? Chị có chơi nhạc?"
"Tôi có hát chút ít, tôi từng hát dân ca. Nhưng bây giờ, nếu rảnh rang, tôi ném bọn trẻ và lũ chó lên xe moóc cắm trại và đi ghi âm các bài hát."
Rhyme cau mày: "Tôi đã nghe nói tới hoạt động này. Nó được gọi là..."
"Thông thường thì nó được gọi là sưu tầm ca khúc."
"Vâng. Đúng rồi."
Đây là niềm đam mê của Kathryn Dance. Cô góp phần vào một truyền thống lâu đời của những người chuyên nghiên cứu văn hóa dân gian, những người đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh để ghi âm ngay ngoài trời các làn điệu này, đi bộ khắp nước Mỹ và châu Âu thu lấy các bài hát cổ. Thỉnh thoảng Dance đi đến khu vực East Side, nhưng các làn điệu ở đó đã được phổ biến trong nhiều tư liệu rồi, nên hầu hết những chuyến gần đây cô đi đến những thành phố nội địa, Nova Scotia, Tây Canada, cái lạch sông cùng những địa điểm tập trung đông dân Latin, như Nam và Trung California. Cô ghi âm và lập danh sách các bài hát.
Cô nói với Rhyme việc này và cũng giải thích về một website, mà cô và một người bạn duy trì, cung cấp thông tin liên quan đến các nhạc sĩ, các bài hát và bản thân âm nhạc. Họ giúp đỡ các nhạc sĩ giành quyền tác giả đối với các bài hát gốc và chia lệ phí do người nghe trả khi tải các bài hát ấy về. Một số nhạc sĩ đã được các công ty băng đĩa liên hệ, mua nhạc của họ để làm nhạc cho các bộ phim độc lập.
Tuy nhiên, Dance không nói với Rhyme rằng mối quan hệ giữa cô và âm nhạc còn nhiều hơn thế.
Dance thường xuyên thấy mình bị quá tải. Để hoàn thành tốt công việc, cô phải buộc bản thân vào với những nhân chứng, những kẻ tội phạm mà cô phỏng vấn. Ngồi cách một kẻ sát nhân tâm thần chừng một mét, chiến đấu với hắn hàng tiếng đồng hồ hay hàng ngày hay hàng tuần, đó là một quá trình tạo nên niềm phấn chấn, nhưng cũng khiến người ta kiệt sức và suy nhược. Dance đồng cảm quá, liên quan đến các đối tượng của cô chặt chẽ quá, tới nỗi rất lâu sau khi những cuộc phỏng vấn đã chấm dứt rồi, cô vẫn còn cảm thấy những cảm xúc của họ. Cô cứ nghe thấy những giọng nói của họ văng vẳng trong tâm trí, xoay tròn bất tận trong suy nghĩ của cô.
Si, si 3, được, si, tôi giết cô ta. Tôi cắt cổ cô ta... Ối cha, cả con trai cô ta nữa, thằng bé đó. Nó ở đấy. Nó trông thấy tôi. Tôi phải giết nó, ý tôi là, ai lại không? Nhưng cô ta đáng chết, cái cách cô ta nhìn tôi. Không phải lỗi của tôi. Tôi hút điều thuốc mà bà đang nói tới ấy, được chứ?
Âm nhạc là phương thuốc thần diệu. Khi Kathryn Dance lắng nghe Sonny Terry và Brownie McGhee hay U2 hay Dylan hay David Byrne, cô sẽ không hồi tưởng lại một Carlos Allende phẫn nộ kể rằng chiếc nhẫn đính hôn của nạn nhân đã cứa đứt lòng bàn tay hắn trong lúc hắn cắt cổ cô ta.
Tôi nói là, nó làm tôi đau. Tệ thật. Con chó cái ấy...
Lincoln Rhyme hỏi: "Chị có bao giờ biểu diễn chuyên nghiệp không?"
Dance đã từng, một thời gian. Tuy nhiên, những năm ấy, ở Boston, rồi Berkeley và Biển Bắc ở San Francisco, để lại trong cô nỗi trống rỗng. Việc biểu diễn có vẻ mang tính cá nhân, nhưng cô phát hiện ra rằng thực sự nó là chuyện giữa bạn và âm nhạc chứ không phải giữa bạn và người nghe. Điều Kathryn Dance muốn tìm hiểu hơn rất nhiều là những người khác phải nói – và phải hát – về bản thân họ, về cuộc sống và tình yêu như thế nào. Cô nhận ra rằng đối với âm nhạc, cũng giống như đối với công việc, cô thích vai trò của một khán giả chuyên nghiệp hơn.
Cô bảo Rhyme: "Tôi đã thử. Nhưng cuối cùng tôi dứt khoát cho là giữ âm nhạc bên cạnh mình làm một người bạn thì hay hơn."
"Bởi vậy mà chị trở thành cảnh sát. Sự thay đổi phải đến một trăm tám mươi độ."
"Ái chà."
"Điều đó đã diễn ra như thế nào?"
Dance suy nghĩ. Bình thường vốn ngần ngại đề cập tới bản thân mình (nguyên tắc là lắng nghe trước, nói sau mà), tuy nhiên, cô cảm thấy một mối liên hệ gần gũi với Rhyme. Ở khía cạnh nào đó, họ là những đối thủ, nhưng lại là những người chia sẻ cùng một mục đích. Nghị lực và sự bướng bỉnh của anh cũng khiến cô nhớ đến bản thân mình. Cả niềm đam mê săn đuổi nữa.
Bởi vậy, Dance mới thổ lộ: "Johny Ray Hanson...".
"Một đối tượng à?"
Dance gật đầu và kể cho Rhyme nghe câu chuyện. Sáu năm trước, Dance được bên nguyên thuê tư vấn để lựa chọn bồi thẩm đoàn trong vụ tòa án bang California khởi tố Hanson.
Hanson, nhân viên bán bảo hiểm ba mươi lăm tuổi, sống tại hạt Contra Costa, phía Bắc Oakland, cách nhà vợ cũ của hắn chừng nửa tiếng đi ô tô. Đã có lệnh không cho phép hắn đến gần vợ cũ. Một đêm, kẻ nào đó đột nhập nhà người phụ nữ này. Chị ta đi vắng, và mấy cảnh sát quận vẫn thường xuyên tuần tra qua chỗ ấy phát hiện ra, đuổi theo, tuy nhiên đối tượng chạy thoát.
"Toàn bộ sự việc có vẻ chẳng nghiêm trọng... nhưng chưa hết. Phòng cảnh sát quận băn khoăn vì Hanson liên tục đe dọa và từng tấn công vợ cũ hai lần. Thế là họ gọi hắn tới nói chuyện. Hắn phủ nhận và họ thả hắn. Nhưng cuối cùng họ cho rằng họ có thể lập vụ án và tiến hành bắt hắn."
Vì những lần vi phạm trước đó, Dance giải thích, một bản án sẽ tống hắn vào tù ít nhất năm năm – và để người vợ cũ cùng cô con gái đang độ tuổi sinh viên được tạm thời khỏi bị hắn quấy rối.
"Tôi tiếp xúc với họ tại văn phòng công tố viên. Tôi cảm thấy thật ái ngại cho họ. Họ đã sống trong nỗi khiếp sợ vô cùng. Hanson liên tục gửi cho họ những lá thư toàn giấy trắng. Hắn liên tục để lại những lời nhắn kỳ dị trên điện thoại. Hắn đứng cách xa đúng một khối phố – như thế là không vi phạm lệnh kiềm chế – và nhìn chằm chằm vào họ. Hắn cho người mang thức ăn đến nhà họ. Chẳng có gì bất hợp pháp, nhưng thông điệp chuyển đi rất rõ ràng: Tao sẽ luôn luôn theo dõi mẹ con mày."
Muốn mua sắm, hai mẹ con phải cải trang lẻn đi tới những cửa hàng cửa hiệu cách nơi sinh sống mười hoặc mười lăm dặm.
Dance đã lựa chọn một bồi thẩm đoàn mà cô nghĩ là phù hợp, bao gồm những người đàn ông có nghề nghiệp và những phụ nữ độc thân (khoan dung nhưng không quá khoan dung), những người có thể thông cảm với hoàn cảnh của các nạn nhân. Như vẫn làm thường xuyên, cô dự từ đầu đến cuối phiên tòa để tư vấn cho bên khởi tố – và để phân tích sự lựa chọn của bản thân mình nữa.
"Tôi quan sát Hanson tại tòa một cách thận trọng và tôi chắc chắn rằng hắn phạm tội."
"Nhưng đã có cái gì đó không ổn?"
Dance gật đầu. "Không triệu tập được nhân chứng hoặc lời khai của họ rời rạc, các vật chứng hoặc biến mất hoặc không nguyện vẹn, Hanson có một loạt các chứng cứ ngoại phạm mà bên khởi tố không thể lay chuyển. Mỗi điểm mấu chốt trong vụ án cấp bang này đều được luật sư bào chữa đối đáp lại, y như là họ đã đặt máy nghe trộm văn phòng công tố viên vậy. Hắn trắng án."
"Thật tệ." Rhyme quan sát Dance. "Nhưng tôi cảm thấy câu chuyện còn tiếp tục."
"Rất tiếc là đúng thế. Hai ngày sau phiên tòa, Hanson đã tìm thấy vợ và con gái tại ga ra của một trung tâm mua sắm, dùng dao đâm chết họ. Bạn trai của cô con gái đi cùng. Hắn cũng giết luôn cậu ta. Hắn bỏ trốn khỏi vùng và cuối cùng bị bắt, sau một năm."
Dance nhấm nháp cà phê. "Sau vụ án mạng, bên khởi tố cố gắng xác định xem phiên tòa kia có điều gì không ổn. Họ đề nghị tôi nghiên cứu biên bản ghi chép lại cuộc phỏng vấn ban đầu tại phòng cảnh sát quận." Cô cười thành tiếng cay đắng. "Khi tôi nghiên cứu phiên bản này, tôi bị bối rối. Hanson quá thông minh và viên cảnh sát phỏng vấn hắn hoặc lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm. Hanson khiến anh ta như con cá phải lội ngược dây câu đến kiệt sức. Rốt cuộc hắn biết đủ về việc lập vụ án của bên khởi tố và đã phá hoại nó hoàn toàn, ai là nhân chứng để đến hăm dọa, chứng cứ nào hắn nên hủy đi, chứng cứ ngoại phạm nào hắn nên bố trí."
"Và tôi đồ rằng hắn còn có được thông tin khác nữa", Rhyme vừa nói vừa lắc đầu.
"Ồ, vâng. Viên cảnh sát đã hỏi hắn đến Mill Valley bao giờ chưa. Và rồi nói hắn có hay tới những trung tâm mua sắm ở hạt Miller không. Như thế là đủ thông tin để hắn biết nơi vợ cũ và con gái thỉnh thoảng vẫn tới mua sắm. Về cơ bản, hắn chỉ cần rình rập xung quanh Mill Valley cho tới lúc họ xuất hiện. Chính ở đó hắn sát hại họ, và họ không có sự bảo vệ của cảnh sát vì địa điểm thuộc một hạt khác mất rồi."
Đêm hôm ấy, tôi lái xe về nhà theo tuyến đường Một, quốc lộ Bờ Thái Bình Dương, chứ không theo 101, cái xa lộ lớn. Tôi cứ nghĩ, mình đây mỗi tiếng đồng hồ được trả một trăm năm mươi đô la bởi bất cứ ai cần tư vấn về việc lựa chọn bồi thẩm đoàn. Như thế hoàn toàn bình thường, chẳng có gì trái đạo đức, đó là cách thức hoạt động của cả hệ thống xã hội này. Nhưng tôi không thể nào không nghĩ nếu chính tôi thực hiện cuộc phỏng vấn, hẳn Hanson đã vào tù và ba con người kia đã không chết.
Hai ngày sau, tôi đăng ký theo một khóa đào tạo tại học viện cảnh sát, và phần còn lại, như ta vẫn hay nói, là chuyện cũ rích rồi. Nào, bây giờ, tới sự tích ly kỳ của anh?"
"Tôi đã quyết định trở thành cảnh sát ra sao ấy à?" Rhyme nhún vai. "Không ấn tượng như câu chuyện của chị. Thực tế thì không thú vị gì... chỉ là sa chân thôi."
"Thật ư?"
Rhyme bật cười.
Dance cau mày.
"Chị không tin tôi."
"Xin lỗi, tôi đang nghiên cứu anh chăng? Tôi cố gắng tránh điều đó. Con gái tôi bảo rằng đôi lúc tôi nhìn nó như thể nó là con chuột thí nghiệm vậy."
Rhyme làm thêm một hơi Scotch và nói với nụ cười rụt rè: "Thế thì?".
Dance nhướn một bên lông mày. "Thế thì?"
"Tôi, một người bị như tôi, là một câu đố hóc búa đối với một chuyên gia về ngôn ngữ hình thể. Chị không thực sự giải được, hả?"
Dance bật cười. "Ồ, tôi giải được tốt. Anh để lộ ra qua cặp mắt, gương mặt và cái đầu nhiều chẳng kém gì một người sử dụng toàn bộ cơ thể."
"Thật ư?"
"Thực tế là còn dễ dàng đoán định hơn bình thường, vì các thông điệp tập trung hơn."
"Hừm, tôi là một cuốn sách mở?"
"Không ai là một cuốn sách mở cả. Nhưng có những cuốn sách dễ dàng đọc được hơn những cuốn sách khác."
"Tôi nhớ chị đã đề cập tới những trạng thái phản ứng khi chị tiến hành phỏng vấn người nào đó. Giận dữ, chán nản, phủ nhận, thương lượng... Sau tai nạn, tôi phải trải qua vô số các bước trị liệu. Không muốn, nhưng khi người ta phải nằm thẳng đơ, người ta có thể làm được gì chứ? Bác sĩ tâm lý nói với tôi về những giai đoạn của sự đau khổ. Chúng hoàn toàn giống những trạng thái kia."
Kathryn Dance biết rất rõ ràng về những giai đoạn của sự đau khổ. Nhưng, một lần nữa, đây đâu phải chủ đề cho ngày hôm nay. "Thật thú vị khi tìm hiểu xem đầu óc vốn vẫn đối phó với nghịch cảnh như thế nào, dù là chấn thương cơ thể hay căng thẳng tình cảm."
Rhyme nhìn ra chỗ khác. "Tôi thường xuyên chiến đấu với nỗi tức giận."
Cặp mắt màu xanh lá cây thẫm của Dance không rời khỏi Rhyme, và cô lắc đầu. "Ồ, anh còn lâu mới hay tức giận như anh tự nghĩ."
"Tôi là một kẻ què quặt", Rhyme nói gay gắt. "Tất nhiên tôi hay tức giận rồi."
"Và tôi là một nữ cảnh sát. Thế thì cả hai chúng ta đều có quyền được đôi lúc bực bội. Và chán nản vì đủ thứ lý do. Và phủ nhận hoàn cảnh. Nhưng tức giận? Không, không phải anh. Anh đã tiếp tục bước. Anh ở trạng thái chấp nhận."
"Khi tôi không lần theo dấu vết những kẻ giết người – một cái hất đầu về phía tấm bảng chứng cứ – tôi thực hiện vật lý trị liệu. Theo Thom thì tích cực hơn rất nhiều so với mức cần thiết. Nói chung, đến phát ngán lên được. Đó khó có thể là những gì mang tính chấp nhận."
"Sự chấp nhận không phải như thế. Anh chấp nhận hoàn cảnh và anh chiến đấu lại. Anh đâu ngồi ì ra cả ngày. Ồ, xin lỗi, tôi chắc rằng anh phải ngồi cả ngày."
Lời xin lỗi chẳng thực sự là lời xin lỗi. Rhyme không nhịn được cười rũ rượi và Dance thấy cô đã ghi điểm cao với câu nói đùa. Cô đánh giá rằng Rhyme thuộc loại ít coi trọng tính tế nhị.
"Anh chấp nhận thực tế. Anh cố gắng thay đổi nó nhưng anh không tự lừa dối bản thân. Nó là một thách thức, nó khó khăn làm sao, nhưng nó không khiến anh tức giận."
"Tôi nghĩ là chị nhầm."
"À, anh vừa chớp mắt hai lần. Phản ứng trước sự căng thẳng. Anh không tin tưởng những gì anh đang nói."
"Chị là một phụ nữ chẳng dễ dàng bị bắt bẻ." Rhyme uống cạn cốc rượu.
"A, Lincoln, tôi đã có xuất phát điểm của anh. Anh không đánh lừa tôi được. Nhưng yên tâm. Bí mật của anh sẽ an toàn."
Cửa chính mở ra. Amelia Sachs bước vào căn phòng. Cô cởi phăng chiếc áo khoác ngắn và hai người phụ nữ chào nhau. Thái độ cùng ánh mắt của cô cho thấy cô rõ ràng đang có cái gì khiến cô phải lo lắng. Cô đi đến bên cửa sổ phía trước và nhìn ra ngoài, rồi kéo tấm mành mành xuống.
"Có chuyện gì vậy?", Rhyme hỏi.
"Một chị hàng xóm vừa gọi điện cho em. Chị ta bảo hôm nay có người đã tới tòa nhà em ở và hỏi về em. Người này xưng tên là Joey Treffano. Em từng làm việc với Joey tại bộ phận Tuần tra. Anh ta muốn biết em hiện tại thế nào, đặt rất nhiều câu hỏi, xem xét tòa nhà. Chị hàng xóm thấy việc này là lạ nên gọi điện cho em."
"Và em nghĩ có người đã giả danh Joey? Không phải anh ta?"
"Chắc chắn. Anh ta đã ra khỏi ngành năm ngoái và chuyển tới Montana."
"Có thể anh ta trở về chơi, muốn đến thăm em."
"Nếu thế thì đó la hồn ma anh ta. Anh ta đã chết trong một tai nạn xe máy mùa xuân năm ngoái rồi... Và cả Ron lẫn em đều bị bám đuôi. Và trước đấy, cũng hôm nay, có kẻ lục soát cái xắc của em. Em để nó trong xe, khóa lại. Bọn chúng mở trộm khóa."
"Ở đâu?"
"Hiện trường trên phố Spring, gần xưởng hoa."
Đến đây, Kathryn Dance thấy gờn gợn một cái gì đó trong tiềm thức. Cuối cùng, cô đã tóm được trí nhớ của mình. "Có điều này tôi phải nói... Cũng có thể chẳng quan trọng gì, tuy nhiên đáng nói ra."
Đã muộn, nhưng Rhyme vẫn gọi tất cả mọi người tới. Sellitto, Cooper, Pulaski và Baker.
Bây giờ thì Amelia Sachs đang thận trọng quan sát họ. Cô nói: "Chúng ta gặp một vấn đề mà tôi muốn các anh biết. Có kẻ đang bám đuôi tôi và Ron. Và Kathryn vừa bảo tôi rằng chị ấy nghĩ chị ấy cũng nhìn thấy ai đó".
Nữ chuyên gia về ngôn ngữ hình thể gật đầu.
Rồi Sachs liếc sang Pulaski. "Anh nói với tôi rằng anh nghĩ là đã nhìn thấy chiếc Mercedes đó. Anh có nhìn thấy nó lần nữa không?"
"Không. Từ chiều tới giờ thì không thấy."
"Anh thì sao, Mel? Có gì bất bình thường không?"
"Tôi nghĩ là không." Anh chàng mảnh khảnh đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. "Nhưng tôi chẳng bao giờ để ý cả. Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm không quen với việc bị bám đuôi mà."
Sellitto nói ông ta cho rằng mình có vẻ đã nhìn thấy ai đó, nhưng không chắc chắn.
"Dennis, hôm nay lúc ở Brooklyn, anh cảm thấy có người đang theo dõi anh à?", Sachs hỏi Baker.
Anh ta thoáng chững lại.
"Tôi? Tôi có ở Brooklyn đâu."
Sachs cau mày. "Nhưng... anh không ở đó?"
Baker lắc đầu. "Không."
Sachs quay sang Dance lúc này đang cẩn thận quan sát Baker. Nữ nhân viên mật vụ California gật đầu.
Bàn tay Sachs lần đến khẩu Glock và cô quay về phía Baker.
"Dennis, đưa hai bàn tay anh ra cho chúng tôi thấy."
Cặp mắt anh ta mở to. "Cái gì?"
"Chúng ta cần nói chuyện một chút."
Không người nào khác trong căn phòng – đã được thông báo trước – có phản ứng gì, tuy Pulaski giữ bàn tay gần khẩu súng của mình. Lon Sellitto bước đến đằng sau Baker.
"Này, này, này", anh ta nói, cau mày và thận trọng quan sát viên thám tử to béo. "Thế này là thế nào?"
Rhyme trả lời: "Chúng tôi muốn hỏi anh mấy câu, Dennis ạ."
Chi tiết mà Kathryn Dance cảm thấy đáng nói ra là một chi tiết rất nhạy cảm và nó không phải là chuyện ai đó bám đuôi cô. Sachs tuyên bố thế đơn giản để Dennis Baker không đề phòng gì. Dance nhớ lại rằng khi Baker nói anh ta đã ở hiện trường phía trước xưởng hoa, cô quan sát thấy anh ta bắt tréo chân, tránh nhìn vào mắt mọi người, và tư thế ngồi của anh ta là tư thế của kẻ có khả năng đang nói dối. Câu nói chính xác của anh ta lúc ấy là anh ta vừa rời khỏi hiện trường, mà chẳng thể nhớ phố Spring được thông hay chưa. Vì anh ta không có lý do gì để nói dối về việc anh ta đã ở đâu, cô cũng không suy nghĩ gì lúc ấy.
Nhưng khi Sachs đề cập chuyện ai đó đột nhập xe của cô tại hiện trường – nơi Baker đã hiện diện – Dance nhớ lại hành vi có thể là gian dối của viên trung úy. Sachs liền gọi cho Nancy Simpson (cũng đã ở hiện trường) và hỏi mấy giờ thì Baker rời khỏi đấy.
"Thám tử, ngay sau chị", nữ cảnh sát đáp.
Nhưng Baker bảo anh ta lưu lại gần một tiếng đồng hồ.
Simpson nói thêm rằng cô ta nghĩ Baker đã đi Brooklyn. Vừa xong Sachs hỏi anh ta về việc đó để xem Dance có thể nhận ra những dấu hiệu cho thấy khả năng gian dối không.
"Anh đột nhập xe tôi và lục soát cái xắc của tôi", cô nói, giọng khắc nghiệt. "Và anh hỏi người hàng xóm về tôi, giả vờ là một cảnh sát từng làm việc cùng tôi."
Liệu Baker có phủ nhận không? Đây có thể là cú đấm mạnh vào mặt Dance và Sachs nếu họ lầm.
Nhưng Baker nhìn xuống sàn. "Xin hãy nghe, toàn bộ chuyện này là sự hiểu lầm."
"Anh đã hỏi người hàng xóm của tôi?", Sachs tức giận hỏi.
"Phải."
Cô thận trọng tới gần Baker. Họ cao gần bằng nhau, nhưng Sachs, trong cơn tức giận, dường như cao hơn hẳn.
"Anh lái một chiếc Mercedes màu đen?"
Baker cau mày: "Với đồng lương cảnh sát?" Câu trả lời này xem chừng thành thật.
Rhyme liếc nhìn Cooper đang truy cập cơ sở dữ liệu của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy. Người kỹ thuật viên lắc đầu. "Không phải xe anh ta."
Chà, họ nhầm một việc. Nhưng rõ ràng Baker đã bị bắt quả tang với một việc khác.
"Vậy, chuyện là thế nào?", Rhyme hỏi.
Baker nhìn Sachs. "Amelia, tôi thực sự muốn cô giải quyết vụ án. Cô cùng Lincoln, hai người làm thành một nhóm xuất sắc. Và, thật lòng mà nói, hai người được báo chí rất ca ngợi. Và tôi muốn hợp tác với hai người. Nhưng sau khi tôi thuyết phục được cấp cao nhất đồng ý để hai người nhận nhiệm vụ, tôi nghe nói có một vấn đề."
"Vấn đề gì?", Sachs hỏi dứt khoát.
"Trong cặp đựng tài liệu của tôi, có một tờ giấy." Baker hất đầu về phía Pulaski, anh đang đứng bên cạnh chiếc cặp đựng tài liệu trông xạc xài. "Nó được gập lại. Ở trên cùng bên tay phải."
Chàng cảnh sát trẻ mở cặp và tìm thấy tờ giấy.
"Nó là một email", Baker tiếp tục.
Sachs lấy nó từ Pulaski. Cô đọc nó một lượt, cau mày. Trong khoảng khắc, cô đừng bất động. Rồi cô bước đến gần Rhyme và đặt nó lên tay vịn rộng bản của chiếc xe lăn. Anh đọc tờ thư mật, ngắn gọn. Người gửi là một thanh tra cao cấp thuộc Sở Cảnh sát New York. Tờ thư nói rằng mấy năm trước Sachs có dính líu tới một thám tử thuộc Sở Cảnh sát New York, Nicholas Carelli, đã bị kết nhiều tội, bao gồm cướp xe tải, hối lộ và bạo hành.
Sachs không dính líu tới những việc này, tuy nhiên Carelli mới được thả, và nhân vật quan trọng kia e ngại cô có thể đã liên hệ với anh ta. Họ cũng không cho là cô đã làm chuyện gì bất hợp pháp, nhưng nếu bây giờ cô bị trông thấy đi cùng anh ta thì, bức email viết, chuyện đó có thể "gây ra những bất tiện".
Sachs hắng giọng, không nói gì. Rhyme đã biết tất cả về Nick và Sachs – họ từng bàn bạc đến đám cưới như thế nào, họ từng gần gũi với nhau như thế nào, cô đã choáng váng như thế nào trước cuộc đời tội phạm bí mật của anh ta.
Baker lắc đầu. "Tôi xin lỗi. Tôi không biết xử lý việc này bằng cách nào khác. Người ta yêu cầu tôi trình lên một bản báo cáo đầy đủ. Chi tiết về những nơi cô có mặt cùng tôi, những điều liên quan đến cô mà tôi tìm hiểu được. Trong và ngoài công việc. Bất cứ mối liên hệ nào với tay Carelli này hoặc với bất cứ bạn bè nào của anh ta."
"Đó là lý do tại sao anh đã moi thông tin ở tôi về cô ấy." Rhyme tức giận nói. "Việc này thật bậy bạ."
"Xét về mọi khía cạnh, Lincoln, tôi đang khiến bản thân lâm nguy vì việc này. Dù sao người ta cũng muốn đẩy cô ấy. Người ta không muốn cô ấy giải quyết một vụ thu hút nhiều sự chú ý, với quá khứ như vậy. Nhưng tôi phản đối."
"Đã nhiều năm nay tôi không gặp Nick. Tôi thậm chí không biết anh ta vừa được thả."
"Và đó là điều tôi sẽ nói với họ." Baker lại hất đầu về phía chiếc cặp đựng tài liệu. "Những báo cáo của tôi ở trong đấy." Pulaski tìm thấy một số giấy tờ nữa. Anh đưa cho Sachs, cô đọc rồi trải ra cho Rhyme đọc. Chúng là những ghi chép về những khoảng thời gian anh ta quan sát cô, những câu anh ta đã hỏi, những gì anh ta thấy trong lịch và sổ địa chỉ của cô, những điều người ta kể về cô.
"Anh đã đột nhập", Sellitto nói.
"Tôi thừa nhận việc này. Xin lỗi."
"Chết tiệt làm sao anh lại không đến chỗ tôi hả?", Rhyme quát.
"Hoặc bất cứ ai trong chúng tôi", Sellitto nói.
"Việc này là từ trên xuống. Người ta yêu cầu tôi phải kín đáo." Baker quay sang Sachs. "Cô bị xáo trộn. Tôi xin lỗi vì điều đó. Nhưng tôi thực sự muốn cô đảm nhận vụ án. Nó là cách hành động duy nhất tôi có thể nghĩ ra. Tôi đã nói với họ kết luận của tôi rồi. Toàn bộ vấn đề đã qua rồi. Các vị, xin hãy nghe này, liệu chúng ta có thể bỏ nó lại đằng sau và tiếp tục với công việc của chúng ta?"
Rhyme liếc nhìn Sachs, và cái khiến anh đau đớn nhất là trông thấy phản ứng của cô. Cô chẳng còn giận dữ nữa. Cô có vẻ xấu hổ vì đã là nguyên nhân của cuộc tranh cãi này và gây phiền phức cho các đồng nghiệp, khiến họ xao nhãng. Thật ít khi – và bởi vậy cũng thật khó khăn – trông thấy Amelia Sachs bị đau đớn và tổn thương.
--------------------------------
1 Một món kiểu Pháp, bò om với rượu vang đỏ.
2 Bob Dylan (tên khai sinh: Robert Allen Zimmerman, sinh năm 1941): ca sĩ, nhà soạn nhạc, nhà thơ, DJ. Ông là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn tới âm nhạc đại chúng trong năm thập kỷ qua.
3 Từ tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là "vâng".
Trăng Lạnh Trăng Lạnh - Jeffery Deaver Trăng Lạnh