Love at first sight is often cured by a second look.

Love is sweet when it’s new, but sweeter when it’s true.

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 41
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 22 - Kỳ Án Dòng Chữ Tắt
hiều hôm đó vào lúc 4 giờ 15, Poirot và tôi đã đứng cạnh một chiếc bàn trong phòng ăn của khách sạn Bloxham, chờ mọi người yên vị tại nhiều chiếc bàn khác. Nhân viên khách sạn đã mau chóng tập hợp vào lúc 4 giờ theo đúng lời hứa hẹn của Luca Lazzari. Tôi mỉm cười với nhiều khuôn mặt quen thuộc: John Goode, Thomas Brignell, Rafal Bobak. Họ chào lại tôi bằng những cái gật đầu bồn chồn.
Ông Lazzari đứng bên cửa, đôi tay vung loạn xạ khi trao đổi với viên đội Stanley Beer. Beer phải liên tục né tránh và lùi lại để khỏi bị vung trúng mặt. Tôi ở quá xa để hiểu hết những gì Lazzari nói, và căn phòng cũng quá sức ồn ào, nhưng tôi cũng nhiều lần nghe được cụm từ kỳ án dòng chữ tắt.
Đó có phải là cái tên mà Lazzari đặt ra? Mọi người trong nước đều gọi vụ án này theo cách mà báo chí đã lựa chọn từ ngày đầu: Kỳ án ở khách sạn Bloxham. Hiển nhiên Lazzari đã tìm ra được sự thay thế sáng tạo hơn với hy vọng nó không đụng chạm đến cái dinh cơ mà ông xiết bao yêu mến. Tôi thấy cách gọi này rất sáng sủa nhưng lại khó nghe, tuy nhiên tôi biết điều đó cũng phản ánh tâm trạng của tôi khi gói ghém hành lý. Gói ghém hành trang của bản thân trước mỗi chuyến đi với tôi là quá dễ, nhưng đó là vì tôi luôn hạn chế mang nhiều đồ. Y phục của Ida Gransbury hẳn là đã phình thêm trong thời gian ngắn ngủi cô ta ngụ tại Bloxham. Tôi đã điên tiết khi ra sức nén và đè bằng cả trọng lượng của mình mà vẫn không sao nhét được đống quần áo của cô ta vào vali. Chắc chắn phải có một thứ mẹo phụ nữ nào đó trong những việc này mà những gã độn như tôi không bao giờ tiếp thu nổi. Tôi cực kỳ nhẹ nhõm khi Poirot bảo tôi đừng cố nữa mà hãy đến phòng ăn của khách sạn vào lúc 4 giờ như đã hẹn.
Trong bộ vest xám lịch lãm, Samuel Kidd khoác tay Jennie Hobbs mặt tái nhợt, đến vào lúc 4 giờ 5. Hai phút sau đó đến phiên Henry Negus, em của Richard, và mười phút nữa là một nhóm bốn người: một nam và ba nữ, trong số đó có Nancy Ducane. Có một quầng đỏ quanh đôi mắt ngấn lệ của bà. Khi bước vào, bà cố gắng – tuy không mấy thành công – giấu khuôn mặt sau chiếc khăn quàng cổ bằng chất liệu trong mờ.
Tôi rỉ tai Poirot, “Bà ấy không muốn mọi người biết mình khóc.”
“Không,” ông nói. “Bà ấy vấn khăn quàng để không ai nhận ra chứ không phải do ngượng vì khóc. Chẳng có gì đáng chê trách khi thể hiện cảm xúc ra ngoài, trái ngược hoàn toàn với suy nghĩ của người Anh các anh.”
Tôi không muốn chuyển chủ đề sang chính mình giữa lúc tôi đang nói về Nancy, người mà tôi quan tâm hơn rất nhiều. “Tôi nghĩ điều bà ấy mong muốn nhất là được người hâm mộ háo hức săn đón, tất cả nhập thành một đám đông cuồng mộ dưới gót chân.”
Bản thân Poirot cũng ít nhiều là nhân vật nổi tiếng và có lẽ cũng thích hàng lô lốc người hâm mộ bu quanh, cho nên ông có vẻ sắp bập vào đề tài này. Tôi lái ông chuyển hướng bằng câu hỏi: “Ba người đi cùng Nancy Ducane là ai vậy?”
“Ngài St. John Wallace, phu nhân Louisa Wallace và cô giúp việc Dorcas của họ.” Ông nhìn đồng hồ đeo tay rồi tặc lưỡi. “Chúng ta muộn mất mười lăm phút rồi! Tại sao người ta không chịu đến đúng giờ nhỉ?”
Tôi để ý thấy cả Thomas Brignell lẫn Rafal Bobak đều đứng dậy, có vẻ như muốn nói điều gì đó mặc dù cuộc họp vẫn chưa chính thức khởi đầu.”
“Xin quý vị hãy làm ơn ngồi xuống!” Poirot nói.
“Ông Poirot, thưa ông, tôi phải…”
“Nhưng tôi…”
“Messieurs, xin đừng náo động, về những điều mà các ông tha thiết muốn nói với Poirot này, tôi có thể đảm bảo rằng ông ta đã biết rồi, và ông ta đang sắp sửa trình bày với các ông, với tất cả quý vị ở đây, chính những điều mà các ông muốn nói. Xin các ông hãy nhẫn nại.”
Bobak và Brignell dịu lại và ngồi xuống.
Tôi ngạc nhiên thấy cô gái tóc đen ngồi cạnh Brignell với lấy tay anh ta. Cô ta siết chặt nó và họ giữ đôi bàn tay tiếp tục xoắn vào nhau. Tôi thấy ánh mắt họ trao đổi và ánh mắt đó nói với tôi tất cả những gì tôi cần biết: họ là một cặp yêu nhau. Tuy vậy, cô gái này dứt khoát không phải là người phụ nữ tôi đã thấy Brignell âu yếm trong khu vườn của khách sạn.
Poirot thủ thỉ vào tai tôi: “Người phụ nữ mà Brignell hôn ngoài vườn, bên cạnh chiếc xe cút kít, cô ta tóc vàng mà, non? Phải chăng đó là người phụ nữ áo khoác nâu?” Ông tặng tôi một nụ cười bí ẩn.
Quay sang đám đông, ông nói: “Giờ thì mọi người đã đến đầy đủ, Xin quý vị im lặng và tập trung chú ý. Xin cảm ơn. Cảm ơn tất cả quý vị.”
Trong lúc Poirot nói, tôi đảo mắt nhìn quanh các khuôn mặt trong phòng. Đây có phải là… Ôi, trời đất! Là cô ta! Fee Spring, cô phục vụ tại Pleasant đang ngồi ở cuối phòng. Giống như Nancy Ducane, cô ta cũng cố che khuôn mặt – bằng một kiểu nón lạ, và giống như Nancy, cô ta cũng không thành công. Cô nháy mắt với tôi như thể muốn nói rằng việc tôi và Poirot dừng chân uống cà phê và cho cô biết nơi đến kế tiếp đã có ích cho hai chúng tôi như thế nào. Quỷ tha ma bắt, sao cô gái lém lỉnh này không ở lại cái quán cà phê đó, chỗ của cô ta?
“Hôm nay, tôi xin quý vị hãy kiên nhẫn,” Poirot nói. “Sẽ có rất nhiều điều quý vị cần biết, cần hiểu, mà hiện giờ quý vị vẫn chưa hiểu, chưa biết.”
Phải, tôi nghĩ, đúc kết hoàn hảo cho luận điểm của tôi. Tôi chỉ biết hơn đôi chút so với các cô dọn phòng và các anh đầu bếp ở Bloxham. Có lẽ thậm chí Fee Spring còn nắm bắt các sự kiện tốt hơn tôi. Poirot có lẽ đã mời cô ta đến cái sự kiện lớn do ông dàn dựng này. Phải nói rằng tôi không hiểu và sẽ không bao giờ hiểu nổi vì sao ông lại cần một lượng thính giả đồ sộ đến vậy. Đây có phải là sân khấu kịch đâu. Tôi cũng khá may mắn phá được nhiều vụ án mà không cần sự trợ giúp của Poirot. Những lúc đó, tôi chỉ đơn giản trình kết luận lên các sếp rồi bắt gã vô lại liên quan.
Quá muộn rồi, nhưng tôi tự hỏi phải chăng tôi nên yêu cầu Poirot nói với tôi mọi việc trước khi bước lên cái sân khấu của ông. Bây giờ thì hỡi ôi, cũng mang danh là người phụ trách điều tra, thế mà tôi lại chẳng có ý niệm mơ hồ nào về lời giải mà ông sắp trình bày.
‘Dù cho ông sắp nói gì, cầu cho đó là những lời lẽ khôn ngoan,’ tôi thầm cầu khẩn. ‘Nếu ông phân tích đúng và tôi đứng cạnh ông, sẽ chẳng ai nghi ngờ việc tôi đã từng, và quá sức muộn màng chẳng biết mô tê gì như tôi hiện nay.’
“Câu chuyện này dài quá, nên tôi không thể kể mà không có người trợ giúp,” Poirot nói với cả phòng. “Tôi sẽ hụt hơi mất. Vì vậy tôi xin quý vị lắng nghe hai diễn giả khác. Đầu tiên là bà Nancy Ducane, nhà danh họa đã mang lại vinh hạnh cho chúng ta bằng sự góp mặt của bà ở đây hôm nay.”
Đó là một bất ngờ, dù không phải là với Nancy. Qua khuôn mặt bà, tôi nhận ra bà đã biết trước Poirot sẽ cầu viện bà. Hai người họ đã dàn xếp trước với nhau.
Những tiếng xì xào hoang mang tràn ngập căn phòng khi Nancy, với khăn quàng che khuôn mặt, bước đến đứng cạnh tôi, nơi mọi người đều nhìn thấy bà.
“Ông làm lộ bà ấy trước người hâm mộ rồi đấy,” tôi thì thào với Poirot.
“Oui.” Ông mỉm cười. “Nhưng bà ấy vẫn che mặt bằng khăn quàng khi nói.”
Mọi người mê mải nghe Nancy Ducane kể câu chuyện về Patrick Ive: tình yêu ngang trái của bà dành cho ông, những chuyến viếng thăm lén lút ở nhà mục vụ vào ban đêm, những lời nói dối ác hiểm về việc ông nhận tiền của giáo dân đổi lấy những giao tiếp với người thân đã khuất. Bà không nhắc đến tên của Jennie Hobbs khi nói về cái tin đồn đã khởi sự mọi rắc rối.
Nancy kể lại rốt cuộc bà đã lên tiếng ra sao tại quán trọ King’s Head, thú nhận trước dân làng Great Holling mối tình của bà với Patrick Ive, vốn không phải là trong trắng, mặc dù lúc đó bà đã không nói thật điều này. Giọng bà run lên khi nói về cái chết bi thương của Patrick và Frances Ive do thuốc độc. Tôi ghi nhận bà chỉ nôm na nói như thế về nguyên nhân tử vong: thuốc độc. Bà không nói cụ thể là do tai nạn hay tự sát. Tôi băn khoăn không biết có phải Poirot đã dặn bà không nói ra để tránh gây bất lợi cho Ambrose Flowerday và Margaret Ernst không.
Trước khi ngồi xuống, Nancy nói: “Đến nay tôi vẫn hết lòng thương yêu Patrick như trước. Rồi sẽ đến ngày tôi và anh ấy sẽ đoàn tụ.”
“Cảm ơn, bà Ducane.” Poirot nghiêng mình. “Tôi phải nói ngay cho bà biết một việc mà tôi vừa phát hiện, vì tôi tin rằng nó sẽ an ủi được bà. Trước khi mất, Patrick đã viết… một lá thư. Trong thư ông ấy nhắn với bà rằng ông ấy yêu bà và sẽ mãi mãi yêu.”
“Ôi!” Nancy hai tay bưng miệng, mắt liên tục hấp háy. “Ông Poirot, ông không thể hình dung ông đã khiến tôi hạnh phúc như thế nào đâu.”
“Au contraire, madame. Tôi hình dung rất rõ. Một thông điệp tình yêu chuyển đến sau cái chết của người yêu thương… Chẳng phải là âm vang đích thực cho những lời đồn không có thật về Patrick Ive đó sao? Rằng ông ấy chuyển thông điệp từ bên dưới nấm mồ? Và, tôi xin hỏi bà, ai là người không muốn nhận một thông điệp như thế từ người đã khuất mà họ từng rất yêu?”
Nancy Ducane trở về ghế của bà và ngồi xuống. Louisa Wallace vỗ về cánh tay bà.
“Và bây giờ,” Poirot nói, “một phụ nữ khác từng biết và yêu Patrick Ive sẽ lên tiêng. Đó là người giúp việc cũ của ông ta, Jennie Hobbs. Mời cô Hobbs!”
Jennie đứng dậy, đến đứng vào chỗ Nancy vừa bỏ lại. Chính cô cũng có vẻ bất ngờ khi được mời. Bằng một giọng run rẩy, cô nói. “Tôi yêu Patrick Ive nhiều chẳng kém gì Nancy. Nhưng anh ấy không đáp lại tình cảm của tôi. Với anh ấy, tôi chỉ là một người giúp việc trung thành không hơn không kém. Tôi là người khởi hoạt những tin đồn hiểm ác nhắm vào anh ấy. Tôi đã tung ra một lời nói dối không thể dung thứ. Tôi đã ghen vì anh ấy yêu Nancy chứ không yêu tôi. Dù tôi không chính tay giết anh ấy, tôi tin rằng hoạt động bêu riếu của chúng tôi đã khiến anh ấy phải chết. Chúng tôi, gồm có tôi và ba người nữa: Harriet Sippel, Richard Negus và Ida Gransbury, ba người vừa bị giết ở khách sạn. Bốn người chúng tôi sau đó đã ăn năn về những gì mình làm. Chúng tôi ân hận sâu sắc. Vì vậy chúng tôi đã lên kế hoạch để sửa chữa lại lỗi lầm.”
Tôi quan sát những khuôn mặt sửng sốt của toàn thể nhân viên khách sạn Bloxham khi Jennie trình bày cái kế hoạch mà cô đã mô tả cho Poirot và tôi tại nhà của Samuel Kidd, và giải thích vì sao nó lại hỏng. Louisa Wallace ré lên sợ hãi khi đến đoạn gán ghép ba án mạng cho Nancy Ducane và khiến bà bị treo cổ.
“Dàn xếp đẩy một phụ nữ đến cái chết vì ba án mạng mà bà ấy không làm đâu phải là sửa chữa lỗi lầm!” St. John Wallace la lớn. “Đó là sự bại hoại!”
Mọi người đều nhất trí với ông. Ít ra đã chẳng có lời phản đối nào được cất lên. Tôi nhận thấy Fee Spring trông ít sửng sốt hơn so với hầu hết mọi người. Cô có vẻ đang lắng nghe chăm chú.
“Tôi không bao giờ muốn giá họa cho Nancy,” Jennie nói. “Không bao giờ! Các người tin tôi không thì tùy.”
“Ông Henry Negus, theo ông, người anh Richard của ông có giống người vạch ra cái kế hoạch như ông vừa nghe không?” Poirot nói.
Henry Negus đứng dậy. “Tôi không thích nói ra đâu, ông Poirot. Richard mà tôi biết có nằm mơ cũng không thể giết ai, đương nhiên là vậy, nhưng Richard đến sống với chúng tôi tại Devon mười sáu năm trước đây không phải là Richard mà tôi biết. Dáng dấp bề ngoài thì vẫn vậy, nhưng bên trong anh ấy đã không còn là con người cũ nữa rồi. Tôi e phải nói rằng tôi không bao giờ hiểu con người mà anh ấy đã trở thành, vì vậy tôi không thể bình luận gì về việc anh ấy có thể hành xử ra sao.”
“Cảm ơn ông Negus. Và cảm ơn cô nữa, cô Hobbs,” Poirot bổ sung với vẻ thiếu nhiệt tình rõ rệt. “Cô có thể về chỗ được rồi.”
Ông quay sang đám đông. “Thưa quý vị, vậy là quý vị đã nghe câu chuyện của cô Hobbs. Nếu nó là thật thì chúng ta chẳng có hung thủ nào để bắt giữ và xét xử. Ida Gransbury giết Harriet Sippel với sự ưng thuận của bà ta. Richard Negus giết Ida Gransbury, cũng với sự ưng thuận của chính cô, rồi tự sát khi Jennie Hobbs không đến để giết ông ta như đã định trước. Ông ta tự sát và làm cho giống như bị giết, đầu tiên bằng cách khóa cửa phòng và giấu chìa khóa sau viên gạch lỏng ở lò sưởi, và sau đó là mở cửa sổ ra. Theo dự tính, cảnh sát sẽ nghĩ rằng hung thủ – Nancy Ducane – mang chìa khóa theo, thoát ra ngoài qua cửa sổ và leo cây xuống. Theo lời cô Jennie Hobbs thì không có hung thủ – không có ai giết người mà không được sự chuẩn thuận của chính nạn nhân!”
Poirot nhìn quanh phòng. “Không có hung thủ,” ông lặp lại. “Nhưng dù đó là sự thật đi nữa, ta vẫn còn hai kẻ phạm pháp đang sống và đáng bị trừng phạt. Đó là Jennie Hobbs và Samuel Kidd, hai kẻ đã thông đồng nhau để giá họa cho Nancy Ducane.”
“Ông Poirot, ông mau bắt nhốt chúng lại đi!” Louisa Wallace la lên.
“Tôi không phải là người đóng mở cửa nhà giam, thưa bà. Đó là công việc của ông bạn Catchpool đây và các cộng sự của ông ấy. Tôi chỉ mở các bí ẩn để đi đến sự thật. Ông Samuel Kidd, mời ông đứng dậy.”
Kidd lúng túng đứng lên.
“Phần việc của ông trong kế hoạch là đặt mảnh giấy lên bàn lễ tân của khách sạn, đúng không? ‘CẦU CHO HỌ KHÔNG BAO GIỜ YÊN NGHỈ. 121. 238. 317.’”
“Vâng thưa ông. Như Jennie đã nói.”
“Jennie đã đưa cho ông mảnh giấy để ông làm việc đó?”
“Vâng, cô ấy đưa cho tôi vào sáng hôm đó.”
“Và ông phải đặt nó lên bàn vào lúc nào?”
“Ngay sau 8 giờ giờ tối, như Jennie đã nói. Tôi lừa dịp sớm nhất sau 8 giờ, khi tin chắc không có ai ở gần đấy thấy tôi làm việc đó.”
“Ông nhận chỉ dẫn từ ai?” Poirot hỏi.
“Jennie.”
“Và Jennie cũng chỉ dẫn ông luồn các chìa khóa phòng vào túi của Nancy Ducane?”
“Đúng vậy,” Kidd nói bằng một giọng ảm đạm. “Tôi không hiểu vì sao ông hỏi tôi tất cả các câu đó. Cô ấy chẳng vừa kể cho mọi người đó sao.”
“Tôi sẽ giải thích. Bon. Theo kế hoạch ban đầu, như tất cả chúng ta đã nghe thấy, Jennie Hobbs nói chìa khóa của cả ba phòng – 121, 238 và 317 – phải được Jennie lấy khỏi phòng của Richard Negus sau khi giết ông ta rồi. Sau đó cô ta sẽ phải trao lại chúng cho Samuel Kidd để ông này nhét vào nơi nào đó có thể giá họa cho Nancy Ducane – là túi áo khoác của bà ấy. Nhưng Jennie Hobbs không hề đến khách sạn Bloxham vào đêm án mạng, theo như câu chuyện của cô ta. Cô ta không đủ can đảm. Vì vậy mà tôi hỏi ông, ông Kidd: làm cách nào ông có được các chìa khóa phòng 121 và 317?”
“Tôi làm cách nào… làm cách nào có hai chìa khóa đó ư?”
“Phải. Tôi hỏi ông thế đấy. Làm ơn trả lời đi.”
“Tôi… Vâng, nếu như ông muốn biết, tôi lấy được các chìa khóa đó nhờ tài tán gẫu của tôi. Tôi rỉ tai một nhân viên khách sạn, hỏi xem liệu họ có tử tế cho tôi mượn chìa khóa cái của khách sạn được không. Họ chịu liền. Rồi tôi trả lại cho họ khi đã dùng xong. Tất cả đều kín đáo.”
Tôi đứng đủ gần Poirot để nghe ông phát ra một âm thanh chê trách. “Nhân viên nào của khách sạn vậy? Họ đều có mặt ở đây. Hãy chỉ ra người nào đã trao cho ông chiếc chìa khóa cái đi.”
“Tôi không nhớ đó là ai. Một người đàn ông, tôi chỉ nói được với ông như thế. Tôi nhớ mặt người kém lắm.” Trong khi nói vậy, Kidd lấy ngón cái và ngón trỏ vân vê vết trầy đỏ ở trên mặt.
“Vậy, bằng chìa khóa cái mà ông đã vào cả ba phòng?”
“Không, chỉ phòng 238 thôi. Đó là nơi mà theo dự tính phải có cả ba chiếc chìa đợi sẵn Jennie đến lấy, nhưng tôi chỉ tìm được hai chiếc thôi. Như ông đã nói, một chiếc bị giấu sau viên gạch ở lò sưởi rồi. Tôi không muốn nán lại, lục soát trong phòng để tìm chiếc thứ ba, nhất là khi có xác ông Negus nằm ở đó.”
“Ông nói dối,” Poirot nói. “Không sao. Vào lúc thích hợp ông sẽ nhận ra rằng ông không thể nói dối để thoát tội. Nhưng ta hãy tiếp tục. Không, đừng ngồi vội. Tôi còn một câu hỏi nữa – cho cả ông và Jennie Hobbs. Việc Jennie bưng câu chuyện sợ hãi của cô ta đến quán cà phê Pleasant ngay sau 7 giờ 30 vào đêm án mạng có nằm trong kế hoạch không?”
“Có,” Jennie nói, không nhìn Poirot mà nhìn Samuel Kidd.
“Thế thì tôi xin lỗi, nhưng tôi không hiểu một điều quan trọng. Cô quá sợ hãi để tiếp tục kế hoạch, cô nói thế, vì vậy cô không đến khách sạn vào lúc 6 giờ. Thế mà hình như kế hoạch vẫn cứ được tiến hành mà không có cô. Sai lệch duy nhất là Richard Negus tự sát, đúng không nhỉ? Ông ta tự bỏ độc vào thức uống của mình thay vì cô là người bỏ độc. Mọi điều tôi nói có đúng không vậy, thưa cô?”
“Vâng, ông nói đúng.”
“Trong trường hợp đó, nếu chi tiết thay đổi duy nhất là Richard Negus tự sát thay vì bị giết, ta có thể suy luận rằng ba cái chết đã diễn ra đúng kế hoạch, tức sau khi gọi bánh kẹp và bánh nướng, từ 7 giờ 15 đến 8 giờ, đúng không, cô Hobbs?”
“Đúng vậy,” Jennie nói. Giọng cô không còn chắc chắn như cách đấy ít lâu.
“Vậy thì xin cho tôi hỏi, làm sao việc giết Richard Negus lại có thể là một phần của kế hoạch? Cô từng nói cô muốn tìm tôi ở quán cà phê Pleasant ngay sau 7 giờ 30 tối hôm ấy, biết rằng tôi sẽ ở đó, dùng bữa tối thứ năm thường lệ của tôi. Không thể nào di chuyển từ khách sạn Bloxham đến quán cà phê Pleasant trong chưa đầy nửa giờ. Điều đó là không thể, dù có di chuyển bằng gì đi nữa. Do đó, cho dù Ida Gransbury đã giết Harriet Sippel và Richard Negus đã giết Ida Gransbury trong khoảng thời gian sớm nhất sau 7 giờ 15, cô vẫn không đủ thời giờ để giết Richard Negus trong phòng 238 sau thời gian này, mà vẫn kịp đến được Pleasant. Chúng tôi liệu có nên tin rằng, bất chấp tất cả những kế hoạch chi li mà các người tính toán, không ai trong các người chịu nghĩ về cái thực tế bất khả đó?”
Khuôn mặt Jennie trở nên trắng bệch. Tôi đoán khuôn mặt tôi cũng thế, chỉ có điều tôi không tự nhìn thấy được.
Đó là một kẽ nứt rành rành trong câu chuyện của cô ta. Poirot đã vạch chỉ ra. Và tôi đã không nhận ra. Đơn giản là tôi đã không nghĩ đến.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt