Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 21: Cờ Tỉ Phú
H
arry tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng chuông báo thức của đồng hồ kiêm radio và bản tin thời sự. Ném bom ngày càng leo thang. Nghe như một điệp khúc lặp đi lặp lại.
Anh cố gắng tìm ra một lý do để dậy.
Giọng phát thanh viên nói rằng từ năm 1975, cân nặng trung bình của đàn ông và phụ nữ Na Uy đã tăng mười ba cân đối với nam và chín cân đối với nữ. Harry nhắm mắt lại và nhớ tới điều gì đó Aune đã từng nói. Khuynh hướng thoát ly thực tế đã bị mang tiếng một cách bất công. Cơn buồn ngủ kéo đến. Cái cảm giác ấm áp, ngọt ngào y như hồi anh còn bé và nằm trong giường, cửa để mở, lắng nghe cha đi lại quanh nhà tắt đèn đi - từng cái một - và mỗi bóng đèn tắt đi thì bóng tối phía ngoài cửa phòng anh lại trở nên thẫm hơn.
Sau những vụ cướp đầy bạo lực ở Oslo trong mấy tuần qua, các nhân viên ngân hàng đã kêu gọi cho bảo vệ có vũ trang tại các ngân hàng dễ bị tấn công nhất ở trung tâm thành phố. Vụ cướp xảy ra hôm qua tại chi nhánh của ngân hàng Den norske trên phố Grønlandsleiret là vụ mới nhất trong chuỗi các vụ cướp có vũ trang mà cảnh sát nghi ngờ kẻ được đặt tên là Kẻ Hành quyết gây ra. Chính tên này đã bắn chết…
Harry đặt chân xuống lớp vải sơn lót sàn nhà lạnh giá. Khuôn mặt trong tấm gương treo trong phòng tắm chẳng khác nào tranh thời kỳ sau của Picasso.
Beate đang nói chuyện điện thoại. Cô lắc đầu khi nhìn thấy Harry đứng ở ngưỡng cửa văn phòng. Anh gật đầu và định bước đi thì cô vẫy anh quay lại.
“Dù sao cũng cảm ơn anh đã giúp đỡ tôi,” cô nói và đặt ống nghe xuống.
“Tôi có làm phiền cô không?” Harry hỏi, đặt tách cà phê trước mặt cô.
“Không, tôi lắc đầu là muốn nói rằng chúng ta không gặp may với trung tâm Focus rồi. Người vừa rồi là cái tên cuối cùng trong danh sách. Trong số tất cả những gã mà chúng ta biết là có mặt ở Focus vào thời gian được hỏi, chỉ có một người nhớ mang máng là đã thấy một người đàn ông mặc bộ bảo hộ lao động. Nhưng anh ta thậm chí còn không chắc có thấy hắn ở trong phòng thay đồ hay không.”
“Ừm.” Harry ngồi xuống và nhìn quanh. Văn phòng của cô gọn gàng đúng như anh đã nghĩ. Ngoài một cái cây trồng trong chậu trông quen quen mà anh không thể nhớ tên để trên bậu cửa sổ, phòng cô cũng đơn giản như phòng anh. Trên bàn làm việc của cô, anh thấy mặt sau một bức ảnh được lồng khung. Anh đã đoán ra đó là ai.
“Cô chỉ nói chuyện với toàn đàn ông thôi à?” anh hỏi.
“Theo lý thuyết thì hắn sẽ vào phòng thay đồ của nam để thay, phải không?”
“Rồi hắn đi xuống khu Morristown như bất cứ người bình thường nào, đúng vậy. Có gì mới trong vụ cướp trên phố Grønlandsleiret hôm qua không?”
“Còn tùy thuộc vào việc theo anh thế nào là mới. Tôi muốn nói rằng đó là một bản sao thì đúng hơn. Cũng bộ quần áo và khẩu súng AG3 đó. Dùng con tin để truyền đạt lệnh. Lấy tiền từ máy ATM, tất cả chỉ diễn ra trong vòng một phút năm mươi giây. Không có manh mối. Tóm lại…”
“Là Kẻ Hành quyết,” Harry nói.
“Cái gì đây?” Beate giơ tách cà phê lên ngó.
“Cappuccino đấy. Với lời chúc từ Halvorsen.”
“Cà phê pha với sữa ư?” Cô nhăn mũi.
“Để tôi đoán xem nhé. Cha cô bảo ông ấy không bao giờ tin người nào không uống cà phê đen phải không?”
Anh thấy hối hận ngay khi nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của Beate. “Xin lỗi,” anh lúng búng nói. “Tôi không có ý… thật ngu ngốc quá.”
“Vậy giờ chúng ta làm gì?” Beate vội vã hỏi trong lúc mân mê quai cốc. “Chúng ta vẫn giậm chân tại chỗ.”
Harry ngồi phịch xuống cái ghế và ngắm nghía mũi giày của mình. “Tới nhà tù.”
“Sao cơ?”
“Đi thẳng tới nhà tù.” Anh ngồi thẳng lại. “Đừng có bỏ qua chỗ ĐI. Đừng có nhặt hai nghìn krone.”
“Anh đang nói gì thế?”
“Cờ tỉ phú. Chúng ta chỉ còn lại mỗi nước đó. Thử vận may xem sao. Ở nhà tù ấy. Cô có số của nhà tù Botsen chứ?”
○○○
“Thật là mất thì giờ,” Beate nói.
Giọng cô vang vọng giữa các bức tường của đường hầm Culvert trong lúc rảo bước bên cạnh Harry.
“Có lẽ vậy,” anh nói. “Giống như chín mươi phần trăm công việc điều tra.”
“Tôi đã đọc tất cả các báo cáo và bản ghi chép những cuộc thẩm vấn đã được thực hiện. Hắn chưa bao giờ hở ra bất cứ điều gì. Ngoại trừ một mớ triết lý vớ vẩn chẳng liên quan quái gì cả.”
Harry nhấn nút điện thoại nội bộ bên cạnh cánh cửa màu xám ở cuối đường hầm.
“Cô đã nghe câu ngạn ngữ cổ về việc tìm bóng đèn trong ánh sáng chưa? Tôi cho là câu đó nhằm minh họa cho sự ngu ngốc của con người. Tôi thấy nó khá chính xác.”
“Giơ thẻ của anh lên trước máy quay,” tiếng loa vang lên.
“Tôi đi với anh để làm gì nếu như anh định một mình nói chuyện với hắn?” Beate hỏi, lỉnh nhanh ra sau lưng Harry.
“Đó là một phương pháp mà tôi và Ellen từng sử dụng khi chúng tôi thẩm vấn những kẻ tình nghi. Một người tiến hành thẩm vấn, còn người kia thì chỉ lắng nghe. Nếu cuộc thẩm vấn bị sa lầy, chúng tôi sẽ tạm nghỉ. Nếu tôi là người hỏi, tôi sẽ đi ra và Ellen sẽ bắt đầu hỏi về những chuyện tầm thường khác. Giống như là chuyện cai thuốc hay chuyện mọi thứ trên ti vi hiện nay đều vớ vẩn. Hoặc chuyện cô ấy nhận ra là mình đã phải trả bao nhiêu tiền thuê nhà kể từ lúc chia tay với bồ. Sau khi họ nói chuyện được một lúc, tôi sẽ ló đầu vào và nói có việc bất chợt và cô ấy sẽ phải tiếp quản.”
“Cách đó có tác dụng chứ?”
“Chưa hỏng lần nào.”
Họ đi lên cầu thang dẫn tới rào chắn phía trước phòng lớn của nhà tù. Viên sĩ quan quản lý trại giam đứng sau tấm kính chắn đạn dày cộp gật đầu với họ và nhấn một cái nút. “Một lát nữa quản giáo sẽ ra,” một giọng mũi cất lên.
Viên quản giáo thấp tè, vai u thịt bắp và dáng đi lạch bạch như người lùn. Anh ta dẫn họ tới phòng giam. Một hành lang cao ba tầng với những hàng ô cửa xà lim màu xanh nhạt chạy vòng quanh một cái sảnh hình chữ nhật. Lưới thép vươn cao giữa các tầng. Chẳng thấy ma nào và sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi một tiếng sập cửa ở đâu đó.
Harry từng tới đây nhiều lần, nhưng dường như lần nào anh cũng thấy thật ngớ ngẩn khi nghĩ rằng đằng sau những cánh cửa này là những con người mà xã hội cho rằng đáng bị giam giữ trái với ý muốn của họ. Anh hoàn toàn không biết là tại sao anh lại thấy ý nghĩ đó gớm ghiếc đến vậy, nhưng nó có liên quan gì đó tới việc chứng kiến biểu hiện hữu hình của sự trừng phạt đã được thể chế hóa công khai. Cái cân và thanh kiếm.
Chùm chìa khóa của viên quản giáo kêu xủng xoẻng khi anh ta mở khóa cánh cửa để dòng chữ PHÒNG THĂM VIẾNG màu đen. “Mời các vị. Khi nào chuẩn bị đi thì cứ việc gõ cửa.”
Họ bước vào trong và cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ. Trong quãng im lặng sau đó, Harry chợt chú ý đến tiếng kêu ro ro ngắt quãng của chiếc đèn tuýp và những bông hoa nhựa trên tường, hắt những cái bóng mờ mờ lên những bức tranh màu nước đã phai. Một người đàn ông đang ngồi thẳng đơ trên một chiếc ghế tựa kê ở chính giữa bức tường màu vàng phía sau một cái bàn. Hai cẳng tay của hắn đặt lên mặt bàn ở hai bên bàn cờ, tóc hắn được vén chặt ra sau tai. Hắn mặc một bộ đồng phục trông giống như bộ đồ bảo hộ lao động trơn. Cặp lông mày sắc nét và cái bóng vắt ngang sống mũi thẳng tắp tạo thành một chữ T rõ ràng mỗi lần bóng đèn tuýp nhấp nháy. Tuy nhiên, vẻ mặt của hắn mới là thứ khiến Harry ghi nhớ đậm nét nhất từ lúc gặp ở đám tang, một sự pha trộn đầy mâu thuẫn giữa vẻ đau buồn và lạnh lùng khiến Harry nhớ tới ai đó.
Harry ra hiệu cho Beate ngồi xuống cạnh cửa. Anh kéo một chiếc ghế tới gần bàn và ngồi xuống đối diện với Raskol.
“Cảm ơn ông đã dành thời gian gặp chúng tôi.”
“Ở đây thời gian rẻ như bèo,” Raskol nói bằng một giọng nhẹ nhàng và tươi tỉnh đến kinh ngạc. Hắn nói giống người Đông Âu với âm “r” rung mạnh và cách phát âm rõ ràng.
“Tôi hiểu. Tôi là Harry Hole còn đồng nghiệp của tôi là…”
“Beate Lønn. Trông cô giống cha lắm, Beate ạ.”
Harry nghe thấy Beate thở dốc và hơi quay người lại. Mặt cô không đỏ, mà trái lại, làn da trắng của cô càng trắng bệch ra và miệng thì cứng đờ lại nhăn nhúm, như thể cô vừa bị một cú tát trời giáng.
Harry nhìn xuống mặt bàn, hắng giọng một tiếng, và lần đầu tiên anh nhận ra rằng sự đối xứng gần như kỳ dị ở hai bên cái trục phân chia giữa anh và Raskol đã bị phá vỡ bởi một chi tiết rất nhỏ: quân vua và hoàng hậu trên bàn cờ.
“Tôi đã gặp anh ở đâu rồi nhỉ, anh Hole?”
“Tôi gần như lúc nào cũng bị nhìn thấy gần bên người chết,” Harry đáp.
“À. Đám tang là một trong những con chó canh của Ivarsson.”
“Không.”
“Vậy là anh không thích điều đó hả? Bị gọi là chó canh của lão ấy? Giữa anh và lão có xích mích à?”
“Không,” Harry suy ngẫm. “Chỉ là chúng tôi không ưa nhau thôi. Tôi hiểu ông cũng không ưa ông ta.”
Raskol mỉm cười dịu dàng và bóng đèn tuýp chập chờn một lúc rồi sáng trưng lên. “Tôi hy vọng ông ta không cảm thấy bị xúc phạm vì chuyện đó. Bộ vest đó chắc đắt lắm.”
“Tôi nghĩ là bộ vest của ông ta tổn hại nhất.”
“Lão muốn tôi nói cho lão điều gì đó. Vậy là tôi nói.”
“Rằng bọn chỉ điểm sẽ bị đánh dấu suốt đời à?”
“Không tệ đâu, ngài Thanh tra. Nhưng thứ mực đó sẽ phai theo thời gian. Anh có chơi cờ không?”
Harry cố gắng không để Rasol thấy là hắn đã gọi đúng chức danh của anh.
Có lẽ hắn đã đoán ra.
“Làm sao sau đó ông che giấu được cái máy phát tín hiệu?” Harry hỏi. “Tôi nghe nói người ta đã lục tung tòa nhà lên cơ mà.”
“Ai bảo là tôi giấu gì nào? Đen hay trắng?”
“Nghe nói ông vẫn là kẻ giật dây phần lớn các vụ cướp ngân hàng ở Na Uy, rằng đây là đại bản doanh của ông và phần của ông trong số tiền cướp được sẽ được chuyển vào một tài khoản ở nước ngoài. Đó có phải là lý do tại sao ông đã thu xếp để được giam trong Cánh A của nhà tù Botsen không? Để ông có thể gặp gỡ những gã bị tù ngắn, sẽ sớm được thả ra và có thể thực hiện những kế hoạch mà ông ngấm ngầm ấp ủ ở đây? Và ông liên lạc với bọn chúng ở bên ngoài bằng cách nào? Ở đây ông cũng có điện thoại di động phải không? Hay là máy tính?”
Raskol thở dài. “Một màn khởi đầu đầy hứa hẹn, ngài Thanh tra, nhưng anh lại bắt đầu làm tôi chán ốm lên rồi. Anh có chơi cờ hay không?”
“Một trò chơi chán phèo,” Harry nói. “Trừ phi ta cá cược gì đó.”
“Được. Vậy chúng ta sẽ cược cái gì?”
“Cái này.” Harry giơ lên cái móc khóa đeo một cái chìa duy nhất và cái biển tên bằng đồng.
“Đó là cái gì?” Raskol hỏi.
“Không ai biết. Thỉnh thoảng anh sẽ phải đánh liều mà tin rằng có vật cá cược có giá trị.”
“Sao tôi phải liều?”
Harry nhoài về phía trước. “Vì ông tin tôi.”
Raskol bật cười ha hả. “Hãy cho tôi biết một lý do tại sao tôi phải tin anh, Spiuni.”
“Beate,” Harry nói, mắt vẫn không rời khỏi Raskol. “Cô không phiền nếu để chúng tôi ở riêng với nhau chứ?”
Anh nghe thấy tiếng đập cửa rồi tiếng chìa khóa lách cách sau lưng. Cánh cửa mở ra và một tiếng cạch trơn tru vang lên khi khóa được sập lại.
“Xem đi.” Harry đặt chiếc chìa khóa lên mặt bàn.
Mắt vẫn không rời mắt Harry, Raskol hỏi. “A.A?”
Harry nhấc quân vua trắng lên khỏi bàn cờ. Đó là một quân cờ đẽo thủ công rất đẹp. “Đó là những chữ đầu tên của một người đàn ông vướng phải một rắc rối tế nhị. Anh ta giàu, có vợ con. Có nhà cửa và cả nhà gỗ nghỉ mát nữa. Có cả chó và người tình. Mọi chuyện có vẻ rất tuyệt vời.” Harry xoay lật úp quân cờ. “Nhưng thời gian trôi qua, người đàn ông giàu có đó đã thay đổi. Những chuyện xảy ra khiến anh ta nhận ra rằng gia đình mới là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời mình. Anh ta bèn bán công ty, bỏ rơi người tình và hứa với gia đình cũng như bản thân rằng họ sẽ sống vì nhau. Vấn đề là cô bồ bắt đầu dọa sẽ tiết lộ mối quan hệ của họ. Có lẽ cô ta còn tống tiền anh ta nữa. Không phải vì lòng tham, mà vì cô ta nghèo. Và vì sắp hoàn tất một tác phẩm nghệ thuật mà cô ta nghĩ sẽ đưa sự nghiệp của mình lên đỉnh vinh quang, nên cô ta cần tiền để ra mắt tác phẩm đó. Cô ta thúc ép người đàn ông đó càng ngày càng dữ, và một đêm nọ anh ta quyết định tới thăm cô ta. Không phải một đêm bất kỳ, mà là một đêm đặc biệt, vì cô ta đã kể với anh ta rằng một người tình cũ sắp tới thăm. Tại sao cô ta lại kể với anh ta? Để khiến cho anh ta nổi cơn ghen chăng? Hay để chứng tỏ rằng vẫn có những người đàn ông khác thèm muốn cô ta? Anh ta không hề ghen. Anh ta phấn khích. Đó là một cơ hội tuyệt vời.” Harry nhìn Raskol. Hắn đang khoanh tay trước ngực và chăm chú nhìn Harry. “Anh ta đợi ở bên ngoài. Đợi, đợi mãi, quan sát đèn trong căn hộ của cô ta. Tới gần nửa đêm thì người khách kia về. Một người đàn ông bất kỳ, mà nếu như có điều tra thì sẽ không có bằng chứng ngoại phạm và có lẽ sẽ có người xác nhận rằng anh ta đã ở bên Anna suốt cả buổi tối. Bà hàng xóm hay để ý của cô ta chẳng hạn, hẳn đã nghe thấy người này bấm chuông trước đó. Nhưng người đàn ông của chúng ta thì không bấm chuông. Anh ta tự mở khóa vào. Rón rén đi lên cầu thang và mở khóa căn hộ của cô ta.”
Harry nhấc quân vua đen lên và so sánh nó với quân vua trắng. Nếu không nhìn thật gần thì người ta có thể nhầm tưởng rằng chúng giống y hệt nhau.
“Khẩu súng không có đăng ký. Nó có thể là của Anna; cũng có thể là của kẻ kia. Tôi không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra trong căn hộ đó, và có lẽ cả thế giới này cũng sẽ chẳng bao giờ biết được, vì cô ấy đã chết. Theo quan điểm của phía cảnh sát thì đó là một vụ đã rõ ràng và không cần phải điều tra nữa: Tự sát.”
“Tôi? Theo quan điểm của phía cảnh sát ư?” Raskol vuốt chòm râu dê: “Tại sao không phải là chúng tôi và theo quan điểm của chúng tôi? Anh đang cố gắng nói với tôi rằng anh đang đi một mình một đường sao, ngài Thanh tra?”
“Ý ông là sao?”
“Anh hiểu rất rõ tôi muốn nói gì. Cái cách anh đuổi cô đồng nghiệp đi cho tôi thấy rằng chuyện này chỉ tôi và anh biết, điều đó tôi hiểu, nhưng…” Hắn chập hai bàn tay vào với nhau. “Mặc dù chuyện đó có thể xảy ra. Còn ai khác biết những gì anh biết không?”
Harry lắc đầu.
“Vậy anh đang theo đuổi điều gì? Tiền ư?”
“Không.”
“Là tôi thì tôi sẽ không trả lời nhanh như thế đâu, ngài Thanh tra ạ. Tôi chưa có cơ hội để nói rằng thông tin này có giá trị như thế nào đối với tôi. Biết đâu lại có một món tiền lớn. Nếu anh có thể chứng minh được những điều anh vừa nói. Và sự trừng phạt những kẻ có tội có lẽ sẽ được thực hiện - nói thế nào nhỉ - dưới sự bảo trợ của cá nhân mà không bị chính phủ can thiệp vào.”
“Đó không phải là vấn đề,” Harry nói, hy vọng mồ hôi đang rịn ra trên trán anh không nhìn thấy được. “Vấn đề là thông tin của ông có giá trị như thế nào đối với tôi.”
“Vậy anh đang định đề nghị điều gì, Spiuni[4]?”
“Điều mà tôi định đề nghị,” Harry nói, cầm cả hai quân vua trong một bàn tay, “là một sự thỏa hiệp. Ông cho tôi biết Kẻ Hành quyết là ai thì tôi sẽ kiếm được chứng cứ chống lại cái gã đã lấy mạng Anna.”
Raskol cười khùng khục. “Thì ra là vậy. Giờ thì anh đi được rồi đấy, Spiuni.”
“Hãy suy nghĩ về chuyện đó, Raskol.”
“Không cần thiết đâu. Tôi tin những người săn lùng tiền bạc; tôi không tin những người hùng thập tự chinh.”
Cả hai nhìn nhau từ đầu đến chân. Cái đèn tuýp kêu rẹt rẹt. Harry gật đầu, đặt hai quân cờ trở lại chỗ cũ rồi đứng dậy, đi ra cửa và đập mạnh. “Hẳn là ông quý Anna lắm,” anh nói trong lúc quay lưng về phía Raskol. “Căn hộ ở Sorgenfrigata đứng tên ông, mà tôi biết rất rõ Anna túng quẫn đến mức nào.”
“Vậy sao?”
“Vì đó là căn hộ của ông, tôi đã yêu cầu ban quản lý nhà gửi chìa khóa tới cho ông. Trong ngày hôm nay sẽ có người đưa thư mang tới cho ông. Tôi gợi ý là ông nên so sánh nó với cái chìa mà tôi đưa cho ông.”
“Vì sao?”
“Có ba chìa khóa mở căn hộ của Anna. Anna giữ một cái, người thợ điện giữ cái thứ hai. Cái này tôi tìm thấy trong căn nhà gỗ của người đàn ông mà tôi vừa kể với anh. Trong ngăn kéo của bàn đầu giường. Đó là cái chìa thứ ba và cũng là cái chìa cuối cùng. Cái chìa duy nhất có thể đã được sử dụng nếu đúng là Anna bị giết.”
Họ nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa phòng.
“Và nếu điều này khiến ông tin tưởng tôi hơn,” Harry nói, “thì tôi chỉ đang cố gắng cứu chính mình thôi.”