Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Chương 21 - Vào Trong Lò Sưởi
D
ức vua xoay một cái tay quay, và cái vỉ trong lò sưởi rẽ làm đôi, để lộ một miệng hang tối mò nghi ngút khói.
“Không!” Tom tru tréo. “Xin đừng bỏ thần vào đó! Thần xin lỗi! Thần xin lỗi! Thần sẽ không bao giờ chạm vào vàng của Bệ hạ nữa. Xin đưa hạ thần trở lại nhà bếp! Bà Martha cần thần để vắt sữa bò!”
“Ồ, nhưng nếu bọn mi thích vàng, bọn mi sẽ muốn ở dưới này lắm đó.” Đức vua lấy một quả trứng vàng khỏi áo bào và thả nó vào trong cái hố.
Từ đáy hố vang lên những tiếng thình thịch, răng rắc và âm thanh gì đó nghe như tiếng vọng của nhiều giọng nói.
“Giờ đến lượt bọn mi,” Vua Barf nói. Đức vua đặt chúng tôi lên một bệ gỗ treo lơ lửng trên miệng hang, buộc dây thừng ở hai bên. Lão lại xoay tay quay, ròng chúng tôi xuống dưới. Ánh sáng ban ngày bị thế chỗ bởi ánh lửa bập bùng, càng xuống sâu bầu không khí càng trở nên ấm nóng.
“Ôi không,” Tom nói. “Ôi không, ôi không, ôi không! Lão định quay chín chúng ta! Lão sẽ ăn thịt hai đứa mình!”
Khi chúng tôi chỉ còn cách đáy nửa mét, Đức vua giữ lấy sợi dây thừng và lắc nó dữ dội. Tom và tôi đều văng khỏi cái bệ.
Tôi cố xua tan cơn váng vất, và cảm nhận cái nóng như thiêu như đốt. Những lưỡi lửa đỏ nóng rừng rực khè ra ngay bên cạnh đầu tôi. “Ối ối, ái ái... NÓNG!” Tôi lăn lê bò toài tránh khỏi chỗ đó, nhưng ở đâu cũng là lửa. Lửa bao vây khắp ba bề bốn bên. Tom ngồi co rúm, đầu kẹp chặt giữa hai gối, đu đưa qua lại.
“Cẩn thận đấy,” một giọng nói cất lên. Tôi ngước lên nhìn thấy một người đàn ông, không phải một gã khổng lồ. Ông ta có một bộ ria xám xịt, gương mặt phủ đầy muội than và bồ hóng. Ông chộp lấy cổ áo của tôi và Tom rồi kéo hai đứa khỏi những ngọn lửa. “Các cậu không muốn bị cháy thành than đấy chứ?”
Tom chạy ngược trở lại cái bệ gỗ và cố gắng trèo lên một sợi dây thừng, nhưng ngay khi chạm phải sợi dây cậu ta la lên oai oái. Sợi thừng được gia cố đầy gai nhọn.
“Không thể trèo khỏi đây đâu, cậu bé,” người đàn ông nói. “Chẳng có đường thoát nào hết.”
Chúng tôi đang ở trong một hầm ngục khổng lồ, rộng ngang ngửa nhà bếp hoàng cung. Khi cú sốc dần lắng xuống, tôi nhận ra rằng ngọn lửa chúng tôi vừa đáp xuống bên cạnh thực chất là những miệng lò bên trong. Một người đàn ông khác đang dỡ một chiếc nồi khỏi một trong mấy cái miệng lò. Ông ta rót một thứ chất lỏng óng ánh từ trong nồi vào cái khay rộng nông lòng, sau đó nhúng cái nồi vào một thùng nước. Một đám hơi trắng xóa phả lên, khiến ông ta biến mất mấy giây.
Ở giữa hầm ngục là một đống trứng vàng chất cao như núi. Mọi người đang leo lên đỉnh nom như một đàn kiến bò trên một ngọn đồi đường cát. Ai cũng cầm theo rìu hoặc đục, gõ gõ bổ bổ vào đám trứng như những người thợ mỏ. Xung quanh núi trứng là một dãy lều lán ổ chuột, được vá víu qua quýt tạm bợ với nhau bằng những tấm ván gãy, cành khô và giẻ bẩn. Thật là một cảnh tượng ảm đạm.
“Bà Martha có ở đây không?” Tom hỏi. Nó hẳn vẫn nghĩ chúng tôi đang ở trong một căn phòng phụ nào đó của nhà bếp. Thằng bé cứ ngoái nhìn quanh quất như thể bà Martha có thể sà xuống bất kỳ lúc nào và bón nó ăn pho-mát như một con chuột nhỏ.
“Khó có thể nói rằng ta biết,” người đàn ông nói. “Không có nhiều phụ nữ ở dưới này.”
“Thế còn Henry thì sao ạ?”, tôi hỏi. “Đó là bố cháu. Ông ấy có thể vừa tới đây ngày hôm nay, thậm chí chỉ vài giờ trước.”
“Ta không thông thạo tên tuổi lắm. Mà ở dưới này thì quá đông.”
Tôi nhìn những người đàn ông đang làm việc. “Họ đang làm gì thế ạ?”, tôi hỏi.
“Chúng ta, những người tí hon bị giam trong hầm ngục, phải chịu trách nhiệm biến vàng của Đức vua thành những đồng tiền xu,” người đàn ông đáp. “Đó là hình phạt dành cho tội trộm cắp. Lão ta sẽ bắt anh trả lại gấp hàng trăm lần những gì anh đã lấy.”
“Ông đã ăn cắp vàng của Đức vua ư?”, tôi hỏi.
“Hiển nhiên là ta đã thử,” người đàn ông nói. “Ta cứ ngỡ việc đó dễ như trở bàn tay, vì Đức vua có hàng núi của cải, nhưng lão yêu quái đó có thể đánh hơi được mùi một tên kẻ trộm cách xa hàng dặm. Ta không cần kể chi tiết cho các cậu nữa, vì các cậu đã ở đây rồi. Ta đồ rằng tất cả chúng ta rốt cuộc đã có được những gì mình muốn. Nhiều vàng hơn bất cứ những gì chúng ta trông đợi ăn trộm được.” Ông ta phá lên cười chua chát và quay trở lại làm việc.
Tôi ngước lên nhìn nơi Vua Barf đã hạ chúng tôi xuống qua cái lỗ. Chỉ có một vài dải ánh sáng
len xuống qua cái vỉ trong lò sưởi, ngoài ra, cái hầm này rất tối tăm. Những bức vách bám dày bụi, cao chót vót và trơn nhẵn, hoàn toàn không thích hợp cho việc leo trèo. Chúng tôi đã bị giam cầm thật sự và tuyệt đối.
o O o
Tôi tìm bố ở khắp mọi nơi. Việc này không hề đơn giản. Trước hết, ngục tù rất nguy hiểm với công cuộc sục sạo, giữa những miệng lò đỏ lửa và những thùng đựng vàng nóng rẫy, với cuốc chim, búa và đục bổ xuống chan chát ở khắp mọi nơi. Thứ hai, ai nom cũng hệt như nhau - ám đen, mệt lử và khốn khổ. Nhưng niềm hy vọng vẫn giúp tôi cố gắng. Bố phải có ở đây.
“Tớ muốn quay lại với bà Martha,” Tom nói, ngồi thụp xuống dựa vào một quả trứng.
“Chúng ta sẽ tìm được lối thoát,” tôi nói. “Tớ đã từng rơi vào trong nhiều hoàn cảnh còn tệ hơn nhiều.”
“Thật sao? Cậu nghĩ chúng ta sẽ trèo được khỏi nơi này ư?” Giọng Tom đầy cay đắng. “Cậu nghĩ tất cả những người này ở đây bởi vì họ muốn hay sao?”
“Chà, có thể sẽ mất chút thời gian, nhưng khi nào tớ tìm thấy Bb...”
Tom chế nhạo. “Bố cậu. Đi tìm bố cậu ngay từ đầu chính là nguyên nhân đẩy chúng ta tới chốn này! Nếu cậu nghe theo lời tớ, giờ chúng ta đã chẳng ở đây.”
“Tom, cậu không hi...”
“Không, chính cậu mới là đứa không hiểu. Chúng ta sống rất ổn ở trong nhà bếp cùng với bà Martha. Chúng ta có đủ thức ăn và trò vui mà chúng ta muốn.”
Tôi bắt đầu cảm thấy nóng mặt. “Tớ đâu có bắt cậu phải đi cùng tớ! Cậu nghĩ rằng chuyến đi này sẽ là một trong những chuyến phiêu lưu vĩ đại của cậu, giống như việc bị một con bò ăn vậy!”
“Đó chỉ là một con bò,” Tom nói. “Còn đây là nhà ngục. Đây là Vua Barf đấy. Cậu nghĩ cậu có thể đánh bại một người khổng lồ ư? Không đâu. Cậu quá nhỏ bé. Cậu sẽ không bao giờ tìm được bố cậu, và chúng ta cũng chẳng thể nào rời được khỏi đây đâu.” Mắt nó mọng nước long lanh.
Tôi không biết mình đang muốn đấm nó hay òa khóc theo nó nữa, nhưng tôi chẳng có cơ hội làm cả hai việc đó, bởi vì một người đàn ông đã bước lên phía trước, rìu cầm trong tay.
“Hai đứa chúng bay phải làm việc nếu muốn có cái bỏ vào mồm,” ông ta nói. “Kiếm một cái xe cút kít và bắt đầu đi thu thập vàng mau. Đem nó tới chỗ mấy ngọn lửa.”
Tom quay lưng về phía tôi và làm theo lời người đàn ông. Nó vớ lấy một cái xe cút kít và bắt đầu ném từng cục vàng vào trong, như thể muốn đập tan chúng thành hàng ngàn mảnh vụn.
Tôi cứ nhìn trân trân vào lưng nó. Tôi cảm thấy một cục cứng ngắc chặn ngang cổ họng, suýt nữa làm tôi mắc nghẹn.
Cậu không thể đánh bại bọn khổng lồ.
Cậu không bao giờ tìm được bố.
Cậu không bao giờ thoát khỏi đây.
“Tốt hơn hết là làm việc đi, cậu bé,” người đàn ông cảnh cáo. “Ở đây không ai đối xử tử tế với bọn trốn việc đâu. Chúng ta sẽ không có thức ăn cho đến khi Đức vua nhận được vàng của lão.”
o O o
Tôi cầm lấy càng một chiếc xe cũ rích lung lay như răng bà lão và lơ đãng gom lại từng mảnh vàng, nhưng trên thực tế vẫn lơ láo tìm kiếm bố. Mấy lần tôi cứ ngỡ như đã nhìn thấy bố trên núi trứng, rồi ở cạnh một cái lò, và rồi đang đẩy xe cút kít như tôi. Bố ở mọi nơi, nhưng lại chẳng ở nơi nào cả.
Hầm ngục nóng hừng hực. Chẳng mấy chốc người tôi đã ướt sũng mồ hôi, và cổ họng thì như thể vừa nuốt mấy viên than hồng, khô rang và nóng bỏng. Thứ nước duy nhất để uống chính là vại nước dùng làm nguội vàng, nên nó không những ấm sực mà còn có cái vị kim loại cứ bám dai dẳng mãi nơi đầu lưỡi. Nó chẳng hề giúp tôi tỉnh táo hơn, và tôi bắt đầu thấy đói meo. Bao giờ mới có thức ăn đây?
Ước gì đống trứng này là thật. Chà, xét về mặt nào đó nó là thật còn gì. Nó chui ra từ bụng một con gà thật. Chỉ có điều nó bằng vàng thôi. Nhưng bao nhiêu thức ăn cũng bằng vàng còn gì. Lúa mì. Bánh mì. Bánh nướng. Lê. Đào. Vàng có thể trở thành thức ăn rất ngon. Vua Barf ăn nó.
Tôi nhấc một miếng vàng. Nó nhẵn mịn và mềm mại như một ổ bánh mì tròn. Ngon quá. Tôi mở miệng toan cắn một miếng.
“Chậc, chậc, con trai. Nếu ta là cậu, ta sẽ không làm thế đâu,” một người đàn ông nói. Tôi thả rơi miếng vàng và nhìn quanh quất.
“Cháu không muốn... Cháu không định...,” tôi lắp bắp.
Người đàn ông phá lên cười. “Đừng lo. Chúng ta đều đã từng có lúc cố thử ăn nó, nhưng luôn kết thúc với một mảnh răng gãy, hoặc một cơn đau bụng rất, rất tệ hại.”
Tôi quan sát người đàn ông chăm chú hơn. Ông ta nom quen quen. Ông ta cao, gầy, hói đầu, ngoại trừ gương mặt bẩn thỉu râu xồm xoàm và một bộ ria uốn cong. “Cháu có biết ông không ạ?”, tôi hỏi.
“Đương nhiên, đương nhiên,” ông ta đáp. “Chúng ta vừa quen nhau ở đây xong, đúng không?” Hàng ria của ông ta nhúc nhích và động đậy nom như đôi râu bướm.
“Bác thợ bánh Baker?” Đôi mắt ông ta mở lớn. Phải, chính là ông ấy rồi! Và kia là tiệm bánh của ông ta! Chỉ có vài chỗ rạn nứt và móp méo, nhưng chính là cái tiệm bánh đã từng đứng sừng sững giữa làng, ắp đầy bánh nướng và bánh mì tròn dinh dính. Tôi có thể đánh đổi mọi thứ lấy một ổ bánh mì Nutty-Nutty lúc này.
“Ta có quen cậu không?” Thợ bánh Baker hỏi.
“Cháu là Jack. Cháu sống trong một nông trại gần tiệm bánh của bác.”
“Jack...” Ông ta xoắn xoắn bộ ria. “À, ừ, ta nhớ ra rồi. Thằng bé quậy phá. Nhà cháu vẫn giữ được trang trại chứ?”
“Không hẳn ạ. Ý cháu là ngôi nhà thì vẫn còn, cả một phần trang trại nữa, nhưng bọn khổng lồ đã cướp hết những thứ còn lại.”
“Ta vẫn giữ được tiệm bánh, nhưng sẽ chẳng bao giờ nướng bánh mì được nữa. Chỉ có vàng.” Ông thở dài đánh sượt. “Vàng, vàng, vàng.”
“Bác có nhìn thấy bố cháu không ạ?”, tôi hỏi.
“Bố cháu ư?”
“Henry. Bố cháu vẫn bán lúa mì cho bác đấy.” Tôi những mong rằng thông tin này có thể giúp khơi gợi trí nhớ của ông ta, nhưng ông chỉ xoắn xoắn bộ ria thêm một lúc nữa, vẻ mặt ngơ ngẩn. “Henry... anh ấy có thể ở đây, nhưng ta không rõ lắm. Chẳng có nhiều thời gian thăm viếng ai ở cái nhà ngục tối tăm ảm đạm này. Tất cả những gì chúng ta biết chỉ là lao lực, lao lực và lao lực. Ai quan tâm tới một Henry, một Jack hay...”
“...hay một ông thợ bánh Baker, phải không ạ?” tôi hỏi.
“Đúng, đúng, chính xác. Ai quan tâm đâu. Chúng ta đều kẹt ở đây, bị nướng chín như bánh mì.” Thợ bánh Baker đưa một cái nồi nấu vàng vào trong cái lò ông từng dùng để nướng bánh mì. Bức tường trước nhà ông đã bị phá tan, nên ông không cần phải đi vào bên trong. Tôi đoán rằng dù sao thì ở chốn này, cũng chẳng còn khái niệm “bên trong” hay “bên ngoài” nữa. Chỉ đơn giản là mắc kẹt.
Chúng tôi nghe thấy tiếng hô hào phía trên con đường và quay lại nhìn.
“Đun chảy! Đun chảy! Đun chảy!”, ai đó ngân nga bằng giọng oang oang. “Hãy giữ lò đỏ lửa, hỡi những anh bạn trẻ! Chặt! Chặt! Chặt vụn những quả trứng đó ra! Tiếp tục tạo ra vàng đi! Hãy tiến lên, những chiến binh! Chớ có làm chậm tiến độ! Chúng ta phải đẩy nhanh công việc!”
Giữa tất cả mọi người, đó chính là ngài Bluberys. Bộ giáp sắt hen rỉ của ông ta ám đen bồ hóng, và con la thì nhìn mệt mỏi và lưng võng xuống hơn bao giờ hết. Ông ta đang lê bước dọc theo những lối mòn đi qua khu cắm trại, hò hét mệnh lệnh và những lời động viên.
“Tốt lắm! Giờ nhanh hơn rồi đó. Thêm nhiên liệu vào đống lửa!”
Mọi người cau mày lúc ông ta đi qua.
“Lão ngốc!” Ông thợ bánh Baker lầm bầm. “Cứ nghĩ mình là Chúa Ngục cơ đấy. Diễu qua diễu lại trên con la ngu xuẩn đó, chỉ đạo mọi người làm việc trong khi mình chẳng thèm nhấc một ngón tay, ngoại trừ lúc ăn.”
“Khi nào thì ăn ạ?”, tôi hỏi.
“Sớm thôi, ta mong vậy. Chúng ta đã làm việc rất năng suất ngày hôm nay. Đức vua sẽ quẳng lương thực xuống khi lão ta tới đây để thu vàng.”
Ông thợ bánh Baker lôi cái nồi đun vàng ra và đổ nó vào một trong những chiếc khuôn.
Tôi ngước nhìn lên trần hầm ngục. Nó đã tối om, không còn tia sáng nào lọt qua vỉ lò nữa. Mọi người bắt đầu ngơi tay làm việc. Họ dừng việc bổ trứng. Vài ngọn lửa đã bị dập tắt. Những đồng xu vàng được lăn lại và xếp thành từng chồng cao như những ngọn tháp trên cái bệ. Mọi người ngước lên nhìn đầy mong ngóng, chờ đợi lương thực được thả xuống. Tôi hình dung những trái dưa, những trái quả mọng rơi xuống như mưa. Tôi sẽ nếm chúng thật lâu trên đầu lưỡi.
Tôi nhìn thấy Tom, nhưng nó tránh ánh mắt tôi. Nó đứng cùng với một thằng bé nom như đã ở đây từ rất lâu rồi. Thằng bé ấy gầy trơ xương, quần áo rách nát dính đầy muội than, và đôi mắt đặc biệt vô hồn. Liệu đó có phải là số phận đã được định đoạt từ trước cho tôi và Tom đó chăng?
Hầm ngục trở nên lặng phắc trong hy vọng. Cổ tôi ngỏng lên mãi đến phát đau. Dạ dày thì sôi réo ùng ục. Và rồi.
Ầm, ầm, ẦM!
Cả cái hang động rung lên. Những cái tháp xu va vào nhau lanh canh. Vỉ lò cót két hé mở.
“Vàng của Người, tâu Kim thượng!”, một người tí hon kêu lên, và Đức vua quay xoay cái tay quay để nâng cái bệ chất đầy xu vàng lên trên.
Tôi tự hỏi liệu mình có thể trèo lên cái bệ và lẻn trốn ra ngoài bằng cách nấp trong đống vàng hay không. Tôi đoán rằng Tom cũng cùng chung ý tưởng, bởi vì nó dợm bước lên phía trước, nhưng người bạn mới đã kịp lôi nó lại và thì thầm điều gì đó vào tai nó. Mặt Tom biến sắc. Tôi đoán rằng đó không phải là một ý tưởng hay ho. Có lẽ nó đã từng được thử trước đây mà không đem lại thành công.
Chúng tôi tiếp tục đứng yên trong im lặng và lắng nghe Đức vua kiểm tra chỗ vàng. Lão đếm những đồng xu, hít ngửi chúng, và thủ thỉ tâm tình với chúng. Nó gợi nhắc cho tôi về hình ảnh cô Lettie thì thầm hát ru những cây bắp cải.
“Ừ đúng rồi, chẳng phải mi là một đồng xu xinh đẹp hay sao? Ồ, mi có một cái chấm kìa, trẫm sẽ đánh cho mi sáng bóng như mới. Đẹp đẽ, đáng yêu, hoàn hảo. Của trẫm, của trẫm, của trẫm.”
Cuối cùng Đức vua ôm một cái bao đến bên trên miệng hố. Cả hầm ngục đồng thanh thở phào.
“Nó đang đến, nó đang đến,” ông thợ bánh Baker nói, và dạ dày ông ta réo lên ùng ục. Cũng hai lần.
“Phần thưởng của bọn mi đây, bớ bọn người tí hon,” Đức vua nói. Lão dốc toàn bộ những thứ trong bao xuống rào rào như mưa. Một cơn mưa nho, táo, pho-mát, những khoanh bánh mì, từng lát khoai tây và hành. Tất cả mọi người đều lao vào tranh cướp thức ăn, tham lam và hung bạo như những con sói đói.
Tôi chộp được một khúc bánh mì, một củ hành và nhét vội chúng vào trong túi. Tôi vớ được cả một mẩu pho-mát vừa rơi xuống, nhưng sau đó, mỗi lần tôi cố vồ lấy thức gì đó, lại có người giật phắt nó khỏi tay tôi. Hai người đàn ông đánh nhau vì một củ khoai tây. Một nhóm khác đang cãi cọ giành nhau một tảng pho-mát, mỗi người đặt tay xí một góc. Tôi bắt gặp cảnh Tom và cậu bạn mới của nó tọng hết thức ăn vào miệng ngay sau khi nhặt được. Bạn không cần choảng nhau để tranh giành thức ăn nữa nếu nó đã bị chén hết.
Khi chỗ lương thực đã vơi đi gần hết, tôi phát hiện một quả táo trên nền đất, đỏ au và căng bóng. Dường như không ai nhận ra nó. Nhanh như một con thỏ rừng, tôi lao tới và va phải một thân người khác. Chúng tôi lăn đè lên nhau, cả hai đều vươn người cố tóm quả táo, nhưng nó cứ lăn ra ngoài tầm với mỗi khi chúng tôi vật lộn. Ngay khi tôi nghĩ rằng mình đã chộp được nó, người đàn ông khóa chặt hai cánh tay tôi ra đằng sau, nhưng tôi quyết không thua cuộc chiến này. Quả táo lăn về phía tôi, vì vậy tôi há miệng thật to và ngoạm hai hàm răng ngập vào nó.
Người đàn ông cười phá lên và thả tôi ra. “Chà, đến nước này thì tôi đoán rằng cậu chiến thắng rồi đó,” ông ta nói, giúp tôi đứng dậy. “Cậu biết đấy, cậu gợi cho tôi nhớ đến...”
Người đàn ông im bặt. Tôi ngước nhìn ông và quả táo rơi khỏi miệng, nảy lên rồi lăn lông lốc trong đám bụi. Chỉ hai giây sau, một người khác tới và nhặt nó lên khỏi mặt đất, nhưng tôi vẫn không di chuyển. Tôi chỉ trân trối nhìn vào người đàn ông đứng ngay trước mặt mình. Ông gầy nhom, bẩn thỉu, mái tóc dài rối bù, và một bộ râu xám xịt che phủ gần nửa gương mặt ông. Nhưng đôi mắt ấy vẫn y nguyên như cũ, màu nâu và ấm áp, giống như màu của đất đai màu mỡ phơi mình dưới ánh nắng mặt trời.
“Bố,” tôi thì thầm.
“Jack,” người đàn ông thì thầm.
“Bố,” tôi kêu lên.
“Jack,” người đàn ông kêu lên.
Chính là bố. Đó chính là bố! Bố dang rộng vòng tay đón tôi vào lòng. Hai bố con tôi lăn tròn trên mặt đất, vừa lăn vừa cười phá lên, và có lẽ còn khóc thêm một chút nữa.