"We will be more successful in all our endeavors if we can let go of the habit of running all the time, and take little pauses to relax and re-center ourselves. And we'll also have a lot more joy in living.",

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 20
Cập nhật: 2020-10-08 21:15:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21
hân việc vua Anh Tông đang vui, Phạm Ngũ Lão vào triều tâu:
- Muôn tâu Thánh thượng! Hiện giờ nhà Nguyên ở phía Bắc đã suy. Chiêm Thành ở phía Nam đã quy phục. Ai Lao ở phía tây cũng không dám quấy rối gì. Thần giờ đã ở tuổi 60, chinh chiến nhiều năm nên muốn về nghỉ ngơi an hưởng tuổi già. Mong được Thánh thượng chuẩn tấu.
Vua Anh Tông đáp:
- Nước Triệu thời chiến quốc chỉ bé bằng cái kẹo mà có Liêm Pha tuổi đã 80 mươi mà ngày vẫn ăn hết ba bốn cân thịt[6], uống hết mấy vò rượu. Tay vẫn giương nổi cung hai tạ khiến cho nước Tần ở phía Tây bắc phải e dè. Nước Tề, nước Ngụy phải khiếp sợ. Điện súy nay mới bước vào tuổi lục tuần sao đã gọi là già được.
- Muôn tâu Thánh thượng, Liêm Pha không phải như thần. Thường xuyên được ở nhà. Chỉ khi nào nhà nước có việc, vua Triệu mới cho người đến gọi. Còn thần phải túc trực suốt ngày đêm nên cảm thấy rất mệt mỏi. Nếu được như Liêm Pha khi nào có giặc giã, Thánh thượng cho gọi, thần xin sẵn sàng đến ngay. - Phạm Ngũ Lão tâu tiếp.
- Thôi được rồi! - Vua Anh Tông tỏ ra dễ dãi. - Chức Điện súy Thượng tướng quân với con triện có đầu hổ, tướng quân cứ giữ. Lúc nào trẫm có việc sẽ cho người vời tướng quân vào. Lúc đó chỉ mong tướng quân đừng “kêu mệt”!
- Đa tạ ân sủng của Thánh thượng! - Phạm Ngũ Lão đáp - Thần từ thuở tiên đế, có từ nan việc gì đâu!
Về nhà nói với vợ là quận chúa An Nguyên và con là Phạm Ngộ, lúc này đã làm quan văn trong triều, rồi chuẩn bị hành trang lên đường. Với chiếc tay nải vắt vai, bên trong có mấy bộ quần áo nâu thay đổi, một chai rượu mạnh, một đống bạc trắng và mấy củ gừng già (ba thứ này dự phòng làm thuốc đánh gió cho những người đi giang hồ có kinh nghiệm). Phạm Ngũ Lão đóng vai người “mãi võ” bán “thuốc cao đan hoàn tán”. Ông cuốc bộ vào phía nam, về vùng Hoan - Ái. Ngày đi, đêm nghỉ. Tới các thị trấn có đông người thì ghé lại dăm ba hôm. Chỗ nào có tổ chức thi đấu võ thuật thì ở lại lâu hơn. Hy vọng tìm được “truyền nhân” như lời sư phụ trăng trối lại. Ông đã đi được vài ba tháng, dừng lại ở rất nhiều nơi, cũng gặp không ít phiền toái, cảnh bất công “trướng tai gai mắt” như ở một thị trấn miền tây Ái châu. Tại đây có một tên bá hộ, người to như trâu lăn, lập “lôi đài” thách mọi người thi đấu. Nghe nói hắn thường cậy có sức khỏe và tiền của để ức hiếp dân lành, đến quan huyện cũng phải kiềng mặt hắn. Ngũ Lão nghĩ: “phải dạy cho hắn một bài học”. Hai chân vừa xuống tấn thì không hiểu là ván võ đài dùng lâu nên ải hay là sức của Ngũ Lão còn quá mạnh mà chân phải thụt xuống. Dăm gỗ làm tướp hết cả bắp chân, máu me túa ra. Lẽ ra tên bá hộ theo lẽ “thượng võ” phải dừng lại, thì nhân cơ hội đó, lại phóng thẳng một cú “song phi”, hai bàn chân nhằm thẳng vào giữa ngực Ngũ Lão. Như người khác, chắc chắn là dính đòn đến tàn phế: ngực dập, chân mắc dưới sàn gãy. Nhưng chỉ đứng có một chân, Ngũ Lão vẫn nhẹ nhàng thu hai bàn tay lại, chờ hai bàn chân hộ pháp phóng tới thì đẩy mạnh ra. Người gã bá hộ tung lên, lưng đập xuống võ đài đánh rầm một tiếng. Miệng thổ ra huyết.
Ngũ Lão rút bắp chân tướp máu lên, tiến lại nắm lấy tóc hắn mà đe:
- Tao tạm tha cái mạng chó cho mày! Nếu còn ức hiếp dân lành, lần sau quay lại, đừng trách ta không báo trước!
Rồi một buổi chiều, Phạm Ngũ Lão tới bên bờ sông Lam, ngồi trên bờ đê hóng mát, nhìn xuống phía bãi bồi thấy nương dâu xanh mát mắt. Biết là ở đây là vùng trù phú, dân cư làm ăn chăm chỉ và có quy củ, nề nếp. Lấp ló trong đám dâu Ngũ Lão thấy một người đàn ông trạc tuôi ngũ tuần đang cầm roi đồng chạy đuổi, đùa nghịch với một đứa trẻ mới độ mười một, người hai. Qua thân các cây dâu nhưng vẫn nhận ra cặp chân dài khỏe mạnh, nhanh nhẹn của đứa bé. Ngũ Lão thấy hay hay, liền lấy một hòn đất ném xuống, để làm quen với cả hai người. Ai dè, gã đàn ông nổi xung, chạy tới, chẳng nói chẳng rằng, vung cây roi đồng vụt thẳng vào vai Ngũ Lão. Ngũ Lão nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy. Gã vội tung chân đá vào ngực ông. Ngũ Lão lại cười, nắm lấy chân hắn, rồi giơ cả người hắn lên trời như nắm một con nhái. Đứa trẻ thấy thế thì chạy vào vườn dâu gọi mẹ:
- Mẹ! Mẹ ơi! Có ông Thiên lôi đang bắt nạt cậu Hai!
Người đàn bà tuổi đã lục tuần, nhưng tóc còn đen, người hơi đẫy nhưng gọn vội chạy tới. Lúc đó Ngũ Lão đã đặt người đàn ông mà thằng bé gọi là cậu hai xuống. Bốn mắt nhìn nhau. Cả hai cùng định “Há” miệng ra, rồi lại cùng đưa tay lên miệng, làm ám hiệu “im lặng”.
- Chị Cả, không ngờ chị lại ở đây! - Ngũ Lão lên tiếng trước.
- Chú! À… ông chú. Ông có việc gì mà đi đến nơi này.
- Ơ, mẹ quen ông ta à? - Đứa bé nhanh nhẹn hỏi.
- Không phải là quen!… Mà là họ hàng! Con phải gọi là ông đấy!
- Ông trẻ hơn mẹ, mà sao con phải gọi thế?
- Ông còn ít tuổi hơn mẹ… Nhưng ông thuộc chi trên. Mẹ thuộc chi dưới. Mẹ phải gọi ông là chú. Còn con phải gọi ông là ông chú. Nghe chưa!
Chị có một cơ ngơi thật rộng, với ba dãy nhà gỗ lim, cột lim, tường thưng gỗ lim dày, mái lợp ngói âm dương. Ở giữa là một sân gạch rộng mênh mông. Sàn nhà lát đá xẻ mầu hồng. Cậu Hai thấy chị Cả đón tiếp vị khách lạ hết sức cung kính thì cũng có vẻ sờ sợ, và không hiểu ra sao?
Buổi tối, sau bữa cơm rượu thịnh soạn, Ngũ Lão nói:
- Chị Cả à! Em… (chị vội đưa mắt) Ngũ lão chữa lại - ông chú thấy thằng cháu trán rộng, mắt sáng, mũi cao, miệng rộng, hàm vuông… Chân tay dài, nhanh nhẹn và cứng cáp… Có thể luyện võ được.
- Thế ông không thấy… cháu ông đang tập đánh roi đấy à?
- Ông họ đã xem rồi! Các bài roi của cậu Hai chỉ để bắt bọn trộm trâu, trộm chó được thôi! Chứ còn muốn có võ công để cứu được nước, giúp được dân thì phải tìm thầy khác… Tập theo cách khác. Bên cạnh luyện võ, còn phải học văn nữa…
- Úi trời ơi! Ở cái vùng bán sơn địa này thì lấy đâu ra thầy… thượng thặng để dạy cho nó… Hay là chú… À, ông chú… Chị định bảo “chú đưa nó về kinh đô”, nhưng đã vội chữa lại - tìm xem có ai… thì mời giúp. Có bán cả gia sản cho… cháu luyện văn, luyện võ thành tài… tôi cũng sẵn lòng.
- Thôi được rồi, bắt đầu từ ngày mai… ông chú họ sẽ thử tập cùng với cháu xem sao?
Rồi hai người chụm đầu thì thầm… ông chú họ là người “mãi võ bán thuốc cao”. Họ Mã tên Phu Hùng. Còn chị là chị Cả. Cậu em là cậu Hai. Cháu bé có tên tuổi rất kêu; Họ Lưu, tên Trọng Nhân. Rồi chị thì thầm kể cho Ngũ Lão, từ ngày bỏ làng ra đi, thấm thoắt đã được mười năm. Vào đây nhờ có dấn, có vốn lại biết căn cơ làm ăn nên chả mấy chốc chị trở thành giầu có nhất vùng. Ruộng có vài trăm mẫu. Đồi rừng, thì bạt ngàn. Trâu bò hàng trăm con. Người ăn, kẻ ở cũng có đến dăm bảy chục. Lại được cái Hoàng Lương trung thành, tận tụy hết mức…
Rồi chị hỏi về làng xóm thế nào? Ngũ Lão đáp vẫn như xưa.
- Nhiều lúc muốn đánh liều ra thăm một chuyến - Chị nói - Nhưng rồi lại sợ… lộ chuyện ra… Người ta vào bắt mất Trọng Nhân… nên lại thôi.
- Ông ta (chỉ Nhân Huệ vương) vẫn còn cường tráng lắm! - Của cải thì vào loại giầu nhất nước. Tính khí kiêu căng… có lúc dám coi vua… chả ra gì. Ngũ Lão thì thầm kể.
- Thôi! Tránh voi chẳng xấu mặt nào!… Bây giờ có… ông chú họ vào đây… thì cũng thấy ấm áp hơn rồi.
- Ông chú họ… một năm chỉ ghé qua đây vài lần. Mỗi lần khoảng trên dưới một tháng. Ông còn việc triều đình… Và các việc khác nữa… Về học chữ. Chị Cả ra phố huyện tìm thầy, mời về tận nhà mới được. Đất Hoan Châu là đất võ. Song cũng là đất văn, có nhiều thầy đồ rất giỏi.
Từ hôm sau, Trọng Nhân gọi “ông chú họ” là sư phụ và xưng con. Việc luyện tập thì cũng giống như ngày xưa sư cụ rèn Ngũ Lão. Đầu tiên là tập nội công. Một vườn chuối lớn được trồng. Đất đồi thì tha hồ chỗ nào cũng có để tập đá. Buổi sáng sư phụ bắt Trọng Nhân dậy từ cuối giờ dần (khoảng bốn giờ sáng), bắt xuống sông gánh năm chục gánh nước lên tưới cây. Một hôm trời mưa, đường trơn, Trọng Nhân bị trượt chân ngã lăn lông lốc từ sườn đồi xuống sát mép sông. Chị Cả xót con khóc sưng cả mắt và có ý trách sư phụ sao lại phải “hành xác” đệ tử cực nhọc đến như vậy. Sư phụ cho gọi Trọng Nhân vào, ba mặt một lời, Sư phụ hỏi:
- Con có muốn tập võ nữa hay không?
- Dạ, thưa sư phụ… Dù gian khổ thế nào con cũng xin cố ạ!
- Nhưng mẹ con thấy vất vả quá… Muốn con thôi. Nếu con nghe mẹ. Sư phụ thu xếp đi ngay!
- Thưa mẹ - Trọng Nhân quỳ dưới chân chị Cả nói - Nếu mẹ bắt con nghỉ… con sẽ bỏ nhà đi theo sư phụ!
- Thưa sư phụ. - Chị Cả hỏi Ngũ Lão - Không có cách nào “học tắt” được à?
- Võ thuật, nếu không học đến nơi đến chốn thì thà không học còn hơn - Sư phụ giảng giải - Biết theo kiểu… - Ngũ Lão định nói đến trường hợp của cha Trọng Nhân. - Nhưng sợ động vào nỗi đau của chị Cả nên kịp dừng lại… - mấy tay mãi võ ngoài đường, ngoài chợ… dễ chết oan lắm.
Trọng Nhân có tố chất của người học võ thuật, lại ham luyện tập nên tiến bộ rất nhanh. Chị cả mừng ra mặt. Một hôm nhờ người vào tận thành Hoan Châu mời thầy đồ họ Nguyễn, một họ có danh tiếng về chữ nghĩa về làm gia sư cho con. Ông thầy đồ vào phòng Ngũ Lão thấy sư phụ chỉ chuyên tâm đọc sách, ngâm thơ thì rất lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Dạ! Tôi hỏi khí không phải. Sư phụ có phải dòng dõi Phục ba tướng quân Mã Viện không ạ!
- Họ Mã nhà Phục ba là họ trâu ngựa. Còn họ Mã nhà tôi là họ Mã thượng. Không có dây mơ rễ má gì…
Buổi sáng trời rét như cắt thịt, trò thì gánh nước từ dưới sông lên, còn sư phụ thì đi quyền để “giữ sức”. Vị gia sư thấy sư phụ tay đấm, chân đá cứ nhẹ như không mà tiếng gió toát ra thì lại mạnh mẽ vô cùng, biết là loại “cao thủ võ lâm”, sống mai danh ẩn tích.
Rồi thầy đồ mời sư phụ qua phòng mình uống trà. “Bình minh nhất trản trà” mà. Nói lòng vòng mấy chuyện, vị gia sư đặt thẳng vào việc:
- Tôi có đứa cháu ngoại, cũng ham mê võ nghệ lắm! Nhưng nhà nghèo… Vậy tôi đưa cháu sang đây! Tiền dạy học cho Trọng Nhân, xin gửi cho sư phụ. Không biết có được không?
Sư phụ cười sảng khoái nói:
- Thầy cứ cho cháu qua đây! Tôi chỉ nhìn qua và tập với cháu vài buổi là biết cháu có theo được nghiệp này hay không? Võ thuật… cũng là nghệ thuật. Không có năng khiếu, tài năng và lòng say mê thì cũng như văn chương… chả nên cơm nên cháo được đâu. Còn nếu cháu có thiên bẩm, thì dù nhà nghèo đến đâu, thầy không cần phải trả nửa xu, tôi cũng sẽ luyện cho cháu được… Vả lại ngoài giờ tập võ, học chữ… ở đây thiếu gì việc để các cháu nó làm… Tự kiếm cơm nuôi bản thân được.
Mấy ngày sau, cháu vị thầy đồ sang, tư chất không bằng Trọng Nhân. Nhưng nếu gặp thầy giỏi, chịu khó khổ luyện thì cũng có cơ thành tài được.
Năm sau lại có hai anh em nhà họ Lê, từ Ái Châu vào. Sư phụ thấy đây cũng là mầm non nhiều hứa hẹn, liền vui vẻ nhận ngay.
Qua năm 1314 vua Anh Tông nhường ngôi cho con là Minh Tông lên nối ngôi. Phạm Ngũ Lão nhờ thế mà càng có nhiều thời gian sống ở vùng Đô Lương - Hoan Châu hơn. Học trò nào mới đến Ngũ Lão cũng dạy bài phải khắc cốt, ghi tâm: “Học võ là để cứu nước, giúp dân”. Qua ba năm “lò võ” của sư phụ họ Mã đã có tới hơn hai chục võ sinh. Sư phụ chia ra từng nhóm vài ba người một. Lớp trước dạy lớp sau. Chỉ có các bài nâng cao thì sư phụ mới trực tiếp truyền thêm.
Sư phụ Mã bỏ tiền ra tậu ruộng, tậu đất đai, trâu bò. Các võ sinh tự canh tác nuôi thân, để mà luyện võ. Sư phụ còn nhờ Nguyễn tiên sinh mời ba thầy để đến dạy chữ cho các môn sinh. Tiền thù lao tất nhiên là thầy Mã chi trả tất. Không muốn “phô trương” nên sư phụ Mã cấm các học trò được tham gia các ngày hội võ thuật ở xung quanh, nhân dịp tết đến xuân về.
Thời gian cứ thấm thoắt trôi. Mới ngày nào sư phụ Mã đến đây Trọng Nhân mới mười một mà nay đã 16. Chị Cả lập tức hỏi vợ cho nó. Ngũ Lão khuyên nên chờ thêm hai ba năm nữa. Nhưng riêng việc này thì chị kiên quyết cho sư phụ “ra rìa”. Mười tháng sau, một cặp song sinh ra đời. Đứa nào cũng “chân tay dài, rộng cả”. Chị Cả mừng đến rơi nước mắt, đặt đứa ra trước là Khánh Trung, đứa ra sau là Khánh Đức.
Một lần Phạm Ngũ Lão có việc phải về kinh sáu tháng. Khi quay lại thấy Trọng Nhân chững chạc hơn nhiều. Trọng Nhân khoe, mới tự luyện được ngón phóng lao, bách phát bách trúng. Sư phụ hỏi nhờ đâu mà con nghĩ ra được “chiêu” này? Trọng Nhân thưa:
- Một lần theo đoàn thợ săn. Họ bẫy được một con gấu ngựa cực lớn. Chân nó đã dính bẫy rồi. Nhưng đám thợ vác giáo vào đâm, đều bị nó dùng hai tay trước đoạt hết. Con cũng cầm giáo lao vào. Nó đoạt được ngay. Con bèn lùi lại. Vớ một ngọn giáo, nhằm ức có chùm lông trắng của nó phóng tới. Chỉ một phát trúng ngay tim. Con gấu ngựa nặng tới hơn hai tạ gục xuống liền, về nhà con nghĩ. Địch ở sát thì dùng đao, ở xa thì dùng cung tên. Còn ở lưng chừng thì phóng lao là thượng sách. Thế là con luyện “chiêu” này. Giờ cách xa hai chục bước, con phóng “bách phát, bách trúng”.
- Con hơn sư phụ là phúc lớn cho nước nhà rồi! - Ngũ Lão ôm chầm lấy Trọng Nhân, nghẹn ngào, mừng rỡ nói.
Mùa xuân năm 1318, vua Chiêm là Chế Năng lại làm phản. Đánh phá vùng giáp ranh với Đại Việt. Đưa yêu sách đòi lại hai châu Ô và châu Rí. Vua Minh Tông sai Huệ Võ vương Quốc Chẩn đem tám vạn quân vào đánh dẹp. Chế Năng vốn là người nhanh nhẹn, văn võ song toàn. Quân Trần từ Thăng Long vào mỏi mệt, muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Chế Năng vờ thua. Quốc Chẩn thúc quân đuổi theo. Được ba mươi dặm, ba bề là núi, quân phục của Chiêm Thành đổ ra, từ trên đánh xuống, thế như chẻ tre, vây chặt quân Trần vào một thung lũng. Quốc Chẩn sai mười tráng sĩ đột phá vòng vây, chạy thoát được ra về Thăng Long xin cứu viện. Vua Minh Tông, nửa đêm cho gọi Phạm Ngộ vào cung, bảo Ngộ tìm bằng được Phạm Ngũ Lão về kinh sư ngay. Phạm Ngộ sai người đi ngựa trạm vào thẳng Đô Lương truyền lệnh của vua. Ngũ Lão ngay trong đêm, thu xếp đi thẳng tới thành Hoan Châu. Trọng Nhân xin đi theo. Mẹ Cả hai tay bế Khánh Trung và Khánh Đức ra, và hỏi:
- Các con có cho bố đi không?
Khánh Đức trả lời bằng cách dựng chim, đái vọt cần câu một bãi rất xa. Mẹ Cả cười lẫn nước mắt bảo:
- Nếu không có hai đứa bé này thì dẫu có kề gươm vào cổ tôi cũng không cho Trọng Nhân đi.
Thấy con lên ngựa, tay cầm đao, lưng gài năm ngọn lao, oai phong lẫm liệt, mặc dù mới qua tuổi mười bẩy được mấy ngày, mẹ Cả bảo:
- Vì nước, con hãy đi đi! Nhưng cả hai thầy trò nhớ bảo trọng.
Nửa đêm hai người đến thành Hoan Châu, đập cửa. Lính canh ra quát. Phạm Ngũ Lão đưa tên lính binh phù có đầu hổ bảo vào dựng quan tổng trấn dậy và đưa cái này ra. Viên quan tổng trấn đang ngủ với vợ bé nổi giận toan chém tên lính, nhưng khi trông thấy binh phù có đầu hổ thì vội vàng sai mở cửa thành mời hai người vào. Phạm ngũ Lão hỏi:
- Quân Triều đình đang bị quân Chiêm vây khốn ngươi có biết không?
- Dạ, bẩm Điện súy, bỉ chức làm sao mà biết được ạ!
- Vậy thì bây giờ ta báo! Ngươi hãy lập tức điều cho ta năm ngàn quân kỵ. Xuất phát ngay đêm nay.
- Dạ, chờ sáng mai… Thong thả bỉ chức sẽ điều binh cho Điện súy.
- Nếu còn chần chừ, ta lấy đầu ngươi bây giờ!
Ngay trong đêm Phạm Ngũ Lão dẫn năm ngàn quân kỵ thẳng tiến vào đất Chiêm. Ngũ Lão hỏi Trọng Nhân:
- Bây giờ con tính thế nào?
- Nhân lúc kẻ địch còn chưa biết có viện binh, ta cứ tung quân đánh thẳng vào. Trong đánh ra, ngoài đánh vào, chắc là giải vây cho Huệ Võ vương được!
- Kế đó mới là trung sách. Ta có cách này hay hơn. Đó là chịu khó, chịu khổ dẫn quân đi vòng qua đường núi. Rồi đánh tập hậu vào trại địch. Bị bất ngờ chắc chắn quân ta sẽ toàn thắng.
Nhưng Chế Năng là người có đảm lượng và cũng giỏi binh pháp nên khi thấy quân của Phạm Ngũ Lão bất ngờ đánh tập hậu đã đổi hậu quân thành tiền quân, sẵn sàng nghênh địch. Chế Năng cầm giáo dài thúc ngựa xông lên. Hai bên có bốn tướng cầm đinh ba và búa lớn kèm sát bảo vệ. Trọng Nhân thấy vậy rút cây lao ở sau lưng nhằm đúng giữa ngực tướng cầm búa lớn. Mũi lao xuyên thấu ngực khiến viên tướng này chết lăn dưới chân ngựa. Hăng máu Trọng Nhân rút mũi lao thứ hai. Ngũ Lão quát to:
- Đừng giết Chế Năng! Để ta bắt sống có lợi hơn.
Trọng Nhân phóng chết viên tướng cầm đinh ba.
Vừa lúc đó Ngũ Lão áp sát tới, vung đao chém, Chế Năng đưa giáo lên nghênh địch. Hai tướng còn lại vây đánh Trọng Nhân. Đánh được chừng hai chục hiệp, liếc thấy Trọng Nhân có phần núng giữa hai tướng giặc, Ngũ Lão bèn vờ lỡ đà để Chế Năng phóng giáo sang. Chỉ chờ có vậy, Ngũ Lão né qua một bên, thúc ngựa lên một nhịp, vươn tay cắp ngang người Chế Năng ném xuống đất. Lính Đại Việt kề đao vào cổ, rồi dùng dây chão trói chặt Chế Năng lại. Hai tướng đang vây Trọng Nhân thấy vậy, vội vàng bỏ chạy. Trọng Nhân phóng lao trúng vào lưng chết viên tướng thứ ba. Tên còn lại sợ hãi xuống ngựa xin hàng. Năm ngàn quân của Phạm Ngũ Lão đánh thốc vào giữa trại, chém giết tan hoang. Thấy kẻ địch rối loạn từ bên trong. Quốc Chẩn thúc quân đánh ra. Giặc bị giết vô kể. Hơn năm vạn quân bỏ giáo xin hàng. Thấy Ngũ Lão, Quốc Chẩn xuống ngựa, vái mà rằng:
- Điện súy là người trời hay sao mà sa được xuống giữa lòng trại địch.
Ngũ Lão chỉ vào Trọng Nhân cười đáp:
- Tất cả là nhờ có tài phóng lao của tiểu tướng này!
Trọng Nhân chín đỏ cả mặt vì sung sướng và vì ngượng.
- Sư phụ con nói đùa đó! Người mới thật là dùng binh như thần - Trọng Nhân nghiêm trang đáp.
Quốc Chẩn, Ngũ Lão và Trọng Nhân giải Chế Năng về Thăng Long. Qua thành Hoan Châu, Ngũ Lão trao trả năm ngàn quân kỵ, rồi nói với Trọng Nhân:
- Con thích lên kinh sư hay về nhà với mẹ.
Không chần chừ, Trọng Nhân đáp:
- Con muốn về nhà với mẹ ngay bây giờ!…
Vua Minh Tông ra tận cửa nam thành Thăng Long đón tiếp Ngũ Lão và Quốc Chẩn. Quốc Chẩn xuống ngựa, quỳ dưới xa giá tâu:
- Muôn tâu Thánh thượng! Chế Năng gian trá và hoạt binh hơn cha là Chế Chí nhiều. Không có Điện súy và một tiểu tướng là Trọng Nhân ứng cứu kịp thời thì Quốc Chẩn này không còn được thấy mặt rồng nữa.
- Tiểu tướng Trọng Nhân đâu? - Vua Minh Tông hỏi.
- Dạ! Muôn tâu Thánh thượng! Tiểu tướng mới 17, nhớ mẹ quá nên đã nằng nặc xin về nhà rồi! - Ngũ Lão tâu.
Vua Minh Tông đáp:
- Tuổi trẻ tài cao, hẳn là đệ tử ruột của Điện súy.
Rồi sai viết chiếu khen ngợi và ban thưởng cho Trọng Nhân một ngàn lượng vàng. Sai quân đưa vào Đô Lương ngay ngày hôm đó.
Ba tháng sau Phạm Ngũ Lão mới quay trở lại Đô Lương. Hoàng Lương ốm nặng, đang hấp hối. Ngũ Lão đến thăm tận giường. Hoàng Lương thều thào nói:
- Tôi có lỗi với Mã sư phụ. Khi sư phụ chưa tới, một tay tôi “tự tung tự tác” trong trang trại. Từ khi sư phụ tới vị trí đó của tôi không còn. Nhưng càng về sau, tôi càng thấy là mình sai. Được nói với sư phụ trước lúc nhắm mắt, xuôi tay… tôi thấy… lòng được thanh thản… nhiều, nhiều lắm!
Phạm Ngũ Lão an ủi:
- Trang trại có được như ngày hôm nay là nhờ chị Cả tháo vát, quyết đoán. Nhưng sự đóng góp của ngươi là không nhỏ. Phải nói là mười phần thì công của ngươi là ba, bốn…
Chị Cả lo cho đám tang của cậu Hai rất to. Bắt tất cả gia nhân trong nhà phải để trở…
Phạm Ngũ Lão bàn với chị Cả và Trọng Nhân:
- Bây giờ cháu đã trưởng thành rồi. Việc làm ăn trong trại chị Cả vẫn phải gánh vác. Riêng chuyện “lò võ” thì giao cháu đảm nhiệm. Một ngàn lượng vàng vua ban, nên để Trọng Nhân mua sắm ngựa nghẽo, binh khí, mua thêm vườn đồi để các đệ tử có phương tiện luyện tập và đất đai làm ăn… theo cách “mỡ nó rán nó”.
Chị Cả nghe thấy Ngũ Lão nói thế thì hơi chột dạ, bảo:
- Thế ông chú thì làm gì?
- Phải, mẹ con nói đúng đấy! Sư phụ định về kinh luôn à?
- Sư phụ đã già rồi… Năm nay sư phụ chưa về, thì sang năm sư phụ về… Còn những bí quyết võ công và cách dùng binh thế nào cho thần diệu mà sư phụ đã học được ở Quốc công Tiết chế, sư phụ sẽ phải gấp gáp truyền hết lại cho con. Vả lại… Chỉ qua một trận đánh vừa rồi con đã lớn lên rất nhiều. Bằng ba năm luyện tập ở nhà. Bắt đầu từ hôm nay, con phải quản lý “võ đường”. Từ cách tuyển sinh, chế độ tập luyện cho các lứa tuổi… đến việc ăn ở, học chữ nghĩa của họ… một tay con phải làm tất.
Mùa đông năm đó Phạm Ngũ Lão về quê ăn Tết ba tháng. Mãi tới đầu tháng Ba năm sau, Ngũ Lão mới quay vào. Người vẫn tráng kiện, nhưng dáng dấp đã có phần chậm chạp. Một tối Ngũ Lão gọi riêng Trọng Nhân vào buồng, người nằm trên sập gỗ, cầm tay đệ tử dặn mấy lời tâm huyết:
- Võ công của sư phụ là do tiền nhân để lại. Không phải của riêng sư phụ, mà là bảo vật của cả Đại Việt. Nay con đã tiếp nhận được hầu hết rồi, sư phụ có về với tổ tông cũng không phải hối tiếc gì. Phần con khi chọn người vào nối nghiệp, cái chính là phải chọn cái TÂM, rồi mới tới cái TÀI. Ai có TÂM có TÀI truyền hết cả cho người ta. Đừng giữ làm của “gia truyền” chỉ dành cho con cháu mình. Như con thấy đấy! Con của sư phụ là Phạm Ngộ, có TÂM nhưng không có tài nên sư phụ đã không truyền dạy cho nó. Ngày mai sư phụ muốn về kinh. Sư phụ muốn con dùng xe ngựa có giường nằm đích thân đưa sư phụ về. Thanh đao và cây cung cũng không phải là của gia bảo của gia đình sư phụ. Con hãy giữ lấy. Sau này ai có TÂM có TÀI thì con trao lại cho họ.
Hôm sau, Phạm Ngũ Lão chào tạm biệt chị Cả. Chị ngã lăn ra khóc từ nhà trên xuống nhà dưới. Xe đã lăn bánh rồi chị còn chạy theo níu lại…
Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt