Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 21 - Sự Chào Đón Của Ngài Asriel
L
yra cưỡi trên lưng một con gấu trẻ tuổi, còn Roger cưỡi trên lưng một con khác, trong khi Iorek bước không mệt mỏi phía trước và đội quân đi theo mang một chiếc máy ném lửa để bảo vệ phía sau.
Quãng đường rất dài và khó khăn. Vùng lãnh thổ của Svalbard là núi đá, với những mỏm núi và vách đá sắc nhọn bị cắt ngang bởi những hẻm núi và thung lũng sườn dốc đứng, với cái lạnh cắt da cắt thịt. Lyra nhớ lại những chiếc xe kéo êm ái của người Gypsy trên đường đến Bolvangar. So với bây giờ, cuộc hành trình đó sao nhanh chóng và thoải mái đến thế! Không khí ở đây lạnh khủng khiếp hơn bất cứ đâu cô từng đến trước đây, hay có thể con gấu cô đang cưỡi không bước nhẹ nhàng như Iorek; hay có lẽ là vì cô đã mệt đến tận từng thớ thịt. Dù thế nào, đây cũng là một quãng đường vô cùng khó đi.
Cô biết rất ít về nơi cả đoàn đang hướng tới, hay nó cách xa bao nhiêu. Tất cả những gì cô biết la con gấu già Soren Eisarson đã nói với cô trong lúc chúng chuẩn bị chiếc máy ném lửa. Nó đã tham dự cuộc thương lượng với ngài Asriel về các điều kiện của việc bị giam giữ của ông, và nó vẫn còn nhớ rất rõ.
Đầu tiên, nó nói, những con gấu Svalbard coi Ngài Asriel không khác những chính khách, những vị vua hay những kẻ vướng vào rắc rối bị đày ra hòn đảo hoang vu này của chúng. Những tù nhân này rất quan trọng. Hoặc là họ bị giết bởi chính các đồng loại của mình, họ có thể trở nên quý giá với những con gấu một ngày nào đó, nếu sự nghiệp chính trị của họ thay đổi và họ quay trở về thống trị đất nước của chính mình. Hoặc là họ sẽ trả tiền cho những con gấu để không bị đối xử quá tàn nhẫn hay vô lễ.
Vì thế ngài Asriel đã đưa ra các điều kiện tại Svalbard không tốt hơn mà cũng không tệ hơn hàng trăm tù nhân bị đày khác từng làm. Nhưng có một số điều đã khiến những người bạn tù của ông đề phòng ông hơn với những người khác. Có một bầu không khí bí ẩn và nguy hiểm về mặt tâm linh xung quanh bất cứ thứ gì liên quan đến Bụi; những người đưa Ngài Asriel đến đây rõ ràng rất hoảng sợ, và đã có những cuộc nói chuyện riêng giữa bà Coulter với Iofur Raknison.
Bên cạnh đó, những con gấu cũng chưa bao giờ gặp phải thứ gì giống như tính cách hung hãn và độc đoán của Ngài Asriel, thậm chí ông ta lấn át cả Iofur Raknison, ông tranh cãi dữ dội và rất nhiều lý lẽ, để thuyết phục vua gấu cho phép ông tự chọn chỗ ở cho mình.
Chỗ đầu tiên nơi ông bị đưa vào quá thấp kém, ông nói thế. Ông cần một nơi cao ráo, phía trên những khói và bụi của mỏ than và lò rèn. Ông đưa cho những con gấu bản thiết kế về nơi ở ông mong muốn, và nói cho chúng nên xây ở chỗ nào. Ông hối lộ cho chúng vàng, ông tâng bốc và ép buộc Iofur Raknison. Những con gấu bắt tay vào việc với một sự hăng hái đáng ngạc nhiên. Không lâu sau, một căn nhà đã được dựng ở vùng đất mũi hướng về phía bắc, một nơi rộng lớn và vắng lặng có những lò sưởi đốt bằng những khúc củi than to do những con gấu kéo đến, với một khung cửa sổ rộng lắp kính thật. Ông ta trú ngụ ở đó, một tù nhân có phong cách như một ông vua.
Rồi ông bắt đầu lắp ráp những thiết bị cho một phòng thí nghiệm.
Ông tập trung ghê gớm vào việc yêu cầu những cuốn sách, thiết bị, chất hóa học, tất cả những vật dụng và công cụ khác. Bằng cách này hay cách khác, chúng đã được đưa đến, một số là công khai, một số là do lén lút mang đến bởi những vị khách ông đặc biệt yêu cầu. Bằng đường bộ, đường biển và đường không. Ngài Asriel đã gom góp đủ các thiết bị của mình. Chỉ sau sáu tháng kể từ khi bị tống giam, ông đã có được tất cả những thứ mình muốn.
Và thế là ông bắt tay vào việc, suy nghĩ, lập kế hoạch và đo đạc, chờ đợi một thứ ông cần để hoàn tất công việc khiến Ủy ban Tôn giáo rất hoảng sợ. Cứ mỗi phút nó càng đến gần hơn.
o O o
Hình ảnh đầu tiên về nhà tù nơi giam giữ cha mình của Lyra là khi Iorek Byrnison dừng lại ở chân một con dốc cho bọn trẻ tự nhúc nhích chân tay, vì chúng đã bị lạnh và cóng đến mức nguy hiểm.
“Nhìn lên phía trên kia kìa.” Nó nói.
Một sườn đồi lởm chởm đầy đá và băng, có một con đường rất dễ thấy dẫn đến một vách đá nổi rõ trên cổng trời. Không có Hiện tượng cực quang, nhưng những ngôi sao rất sáng. Vách đá đứng sừng sững đen thẫm và trông có vẻ đáng sợ, nhưng ở trên đỉnh là một ngôi nhà rộng rãi. Ánh đèn trong nhà hắt ra ngoài từ khắp các hướng; không phải là thứ ánh sáng leo lét mang theo đầy khói của đèn mỡ cá voi, củng không phải là những ngọn đèn anbaric hắt ra thứ ánh sáng trắng, mà là ánh đèn dầu ấm áp lấp lánh màu kem.
Những ô cửa sổ từ đó hắt ra còn cho thấy sức mạnh ghê gớm của Ngài Asriel. Thủy tinh rất đắt đỏ, và một tấm lớn như thế là vô cùng xa xỉ giữa một nơi rộng lớn và khắc nghiệt như thế này; vì thế chúng là bằng chứng về sự giàu có và ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều so với cung điện thô thiển của Iofur Raknison.
Chúng lại cưỡi trên lưng những con gấu lần cuối cùng, và Iorek dẫn đầu quãng đường đi xuống sườn đồi về phía ngôi nhà. Có một khoảng sân nằm sâu dưới tuyết, xung quanh có tường thấp bao quanh, khi Iorek đẩy cánh cổng mở rộng họ nghe thấy tiếng chuông reo đâu đó trong nhà.
Lyra tụt xuống. Cô khó mà đứng vững nổi. Cô giúp Roger tụt xuống, và xốc vai nhau, chúng nhảy qua những đụn tuyết cao bằng cả cẳng chân về phía những bậc cửa dẫn vào ngôi nhà.
Ôi, hơi ấm có thể có trong ngôi nhà đó! Ôi, một sự nghỉ ngơi thư thái!
Cô với tay đến tay cầm của chiếc chuông, nhưng trước khi cô nắm được nó, cánh cửa bật mở. Có một hành lang được chiếu sáng lờ mờ để giữ không khí ấm áp bên trong, và đứng dưới ánh đèn là một người mà cô nhận ra ngay: Thorold, người hầu nam của ngài Asriel, với con nhân tinh có tên Anfang.
Lyra mệt mỏi kéo chiếc mũ trùm đầu ra sau.
“Ai…” Thorold lên tiếng, rồi nhận ra, ông tiếp tục, “không phải Lyra sao? Lyra bé bỏng phải không? Tôi có đang mơ không vậy?”
Ông lùi về phía sau để mở chiếc cửa tiếp theo.
Một đại sảnh, với lửa than đang cháy trong lò sưởi xây bằng đá, ánh đèn dầu ấm áp lung linh trên tấm thảm trải sàn, những chiếc ghế bọc da, những thứ đồ gỗ bóng loáng… Không có gì giống với những thứ Lyra đã nhìn thấy kể từ khi rời khỏi học viên Jordan, điền này khiến cổ họng Lyra nghẹn lại.
Con nhân tinh báo tuyết của Ngài Asriel gầm gừ.
Cha của Lyra đang đứng đó, khuôn mặt với đôi mắt đen mạnh mẽ lúc đầu hung dữ, đắc thắng và hào hứng; rồi tái đi, đôi mắt ông mở to, trông sợ hãi khi nhận ra con gái của mình.
“Không! Không!”
Ông lảo đảo lùi lại, bám chặt vào bệ lò sưởi. Lyra không thể đông đậy nổi.
“Đi ra!” Ngài Asriel hét lên. “Quay lại, đi ra, đi! Ta không cho gọi cháu!”
Cô không thể lên tiếng nổi. Cô thử mở miệng lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba, và cuối cùng cố gắng nói:
“Không, không, cháu đến đây vì—”
Dường như ông rất kinh hoàng, ông liên tục lắc đầu, giơ tay lên như thể để đẩy cô đi. Cô không tin ông lại chịu áp lực đến vậy.
Cô bước một bước lại gần hơn và Roger đến đứng bên cô, lo lắng. Hai con nhân tinh của họ bay trong không khí ấm áp, một lúc sau Ngài Asriel quệt tay qua trán và hơi bình tĩnh lại. Sắc hồng trở lại trên mặt ông khi ông nhìn xuống hai đứa trẻ.
“Lyra,” ông nói. “Lyra phải không?”
“Vâng, thưa chú Asriel.” Cô nói, trong thâm tâm nghĩ chưa đến lúc cư xử theo đúng mối quan hệ giữa họ. “Cháu đến đây để mang cho chú Chân-kế ông Hiệu trưởng Jordan gửi.”
“Đúng, tất nhiên, cháu đã làm thế.” Ông nói, “Ai đây?”
“Cậu ấy là Roger Parslow.” Cô nói, “Cậu ấy làm việc trong nhà bếp của Học viện Jordan. Nhưng—”
“Làm thế nào cháu đến được đây?”
“Cháu vừa định nói, còn có Iorek Byrnison đang ở ngoài. Anh ấy đã đi cùng cháu suốt cả chặng đường từ Trollesund và chúng cháu đã lừa Iofur—”
“Iorek Byrnison là ai?”
“Một con gấu mặc áo giáp sắt. Anh ấy đưa chúng cháu đến đây.”
“Thorold,” ông gọi, “đặt nước nóng cho những đứa trẻ này, chuẩn bị chút đồ ăn cho chúng. Rồi sau đó chúng cần ngủ. Quần áo của chúng bẩn hết rồi, tìm cho hai đứa đồ gì để mặc. Làm ngay đi, trong khi ta nói chuyện với con gấu này.”
Lyra thấy đầu óc mình choáng váng. Có lẽ vì hơi nóng, hay có lẽ là vì cô cảm thấy nhẹ nhõm. Cô nhìn người hầu cúi mình và rời khỏi đại sảnh, Ngài Asriel ra phòng ngoài và đóng cửa lại, rồi cô gieo mình xuống chiếc ghế gần nhất.
Chỉ một thoáng sau, dường như vậy, Thorold vào nói với cô. “Hãy đi theo tôi, thưa cô,” ông ta nói, cô đứng dậy cùng Roger vào một phòng tắm ấm áp, nơi những chiếc khăn tắm mềm mại treo trên mắc và một chậu nước bốc hơi dưới ánh đèn dầu.
“Cậu tắm trước đi.” Lyra nói. “Mình sẽ ngồi bên ngoài, bọn mình sẽ nói chuyện.”
Roger, co rúm và thở gấp vì hơi nóng, đi vào và bắt đầu cọ rửa. Chúng hay rất tắm truồng cùng nhau, vui đùa trên sông Isis hay Cherwell cùng những đứa trẻ khác, nhưng lần này thì không.
“Mình sợ chú cậu,” Roger nói qua cánh cửa mở, “Ý mình là cha cậu đấy.”
“Tốt hơn cứ gọi ông ấy là chú mình. Mình cũng sợ ông ấy, thỉnh thoảng.”
“Khi chúng ta mới bước vào, ông ấy chẳng nhìn gì đến mình, chỉ nhìn cậu. Ông ấy sợ hãi, cho đến khi nhìn thấy mình. Rồi ông ấy trấn tĩnh lại ngay lập tức.”
“Ông ấy bị sốc.” Lyra nói. “Bất cứ ai cũng có thể như vậy, khi nhìn thấy một người họ không mong đợi. Lần cuối cùng ông ấy gặp mình là trong Phòng nghỉ. Bị sốc là phải rồi.”
“Không.” Roger nói. “Còn hơn thế ấy. Ông ấy nhìn mình như một con chó sói, hay gần như vậy.”
“Cậu chỉ tưởng tượng thế thôi.”
“Không phải. Mình sợ ông ấy hơn bà Coulter, đó là sự thật.”
Cậu vẩy nước lên người mình. Lyra lôi Chân-kế ra.
“Cậu có muốn mình hỏi chiếc máy đọc biểu tượng truyện đó không?” Lyra hỏi.
“Ừ, mình không biết. Có những điều mình không biết thì hơn. Dường như với mình, tất cả những gì mình nghe được từ khi bọn Gà trống tây đến Oxford, điều gì cũng tệ hại cả. Chưa có gì tốt đẹp bằng năm phút sắp tới. Như mình có thể thấy bây giờ, được tắm như thế này thật tuyệt, ở đây có những chiếc khăn tắm ấm áp mềm mại. Và khi mình đã lau khô người, mình sẽ nghĩ đến thứ gì ngon để ăn, nhưng không có gì tiếp theo hơn nữa. Khi mình đã ăn xong, có thể mình sẽ ước một chiếc giường êm để ngủ. Nhưng sau đó, mình không biết, Lyra ạ. Chúng mình đã chứng kiến rất nhiều chuyện khủng khiếp, phải vậy không? Và sẽ còn nhiều chuyện nữa ở phía trước, việc này còn chắc chắn hơn. Vì thế mình nghĩ không nên biết những điều xảy ra trong tương lai thì hơn. Mình chỉ cần biết hiện tại được rồi.”
“Ừ,” Lyra mệt mỏi nói. “Có lúc mình cũng cảm thấy thế.”
Vì thế dù cô cầm Chân-kế trên tay thêm một lúc nữa, đó chỉ là để cảm thấy thoải mái, cô không quay những bánh xe. Pantalaimon nhìn Chân-kế trong im lặng.
Sau khi cả hai đứa đều đã tắm, ăn chút bánh mì với pho mát và uống ít rượu cùng nước nóng, ông người hầu Thorold nói. “Cậu bé phải đi ngủ. Tôi sẽ chỉ chỗ cho cậu ấy. Ông chủ hỏi liệu cô có muốn đến ngồi với ông trong Thư viện không, thưa cô Lyra.”
Lyra tìm thấy Ngài Asriel ngồi trong một căn phòng có cửa sổ nhìn ra đại dương đóng băng xa xa. Có một lò sưởi đốt than dưới một bệ lò sưởi lớn, và một ngọn đèn dầu vặn rất nhỏ, nó phản chiếu được rất ít bóng người ngồi trong phòng, bên ngoài là toàn cảnh bầu trời đầy sao. Ngài Asriel, dựa đầu vào chiếc ghế bành lớn đặt cạnh lò sưởi, vẫy cô lại gần và bảo cô ngồi vào chiếc ghế đối diện.
“Bạn của cháu, Iorek Byrnison đang nghỉ ngơi bên ngoài.” Ông nói, “Anh ta thích không khí lạnh hơn.”
“Anh ấy đã kể cho chú nghe về trận chiến với Iofur Raknison chưa?”
“Không kĩ lắm. Nhưng ta hiểu giờ đây anh ta là vua của Svalbard. Đúng thế không?”
“Tất nhiên là đúng rồi, Iorek chẳng bao giờ nói dối.”
“Có vẻ như anh ta tự chỉ định mình là người bảo vệ cháu.”
“Không, John Faa lệnh cho anh ấy trông nom cháu, và anh ấy làm điều này vì thế. Anh ấy đang làm theo lệnh của John Faa.”
“Làm thế nào John Faa lại dính dáng đến chuyện này?”
“Cháu sẽ kể cho chú nếu chú nói cho cháu biết một điều.” Cô nói, “Chú là cha cháu, đúng không?”
“Đúng. Sao nào?”
“Vậy thì cha nên kể cho con nghe trước, thế đấy ạ. Cha không nên giấu giếm mấy chuyện như vậy với những người ta, vì họ sẽ cảm thấy mình ngu ngốc khi họ tìm ra nó, và điều đó thật tàn nhẫn. Có gì là khác biệt nếu con biết con là con gái của cha? Cha đã có thể nói ra chuyện này nhiều năm trước. Cha đã có thể nói với con và yên cầu con giữ bí mật, con sẽ làm theo, dù lúc đó con còn nhỏ đến đâu, con sẽ làm như thế nếu cha yên cầu. Con đã có thể tự hào rằng chẳng có gì khiến con hé môi nếu cha đã yêu cầu con phải giữ bí mật. Nhưng cha chẳng bao giờ nói cả. Cha để những người khác biết, nhưng lại không bao giờ cho con biết.”
“Ai đã kể cho con biết chuyện này?”
“John Faa.”
“Ông ta đã kể cho con về mẹ con chưa?”
“Rồi.”
“Vậy là chẳng còn lại gì nhiều để ta kể. Ta không nghĩ ta muốn bị chất vấn và kết tội bởi một đứa trẻ không ngoan. Ta muốn nghe những điều con đã chứng kiến và đã làm trên đường đến đây.”
“Con đã mang cho cha Chân-kế quý hóa này, đúng không?” Lyra òa lên. Cô gần khóa đến nơi. “Con giữ gìn nó suốt từ khi rời khỏi Jordan, con bảo vệ nâng niu nó, và dù đã xảy ra điều gì với chúng con, con đã học được cách sử dụng nó. Con đã mang nó suốt cả quãng đường gian khổ khi mà con có thể từ bỏ nó để được an toàn. Cha thậm chí chẳng nói cảm ơn, hay một thể hiện một thái độ là cha vui mừng khi gặp lại con. Con không hiểu tại sao là con có thể làm được điều này. Nhưng con đã làm, con đã tiếp tục đi, ngay cả trong cung điện hôi hám của Iofur Raknison có tất cả những con gấu đó vây quanh và con lừa ông ta chiến đấu với Iorek để có thể đến được đây vì cha… Vậy mà khi cha nhìn thấy con, cha tái mặt đi, như thể con là thứ gì đó khủng khiếp cha không bao giờ muốn gặp lại. Cha không phải là con người, thưa Ngài Asriel. Cha không phải cha của con. Cha của con sẽ không đối xử với con như vậy. Những người cha sẽ yêu thương con gái mình, đúng vậy không? Cha không yêu con và con không yêu cha, đó là sự thực. Con yêu Farder Coram, và con yêu Iorek Byrnison; con yêu một con gấu mặc áo giáp sắt hơn cả yêu cha mình. Con cá là Iorek Byrnison cũng yêu con hơn cha.”
“Chính con nói với ta anh ta chỉ làm theo lệnh của John Faa. Nếu con trở nên ủy mị như vậy thì ta sẽ không phí thời gian nói chuyện với con đâu.”
“Hãy cầm lấy Chân-kế quý hóa của cha, còn con sẽ quay về với Iorek.”
“Về đâu?”
“Trở về cung điện. Anh ấy có thể chiến đấu với bà Coulter và Ủy ban Tôn giáo, khi họ xuất hiện. Nếu anh ấy thất bại thì con cũng sẽ chết, con không cần biết. Nếu anh ấy chiến thắng, chúng con sẽ gọi Lee Scoresby đến và con sẽ đi trên chiếc khinh khí cầu của anh ấy và—”
“Lee Scoresby là ai vậy?”
“Một người lái khinh khí cầu. Ông ấy đưa chúng con đến đây, rồi chúng con bị rơi xuống đất. Của cha đây, Chân-kế. Nó vẫn còn nguyên vẹn.”
Ông không có dấu hiệu gì để lấy nó, và cô để nó trên chiếc khay đồng chắn than quanh lò sưởi.
“Con nghĩ là con nên nói cho cha biết bà Coulter đang trên đường đến Svalbard. Ngay khi nghe tin điều đã xảy đến với Iofur Raknison, bà ấy sẽ lên đường đến đây. Trong một chiếc khí cầu, với rất nhiều quân lính, họ sẽ giết tất cả chúng ta, theo lệnh của Tổng giáo giám mục.”
“Họ sẽ không bao giờ đến được chỗ chúng ta.” Ông bình thản nói.
Ông lặng lẽ và thư thái đến nỗi cơn giận dữ của cô nguội đi phần nào.
“Cha không biết đâu,” cô nói với vẻ không chắc chắn. “Ta biết chứ.”
“Vậy là cha có một Chân-kế khác phải không?”
“Ta không cần đến một Chân-kế để biết được điều này. Giờ thì ta muốn nghe về chuyến đi của con tại đây, Lyra. Hãy kể từ đầu. Ta muốn nghe tất cả.”
Vậy là cô kể. Cô bắt đầu từ việc trốn trong Phòng nghỉ, tiếp tục với việc bọn gà trống tây bắt mất Roger, thời gian ở cùng bà Coulter, và tất cả việc xảy ra khác.
Đó là một câu chuyện dài, khi kể xong cô nói, “Vậy còn một điều con muốn biết, và con đoán mình có quyền được biết, như con có quyền biết mình thực sự là ai. Và nếu cha đã không cho con biết chuyện đó, hãy nói con biết điều này, để bù lại. Đó là: Bụi là gì? Và tại sao tất cả mọi người đều sợ nó?”
Ông nhìn cô chằm chằm như thể đang đoán xem cô có hiểu được điều ông sắp nói hay không. Trước đây, ông chua bao giờ nhìn cô chắm chú, cô nghĩ; cho đến bây giờ ông vẫn luôn giống một người lớn làm thỏa mãn đứa trẻ bằng trò lường gạt tài tình. Nhưng có lẽ ông nghĩ cô đã đủ lớn để biết.
“Bụi là thứ làm Chân-kế hoạt động.”
“À… Con đã nghĩ như thế! Nhưng còn gì nữa? Làm sao họ tìm thấy nó?”
“Ở một khía cạnh nào đó. Giáo hội luôn quan tâm đến nó. Họ đã thuyết giáo về nó nhiều thế kỉ nay, có điều không gọi nó bằng tên này.
“Nhưng vài năm trước, một người Moscow tên là Boris Mikhailovich Rusakov khám phá ra một loại hạt cơ bản mới. Con đã nghe về electron, photon, neutron và những loại hạt cơ bản khác rồi chứ? Chúng được gọi là các hạt cơ bản vì con không thể phá vỡ chúng nhỏ thêm được nữa: không có gì ở bên trong chúng ngoài chính chúng. Đó, loại hạt mới này đúng là hạt cơ bản, nhưng rất khó đo đếm vì nó không phản ứng theo bất cứ những cách thông thường nào. Điều khó hiểu nhất đối với Rusakov là tại sao loại hạt mới này lại tụm lại ở những nơi có người, như thể chúng bị hút vào chúng ta. Mà đặc biệt là với người lớn. Trẻ con cũng có nhưng không nhiều lắm cho đến khi nhân tinh của chúng cố định lại hình dáng. Trong suốt những năm ở tuổi dậy thì, chúng trở nên hút Bụi rất mạnh, và nó phủ lên người chúng nhiều như người lớn.
“Giờ đây, tất cả những khám phá về thể loại này, vì chúng có liên quan đến học thuyết của giáo hội, phải được thông báo lên Tổng giáo giám mục tại Geneva. Khám phá này của Rusakov kỳ lạ và phi lý đến nỗi thanh tra viên của Tòa án kỷ luật Tôn giáo nghi ngờ Rusakov thuộc thế giới ma quỷ. Ông ta niệm thần chú trong phòng thí nghiệm, ông ta chất vấn Rusakov theo những quy tắc của Tòa án dị giáo, nhưng cuối cùng người ta phải công nhận thực tế rằng Rusakov đã không nói dối hay lừa gạt: Bụi thực sự tồn tại.
“Việc này đặt họ trước một vấn đề là quyết định nó là cái gì. Và với bản chất của giáo hội, chỉ có một điều duy nhất để chọn lựa. Tổng giáo giám mục quyết định rằng Bụi là bằng chứng hiển nhiên của tội lỗi căn nguyên. Con có biết tội lỗi căn nguyên là gì không?”
Cô mím môi, thật giống như quay trở lại Jordan, bị đố những điều cô chỉ học rất lơ mơ. “Một thứ gì đó,” cô nói.
“Không, con không biết rồi. Hãy đến chiếc giá sách bên cạnh bàn và mang cho ta cuốn Kinh thánh.”
Lyra làm theo và đưa cho cha mình cuốn sách lớn màu đen.
“Con có nhớ câu chuyện Adam với Eve không?”
“Có chứ.” Cô nói. “Bà ấy không được phép ăn loại trái đó và con rắn đã xúi giục bà, rồi bà đã ăn.”
“Rồi điều gì đã xảy ra?”
“Ừm,…Họ đã bị ném xuống trần gian. Chúa đã ném họ khỏi khu vườn.”
“Chúa đã nói họ không được ăn trái cấm, vì nếu thế họ có thể chết, hãy nhớ là, họ khỏa thân trong khu vườn, họ giống như những đứa trẻ, nhân tinh của họ biến thành bất cứ con vật nào chúng muốn. Nhưng đây là điều đã xảy ra.”
Ông lật sang Chương ba trong cuốn “Sáng thế” và đọc:
“Và người phụ nữ nói với con rắn, chúng tôi được phép ăn các loại quả có trong vườn:
“Nhưng là quả của loại cây mọc giữa vườn, Chúa đã nói, ngươi không được ăn nó, cũng không được chạm vào nó, nếu không ngươi sẽ chết.
“Và con rắn nói với người phụ nữ, cô không chắc là sẽ chết:
“Vì Chúa không biết rằng trong ngày cô ăn nó vào, mắt của cô sẽ được khai mở, con nhân tinh của cô có được hình hài đúng của mình, và cô sẽ giống như những vị thánh, biết được việc thiện việc ác.
“Rồi người phụ nữ thấy cái cây đó ngon lành, rất vui mắt, cái cây sẽ hé lộ hình dáng thật của con nhân tinh, cô nhón lấy thứ quả đó, và ăn, và còn đưa nó cho người chồng của mình, anh ta đã ăn.
“Và mắt của hai người được khai mở, họ nhìn thấy hình dạng thật của con nhân tinh của mình, và nói chuyện với chúng.
“Nhưng khi người đàn ông và người phụ nữ biết về con nhân tinh của chính mình, họ biết có một thay đổi lớn đã đến, vì cho đến thời khắc đó dường như họ giống hệt mọi sinh vật dưới mặt đất lẫn trên bầu trời, và không có gì khác biệt giữa họ:
“Rồi họ đã nhìn thấy sự khác biệt, và giờ họ đã biết cái tốt và cái xấu; họ thấy xấu hổ, và họ khâu những chiếc lá với nhau để che đậy sự trần truồng của mình…”
Ông gập cuốn sách lại.
“Đó chính là cách tội lỗi đến với thế giới,” ông nói. “Tội lỗi, sự hổ thẹn và cái chết. Nó đến khi con nhân tinh của họ cố định lại hình dáng.”
“Nhưng…” Lyra cố gắng tìm từ mình muốn nói. “Nhưng như thế không đúng, phải không? Nó không giống như ngành hóa học hay cơ khí học. Không thực sự có Adam và Eve? Học giả Cassington nói với con rằng đó chỉ là một loại truyện cổ tích.”
“Học giả Cassington được coi là một nhà tư tưởng tự do. Công việc của ông ta là thách thức niềm tin của các Học giả. Tất nhiên ông ta sẽ nói như vậy. Nhưng hãy nghĩ về Adam và Eve như một số ảo, như căn bậc hai của âm một ( –1). Con có thể không bao giờ thấy một bằng chứng chắc chắn chứng minh nó tồn tại, nhưng nếu con bảo gồm chúng vào các phép tính của mình, con có thể tính toán tất cả những thứ mà thiếu nó sẽ không tưởng tượng ra được.
“Dù sao, đó là điều Giáo hội rao giảng hàng nghìn năm nay. Khi Rusakov phát hiện ra Bụi, cuối cùng cũng có một bằng chứng hiển nhiên rằng có điều gì đó xảy ra khi thời kỳ ngây thơ chuyển sang thời kỳ trưởng thành.
“Thật trùng hợp, cuốn Kinh thánh cũng cho chúng ta tên Bụi. Lúc đầu chúng được gọi là hạt Rusakov, nhưng sau đó có người chỉ ra ở phần cuối Chương ba cuốn Sáng thế, lúc Chúa đuổi Adam ra khỏi thiên đường vì ăn trái cấm.”
Ông lại mở cuốn Kinh thánh ra và chỉ cho Lyra xem. Cô đọc:
“Với khuôn mặt đẫm mồ hôi, ngươi sẽ phải ăn bánh mì, cho đến khi ngươi trở về với lòng đất; vì từ đó là thứ ngươi đã lấy đi: thứ bụi mà ngươi sở hữu, và ngươi sẽ trở về với bụi…”
Ngài Asriel nói: “Các học giả của Giáo hội thường bối rối trước bản dịch này. Có người nói không nên dịch là ‘ngươi sẽ trở về với bụi’ mà phải là ‘người sẽ biến thành bụi,’ những người khác lại nói cả bản dịch này là một trò chơi chữ với chữ ‘mặt đất’ và ‘bụi,’ và nó thực ra có nghĩa rằng Chúa đang ca ngợi bản chất phần nào tội lỗi của chính mình. Không ai đồng ý cả. Không ai có thể, bởi vì văn bản đã bị mục nát. Nhưng đó là một từ quá đắt giá, thật phí phạm nếu không sử dụng, và đó là lý do loại hạt này được gọi là Bụi.”
“Thế còn bọn Gà trống tây thì sao?” Lyra hỏi.
“Tổng Ủy ban Tôn giáo…băng đảng của mẹ con. Bà ấy đã rất khôn khéo khi giành lấy cơ hội thiết lập nền tảng quyền lực cho mình, nhưng bà ấy là một phụ nữ thông minh, ta dám chắc con cũng nhận thấy như vậy. Tổng giáo giám mục rất thích thú với việc để cho mọi loại tổ chức khác nhau mọc lên như nấm sau mưa. Họ có thể kích cho tổ chức này chống lại tổ chức kia, nếu một trong hai thắng, họ sẽ giả như ủng hộ tổ chúc đó ngay từ đầu, và nếu nó thất bại, họ lại làm như nó là một tổ chức phản bội bị loại bỏ chưa bao giờ được chính thức thừa nhận.
“Con thấy đấy, mẹ của con luôn đam mê quyền lực. Đầu tiên bà ấy thử giành lấy nó bằng cách thông thường, qua hôn nhân, nhưng không có tác dụng, ta nghĩ chắc con đã được nghe kể. Vì thế bàn ấy phải quay sang Giáo hội. Tất nhiên bà ấy không thể đi theo con đường của một người đàn ông—làm thầy tu hay tương tự như vậy—bà ấy sẽ pha3i đi theo con đường không chính thức. Bà ấy phải tự thiết lập cho mình một con dường riêng, con đường dẫn đến quyền lực, và đi theo chúng. Sẽ thuận lợi hơn nếu tập trung vào Bụi. Tất cả mọi người đều e sợ nó; không ai biết phải làm gì; và khi bà ấy đề nghị tổ chức một cuộc điều tra nghiên cứu, Tổng giáo giám mục đã thở phào nhẹ nhõm và ủng hộ bà ấy tài lực cũng như mọi loại phương tiện cần thiết.”
“Nhưng bọn họ đang cắt rời—” Lyra không thể ngăn mình nói ra điều đó; từ đó tắc nghẹn trên môi cô. “Cha biết họ đang làm gì rồi đấy! Tại sao Giáo hội lại để họ làm một việc như thế?”
“Có một tiền lệ từ trước. Điều tương tự đã xảy ra trước đây. Con có biết từ ‘thiến’ có nghĩa là gì không? Đó là cắt bỏ bộ phận sinh dục của một cậu bé để nó không thể phát triển những đặc tính của người đàn ông. Một người con trai bị thiến có giọng cao gấp ba mức bình thường trong suốt cuộc đời, diều này được Giáo hội cho phép: nó rất có tác dụng đối với dàn nhạc trong nhà thờ. Một vài người con trai bị thiến trở thành những ca sĩ nổi tiếng thế giới, những nghệ sĩ tài năng. Rất nhiều người chỉ trở thành một người nửa đàn ông nửa đàn bà béo ú và mục rửa. Một số người chết do tác động của cuộc phẫu thuật. Nhưng Giáo hội sẽ không nao núng trước một ca mổ nhỏ, như con thấy đấy. Đã có tiền lệ như vậy rồi. Và như thế còn vệ sinh hơn rất nhiều so với phương pháp cũ, khi chưa có thuốc gây mê và băng vô trùng hay những sự chăm sóc thích đáng. Nếu so sánh như thế thì vẫn còn nhẹ nhàng.”
“Không hề!” Lyra nói với giọng dữ dội. “Không hề!”
“Không. Tất nhiên là không. Chính vì vậy họ mới phải trốn lên tận phương Bắc, trong bóng tối và không ai biết tới. Giáo hội rất vui mừng khi có một người phụ trách công việc như mẹ con. Ai có thể nghi ngờ một người duyên dáng đến thế, giỏ giao thiệp đến thế, ngọt ngào và nhiều lý lẽ đến thế? Nhưng vì đó là một loại phẫu thuật mờ ám và không chính thức, bà ấy cũng là người mà Tổng hội giám mục có thể phải đề phòng.”
“Nhưng ý tưởng chia tách đó đầu tiên là của ai?”
“Là của bà ấy. Bà ấy nhận định rằng hai thứ xảy ra trong thời kỳ dậy thì có thể quan hệ với nhau: sự thay đổi ở con nhân tinh và thực tế là Bụi bắt đầu phản ứng. Có thể nếu nhân tinh bị tách khỏi con người, có thể chúng ta sẽ không bao giờ bị phụ thuộc vào Bụi—tức tội lỗi căn nguyên nữa. Vấn đề là có thể thách nhân tinh khỏi con người mà không giết chết người đó được không? Nhưng bà ấy đã đi rất nhiều nơi, và biết tất cả mọi thứ. Ví dụ như bà ấy từng đến Châu Phi. Người Châu Phi có một cách chế tạo nô lệ là thây ma. Nó không có trí khôn khôn gì cả. Nó sẽ lao đông suốt ngày suốt đêm mà không kêu ca hay bỏ trốn. Trông nó giống một xác chết…”
“Đó là một người không có nhân tinh!”
“Chính xác. Vì thế bà ấy nhận ra là có thể chia tách người với nhân tinh.”
“Và…Tony Costa kể với con về những bóng ma rùng rợn trong những khu rừng trên phương Bắc. Con nghĩ chúng cũng là một dạng kiểu này.”
“Đúng thế đấy. Dù sao, Ủy ban Tôn giáo chung cũng ra đời từ ý tưởng này, và từ ám ảnh về tội lỗi căn nguyên của giáo hội.”
Nhân tinh của Ngài Asriel giật giật hai tai, ông đặt tay lên cái đầu xinh đẹp của nó.
“Còn có điều gì đó khác nữa xảy ra khi họ thực hiện chia cắt,” ông tiếp tục. “Và họ đã không nhận thấy điều đó. Năng lượng liên kết con người với nhân tinh vô cùng mãnh liệt. Khi sự chia tách diễn ra, tất cả năng lượng tan biến chỉ khoảng thời gian một giây đồng hồ. Họ không để ý vì họ tưởng lầm đó là một cơn sốc, hay sự giận dữ, hay tổn thương tinh thần, và họ tự rèn luyện mình để thờ ơ với nó. Vì thế họ đã bỏ lỡ mất những điều nó có thể làm, và họ không bao giờ nghĩ đến việc khai thác nó…”
Lyra không thể ngồi yên được. Cô đứng lên và đi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn đêm rộng lớn bên ngoài với đôi mắt vô hồn. Họ quá độc ác. Dù việc tìm hiểu tội lỗi căn nguyên có quan trọng đến mức nào, việc họ làm với Tony Makarios và tất cả những đứa trẻ khác thật là độc ác. Không gì có thể biện hộ được cho hành động đó.
“Vậy cha đang làm những gì?” cô nói. “Cha từng thực hiện một cuộc chia cắt nào không?”
“Ta quan tâm đến những thứ hoàn toàn khác. Ta không nghĩ Ủy ban Tôn giáo đi đủ xa. Ta muốn tìm hiểu đến nguồn gốc của chính bản thân Bụi.”
“Nguồn gốc? Vậy nó đến từ đâu?”
“Từ thế giới khác mà chúng ta có thể nhìn thấy qua hiện tượng cực quang.”
Lyra quay đầu lại. Cha cô đang ngả lưng trên ghế, thư thái và mạnh mẽ, con mắt ông dữ dội như mắt con nhân tinh của mình. Cô không yêu ông, cô không thể tin ông, nhưng cô không khỏi ngưỡng mộ ông, ngưỡng mộ sự xa hoa ông bài trí trong nơi ở cách biệt của ông, ngưỡng mộ sức mạnh tỏa ra từ tham vọng của ông.
“Thế giới khác đó là gì?” cô nói.
“Một trong số hàng tỉ nhưng thế giới tồn tại đồng thời với nhau. Các phù thủy đã biết về những thế giới này hàng thế kỉ trước, nhưng nhà thần học đầu tiên chứng minh sự tồn tại của chúng theo phương thức toán học đã bị rút phép thông công năm mươi năm trước hoặc hơn. Tuy nhiên, sự thật là thế; không có cách nào để có thể chối bỏ nó được.
“Nhưng không có ai nghĩ rằng có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác. Điều này có thể vi phạm các điều luật cơ bản, chúng ta nghĩ thế. Thế đấy, chúng ta đã sai lầm; cho đến nay, chúng ta đã học cách nhìn nhận thế giới này. Nếu ánh sáng đi qua thì chúng ta cũng có thể. Và chúng ta cần phải học được cách để hiểu nó, Lyra ạ, cũng giống như việc con học cách đọc Chân-kế.
“Giờ thì thế giới đó, và các thế giới khác, đã trở thành kết quả của một khả năng. Lấy ví dụ việc tung đồng xu”nó có thể rơi xuống mặt trái hay mặt phải, chúng ta không biết sẽ là mặt nào trước khi nó rơi xuống. Nếu là mặt phải, điều đó có nghĩa là khả năng lật lên mặt trái đã tiêu tan. Cho đến thời điểm đó hai khả năng vẫn cân bằng.
“Nhưng trong một thế giới khác, nó là mặt trái. Và khi điều này xảy ra, hai thế giới tách ra làm đôi. Ta dùng ví dụ tung đồng xu chỉ để diễn đạt rõ ràng hơn. Trên thực tế, những khả năng bị tiêu biến này xảy ra ở mức độ các hạt cơ bản., nhưng chúng cũng diễn ra y theo cùng cách: một khoảnh khắc rất nhiều thứ có khả năng xảy ra, khoảnh khắc tiếp theo chỉ có một thứ xảy ra, và phần còn lại không tồn tại. Trừ khi có những thế giới khác nảy sinh, để cho các khả năng đó xảy ra thực sự.
“Và ta sắp đến thế giới đó nhờ Hiện tượng cực quang,” ông nói, “bởi vì ta nghĩ rằng tất cả Bụi trên thế giới này đều đến từ đó. Con đã nhìn thấy những bản kính dương đèn chiếu ta chỉ cho các Học giả trong Phòng nghỉ. Con đã thấy Bụi tràn xuống thế giới này từ Hiện tượng cực quang. Chính mắt con đã nhìn thấy thành phố đó. Nếu ánh sáng có thể đi qua ranh giới giữa các thế giới, nếu Bụi có thể, nếu chúng ta có thể nhìn thấy thành phố đó, vậy chúng ta có thể xây một cây cầu và đi qua. Việc này cần một vụ bùng nổ năng lượng phi thường. Nhưng ta có thể làm được. Ở đâu đó ngoài kia là cội nguồn của tất cả Bụi, tội lỗi, đau đớn, hủy diệt trong thế giới. Loài người không thể nhìn thấy thứ gì mà không muốn phá hủy nó, Lyra ạ. Đó chính là tội lỗi căn nguyên. Ta sẽ phá hủy nó. Cái chết sẽ bị diệt vong.”
“Có phải vì thế mà người ta giữ cha ở đây không?”
“Đúng. Họ sợ. Và điều này có lý do của nó.”
Ông đứng lên, con nhân tinh cũng vậy, kiêu hãnh, đẹp đẽ và đáng sợ. Lyra vẫn đứng tại chỗ. Cô sợ cha mình, nhưng cô ngưỡng mộ ông một cách tự hào, và cô nghĩ ông đã hoàn toàn điên rồ; nhưng cô là ai mà có thể phán xét đây?
“Đi ngủ đi,” ông nói. “Thorold sẽ chỉ phòng ngủ cho con.”
Ông quay người đi.
“Cha quên cái Chân-kế này,” Lyra nói.
“À, đúng. Hiện giờ ta chưa thực sự cần nó.” Ông nói. “Dù sao nó chẳng giúp gì được cho ta nếu không có cuốn sách. Con biết không, ta nghĩ ông hiệu trưởng Jordan có ý đưa nó cho con. Ông ấy có thực sự bảo con mang nó đến cho ta không?”
“Ừm, vâng!” Cô nói. Nhưng sau đó cô nghĩ lại, và nhận thấy thực ra ông hiệu trưởng không bảo cô làm việc đó, ngay từ đầu đến giờ cô vẫn đoán là thế, vì nếu không ông ta đưa cho cô làm gì? “Không,” cô nói, “con không biết. Con đã nghĩ—”
“Được rồi, ta không cần nó. Nó là của con, Lyra ạ.”
“Nhưng—”
“Chúc ngủ ngon, con gái.”
Nín lặng, quá hoang mang vì việc này đến mức không thể lên tiếng hỏi bất cứ câu hỏi đang hiện lên cả tá trong tâm trí mình, cô ngồi cạnh lò sưởi và dõi theo ông rời khỏi phòng.