Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 22
C
ó những lúc lạc vào rừng rậm của những thất bại trong quá khứ, Amy Parker đã có những cây con của mình, chủ yếu không phải những cây lớn nhanh và lấn át ngôi nhà với những lùm, những bụi hung hăng, bản thân chúng đã là rừng rậm, cám dỗ bằng mùi ám ảnh của mục rữa và hương thơm của hoa lạnh trong ánh sáng màu vàng chanh của những bí mật và những ngọn lá to. Chủ yếu không phải những cây đó, mà là những cây con bà trồng trong chậu quanh hàng hiên nhà, những cây mảnh mai, nhợt nhạt hơn mà bà thường xới lên rồi than thở, nhìn xoáy vào chúng cho đến khi thấy cả côn trùng, lỗ hút nước và bề mặt sần của lá cây sẫm màu. Những cây con mà bà yêu quý, và vì chúng mà bà đã làm các tổ ẩm ướt bằng vỏ cây và rễ con, hầu như đều ngăm đen, tươi tốt. Và dĩ nhiên là không có tên tuổi. Bà không gọi tên các vật được.
Phần lớn thời gian bà thường đi giữa các cây con, sờ mó chúng, chờ đợi những dấu hiệu của cuộc sống thanh bình. Hoặc nhìn cuộc sống đang diễn ra bên ngoài, xa xa, nhìn các thanh niên nam nữ tay đan chặt vào nhau, nhìn gương mặt những người lạ, mà từ đó mọi thứ đều được bòn rút, đến tận ý nghĩ và hàm răng. Bà cũng nhìn ra chỗ chồng đang đi loanh quanh, tìm cách lôi kéo ông ra khỏi những cung cách nguyên bản của ông, bà gọi to:
- Anh nên ra đây một lúc, thư giãn đi anh Stan ạ. Ở đây có nắng và cây cối rất thích.
Rồi người phụ nữ da ngăm đen ngồi xuống và lắng nghe trong sự im lặng bùng nổ.
- Nhưng ở đây cũng thích, - chồng bà nói. - Anh không thể ngồi một chỗ được. Anh phải lục lọi tìm kiếm trong khi trời còn sáng.
Ông cũng nheo mắt và mỉm cười.
Bà già to béo, cũng là người hiểu biết hơn cả, ngồi xuống và thở giữa đám cây. Bà ngồi trong một chiếc ghế mây cũ kêu cót két. Chiếc ghế bị xổ đã bao năm nay rồi, nhưng ngồi vẫn còn thoải mái. Mặt trời đỏ nằm ngay trong lòng bà, đôi lúc bà hòa mình vào những cây con xung quanh mà bà yêu quý nhất, bà cảm thấy hài lòng.
Trong khoảng thời gian đó có hai cuộc viếng thăm bà Parker. Cuộc đến thăm đầu tiên bà bồi hồi lo ngại. Cuộc đến thăm thứ hai làm bà hồ hởi. Nhưng bà suy ngẫm về cả hai sự kiện đó trong nhiều năm ròng, về khía cạnh nào đó mà bà đã quên. Rồi bà sẽ xem xét nó dưới ánh sáng chói chang, những đường nét rõ rệt, ngời sáng, những từ ngữ gay gắt hoặc ngộ nghĩnh được trình bày rõ ràng, như thể in trên bìa các-tông màu xám, bà thực sự nhìn thấy chúng khi bà ngồi giữa những cây con yên tĩnh.
Người đầu tiên đến thăm bà là một người đàn ông, anh ta đi dọc theo con đường mòn, đội cái mũ màu nâu có cài một nụ hoa. Đầu anh ta cúi xuống, nên bà vẫn chưa nhìn thấy, nhưng bà nghe thấy tiếng của người đàn ông, của tiền bạc và da thuộc, và tiếng đằng hắng. Bà cũng nghe thấy những từ ngữ trong giọng nói người đàn ông, vì anh ta vừa đi đến vừa chuyện trò với một đứa bé, một đứa bé rạng rỡ, béo tốt, hồng hào, vừa nhảy nhót, vừa chạy thụt lùi và ngắt những chồi non trên đường đi. Chú bé không chắc là cùng đến với người đàn ông kia. Nó tình cờ ở đấy, như trẻ con vẫn thế, tiếp tục nhìn, làm, và sống cuộc sống của nó. Nhưng người đàn ông bồn chồn. Anh ý thức quá rõ về sự có mặt của mình ở đấy, mặc dù anh đã đưa tay gạt lùi những bụi trúc đào nhọn hoắt với vẻ thoải mái vừa đủ và nói chuyện gẫu với chú bé.
Người đàn bà trầm tĩnh tiếp tục ngồi giữa đám cỏ cây, đợi xem điều gì sẽ xảy ra, và xem liệu mình biết làm gì. Tim bà đập thình thịch vì người đàn ông ấy. Vì bất cứ ai. Những người lạ ở sát kề ta thường nom hết sức đồ sộ. Vì thế bà sợ hãi đợi anh ta ngẩng đầu lên.
Anh ta ngẩng đầu, lay động bụi hoa vân anh. Người đàn ông chính là Ray.
Trước khi hắn nhìn thấy bà, bà đã ngắm nhìn anh chàng sang trọng này mà một thời bà yêu quý. Đôi môi bà hé mở. Hắn thực sự sang trọng, giống một thương nhân.
- Kìa, chào mẹ, - Ray nói. - Ở đằng kia con không nhìn thấy mẹ.
Giọng hắn oang oang. Bàn chân hắn rụt lại, như thể giẫm phải một vật gì, một con chim hoặc một con mèo.
Amy nhìn quanh đám cây con của bà.
- Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi đây, - bà nói, - vào buổi trưa. Để sưởi nắng.
Chú bé tiến gần, nhìn cái người nó chẳng muốn chuyện trò nhiều hơn là với một cái cây hay một hòn đá.
- Ý nghĩ đó hay đấy, - Ray nói, như chế giễu bà cụ; có lẽ hắn sẵn sàng biến thành một cậu bé to béo, hiền lành. - Nắng mùa đông ư?
- Mẹ không ngờ lại gặp con, - tiếng bà thốt ra từ bên trong quần áo. - Con đến làm gì thế?
- A, thôi đi, mẹ ơi. - Ray nói. Hắn cố làm ra vẻ thân mật như kiểu các thương nhân lớn sang trọng cười ầm ĩ, đầy tự tin. Thế rồi hắn sực nhớ ra điều gì. - Tại sao lúc nào con cũng cứ phải rình mò cái gì đó của bố mẹ? Con không thể đến đây la cà được một tí sao? Con muốn đến đây nhìn lại cái chốn này một tí. Gần đây con cứ nghĩ đến nó luôn. Chỉ thế thôi.
Nhưng mặt bà đã tối xầm; bà đưa mắt nhìn những lá màu sẫm.
Tuy vậy hắn cứ tiếp tục nói.
- Con không nhận ra nơi này, - hắn nói, ý thức về bộ com-lê của mình. - Dạo này nom mẹ phát phì ra. Như thế sẽ khốn đấy mẹ à. Có việc gì không mẹ? Mẹ còn nhớ các tổ chim én không? Có một năm con đã lấy trứng và thổi vào bằng một ống thủy tinh, rồi đặt chúng vào một chiếc hộp các-tông, có lót bông xơ. Cho đến lúc chúng vỡ. Rồi chúng vỡ ra. Mẹ còn nhớ không?
- Không! - Bà nói.
Dù bà có nhớ hay không. Bà khẽ ngẩng đầu lên.
Đoạn anh chàng nhổ toẹt vào đám cây hoa vân anh.
Người hắn nom xọp hẳn và vàng như nghệ. Trong một vài hoàn cảnh, ký ức trở thành một tội ác.
Giống như một thương nhân, bà tự nhủ, rất khó chịu. Bà không cho phép mình nghĩ về chuyện đó, ngoại trừ sau này, lúc ngồi một mình. Mình sẽ không nghĩ ngợi gì về Ray, hay bất cứ ai khác, bà tự nhủ. Và thế là bà ngồi đấy.
- Con cứ nghĩ rằng con có thể nói chuyện với mẹ, - hắn nói như thể không có thằng bé ở đấy. - Song con không thể làm thế được.
- Thì ta vẫn chuyện trò đấy, - bà nói, - thường xuyên.
Nhiều hơn trên thực tế. Bà quẹt môi.
- Con chẳng mang gì về cho mẹ cả, - hắn nói.
Mặc dù thực ra hắn có mang. Một hộp chocolate to với chiếc nơ xa tanh màu hồng. Khi trao quà ta dễ dàng xin lỗi hơn.
Giờ đây hắn đang đứng kia, không có quà tặng, lúng túng.
Mẹ kiếp, hắn nghĩ bụng, ta chẳng hề đâm chém ai cả. Thế thì có chuyện gì ở đây? Có chuyện gì đây? Cả chốn này đang ngủ gà ngủ gật trong ánh sáng yếu ớt của mùa đông; những con bồ câu, loại chim đất sét kia đang đung đưa trên đôi chân. Nơi này đang thoát khỏi hắn. Ở đây ánh sáng sao mà lạnh lùng thế.
Bà cụ nhìn đứa bé một lúc, nó đang chăm chăm nhìn qua các cửa sổ của ngôi nhà để xem bên trong có gì.
- Thằng bé đấy, - Ray nói.
- Thằng bé nào?
- Con của Lola.
- Lola là ai? - Bà hỏi, tuy bà đã biết rồi.
Ray giải thích.
Bà nội nhìn thằng bé, hoặc nhìn phía sau gáy nó lúc này đang nóng rực.
- Con trai của bố, lại đây nào, - Ray nói, - lại đây cho bà nội xem nào.
Thằng bé bước tới. Nó ngẩng lên nhìn bà cụ. Nó rất đẹp trai. Nhưng nó đang mải nhìn một cái gì đó khiến nó sợ hãi.
- Đứa này không phải của tôi. - Bà cụ nói. - Đứa kia mới thật sự là của tôi.
- Nó là một đứa bé xinh xắn khỏe mạnh. - Người đàn ông nói.
- Khỏe với chả yếu, - bà cụ nói và đứng lên.
Bà bước vào trong.
- Ray ạ, con nên đi đi. - Bà nói. - Mẹ không muốn nhìn thấy con. Hay thằng bé. Mẹ phải chuẩn bị bữa trà cho bố con.
Đoạn bà đóng cánh cửa màu nâu lại.
- Đây là con trai của tôi, - Ray Parker hét lên. - Nó giống tôi như đúc.
Vì lý do đó, lẽ ra bà đã hôn thằng bé, nhưng bà chạy đi, và đang run rẩy bên kia cánh cửa. Hẳn bà phải yêu thằng bé kia và đã yêu thật sự, tuy nó hơi xanh xao, thằng bé mà bà đã cho nó mẩu thủy tinh gia bảo. Bà đang run rẩy.
Sau khi đã lắng nghe hơi thở của mẹ một lúc và nguyền rủa bà, người đàn ông rời cánh cửa.
- Thế thì ta đi thôi, - hắn bảo thằng bé.
Ăn mặc rất diện, hai bố con đi chầm chậm đến chỗ đập nước được xây bên rìa những gì còn lại của cơ nghiệp gia đình Parker. Những ai đến chốn này đều nom ngớ ngẩn; hai người cứ tha thẩn trong khi người đàn ông suy nghĩ. Chiều hôm ấy thằng bé cũng trầm tư, sau khi nó đã nghe nhiều điều.
- Thằng bé kia là ai thế hở bố? - Nó hỏi.
- Này, - bố nó nói. - Bố con ta thi ném thia lia xem ai được nào?
Người đàn ông nhặt một hòn đá.
- Ném thế nào? - Thằng bé hỏi.
- Trên mặt nước, - Ray Parker nói.
Hòn đá hắn ném phạt trên mặt nước màu nâu, bay thia lia, tung bọt nước. Hắn ném rất nghệ, nhưng sau đó đứng thở hổn hển. Hắn thở không ra hơi.
Thằng bé, nãy giờ nhíu mày nhìn mặt nước, bỗng rạng rỡ lên, nó nhặt từng vốc đá, nhặt lấy nhặt để, khi đã được một đống tướng, nó bắt đầu bắt chước làm theo bố. Chỉ có điều là đá nó ném đều rơi tõm xuống nước. Nhưng nó vẫn tiếp tục ném, có lúc ngỡ là mình ném thành công. Nó cười ầm ĩ khi một hòn đá đã chìm nghỉm. Nó nói:
- Hòn kia suýt nữa hơn bố rồi đấy, bố ơi!
- Cứ tiếp tục đi, - người bố nói, - cứ tiếp tục đi rồi con sẽ giỏi thực sự.
Thật khốn khổ, hắn cảm thấy vậy.
Thế rồi người đàn ông lòe loẹt, béo mập, vẫn còn thở dốc và tư lự, bỗng ngồi xuống, trong khi thằng con của Lola vẫn tiếp tục ném đá.
Ở đây hình dáng cây cối và hàng rào quá tách bạch khiến Ray cảm thấy mơ hồ. Hắn đã sống đến cái giai đoạn mà người ta nhận ra mình chẳng có gì cả. Người đàn ông trong cảnh quan xa lạ này cảm thấy hãi hùng trước vẻ cách biệt của nó. Bầu trời nhàn nhạt và đáng yêu lẩn tránh hắn. Những búi cỏ màu đồng thau mà ngày còn bé hắn thường lang thang trong đó vẫn im lìm. Chẳng có gì ở đây cả, hắn tự nhủ, dùng những chiếc răng cải mả lôi mạnh một lá cỏ trên đường.
Đầu óc hắn bắt đầu sục sạo xung quanh, từ cái chốn lạnh lẽo này vào trong cái thế giới mà hắn tạo dựng nên, như một cái gì đó có ý nghĩa và thực chất. Lúc này hẳn là Lola đã thức dậy sau cơn đau đầu. Họ thường ăn một miếng bít tết và vài ba miếng sườn. Hắn thích mỡ, thích mùi thịt bò khi nó bốc lên trên bếp ga và tỏa mùi thơm đến tận cầu thang. Hắn thích cái mùi của tờ báo buổi tối, tất cả các mùi buổi tối, khi lên đèn, quanh khúc đường cong và dưới đường tàu điện xoẹt xoẹt tia lửa màu tím, trải theo những sợi cao su nóng bỏng dài vô tận. Thảng hoặc, tận đêm khuya, khi trở lại với bộ mặt gầy trơ xương và mọi cảm giác đã tê cứng, người nàng thoảng mùi phòng khuê chăn ấm. Lúc đó bộ mặt màu xám của ban đêm hiện ra lù lù. Tro đã rơi xuống. Cái chứng đau đầu khốn kiếp trở lại, nàng tự nhủ, nhưng ta sẽ uống vài viên aspirin là khỏi ngay. Chiếc giường kêu cót két dưới cặp đùi xám xịt. Những con hàu bị vứt bỏ đã lâu rồi.
- Bố ơi, - thằng bé bắt đầu co kéo và khóc nhè. - Sao không về nhà hở bố, con đói rồi. Bố?
- Đúng rồi, - Người cha nói. - Con có thích ăn cá không?
Hắn bắt đầu dứt khỏi trạng thái không tự nhiên khiến người hắn tê cứng. Hắn khạc nhổ, rồi dùng cạnh bàn tay làm lõm cái mũ, chuẩn bị cho một giai đoạn mới, hay hâm lại một giai đoạn cũ.
- Cá? - Thằng bé hỏi. - Cá đâu? Làm gì có cá ở đây?
- Được rồi, dọc đường ta sẽ kiếm một ít, - Ray Parker nói. - Ở một nơi nào đó.
Hai bố con bắt đầu đi dọc theo con đường trở lại Durilgai, chân mang giày vàng bóng lộn.
- Con mê… ệt… - Đứa con khóc nhè.
- Con không đi thì sẽ không có cá đâu, - Người bố nói.
- Cá! Con không cần cá. Con mê… ệt…
Từ một cửa sổ màu vàng Amy Parker theo dõi diễn biến này, căn phòng bên trong tối om, chỉ nghe thấy tiếng đồng hồ tích tắc. Ta có nên ra không? Bà tự nhủ. Họ chậm quá. Bụi đường chậm, chiếc đồng hồ chậm chạp tích tắc trong mạch máu bà. Nhưng khi người đàn ông và đứa bé dâng lên đến cổ họng bà, bà vẫn đứng yên. Thằng bé có cái mồm của Ray, đang hôn lên chiếc đồng hồ cẩm thạch, hay đang ngủ. Bà vẫn đứng. Ray đã đi thực sự rồi, hay bóng tối buông xuống, và cái gì đó đang cháy trong lò.
Khi bà suy ngẫm về sự việc này, giữa đám cây con bà chăm bón, vào những buổi trưa mùa đông thanh vắng, bà băn khoăn không rõ mình hành động có đúng không. Bà bao giờ cũng đi đến những kết luận khác nhau, vào những buổi trưa khác nhau.
Cuộc viếng thăm bà thứ hai vào mùa đông năm ấy hoàn toàn khác hẳn. Nó không làm đau lòng mà làm khó chịu. Nó thật bất ngờ, mà Amy Parker đã hết thích việc đó rồi, trừ khi bản thân bà chính là điều bất ngờ. Ngay cả nếu đột nhiên bị bắt gặp trong gương, bà cũng không thiết. Ta có giống thế không? Bà tự hỏi, và cố gắng nhớ lại mình trước đây, nhưng luôn luôn mơ hồ.
Dù thế nào đi nữa, Thelma đã đến, lái xe vào buổi trưa, và điều này rất bình thường.
Thelma bước vào và nói:
- Mẹ khỏe không, mẹ thân yêu?
Như thể nàng đang chờ đợi mẹ nàng ốm.
- Mẹ khỏe, cảm ơn, - bà cụ nói, giọng gay gắt.
Thelma ăn mặc rất diện. Xưa nay ít ai chú ý đến áo váy của Thelma, vì nó sang nhưng quá kín đáo. Bây giờ thì chính mẹ cô lại thấy cô quá diện.
- Con đưa một người bạn đến, - Thelma Forsdyke nói. - Bạn con rất nóng lòng muốn gặp mẹ.
Đó là một người bạn hết sức bất lương, bà cụ cảm thấy thế.
- Bạn nào? - Bà nghi ngờ hỏi.
- Đó là một mệnh phụ, - bà Forsdyke nói. - Đó là bạn con, bà Fisher.
Một mệnh phụ bất lương, đây là điều tệ hại hơn. Bà cụ bèn đứng lên khỏi cái ghế sâu nãy giờ vẫn ngồi một cách dại dột. Đứng dậy thật kinh khủng, nếu không phải bắt buộc. Do đó bà phải gắng gượng.
- Kìa, mẹ chẳng cần phải lo. - Con gái bà nói, nàng muốn trói tay trói chân mẹ mình, nàng thích kiểm soát mọi người, rồi tỏ ra uy quyền và tử tế.
- Con mang đến cho mẹ một hộp bánh con. Chẳng cần phải làm nhặng xị lên, - nàng nói.
- Đến chơi nhà, - Amy Parker nói, - mẹ sẽ phải làm một mẻ bánh nướng. Con thấy có nên cho bí không, hay bà ấy thích bánh chay?
- Con hoàn toàn chẳng biết gì cả, - Thelma Forsdyke nói. - Không cần thiết.
- Nhưng bà ta là bạn của con.
- Tình bạn không thể nuôi dưỡng bằng bánh nướng, mẹ ạ. Chúng con có chung sở thích.
Thật là khó xử. Bà Fisher rõ ràng cũng đang đến gần, ung dung, nhưng tự tin.
- Tôi có phải vào không? - Bà hỏi.
Và bước vào.
Bà Fisher lúc này khá già, hay có lẽ chưa già lắm, khó mà nói được. Song bà ta không còn trẻ nữa.
- Bà Parker ạ, chúng tôi quấy rầy bà, - bà ta nói với một nụ cười khoan thai. - Tôi thấy rõ là bà không thích những điều bất ngờ. Tôi cũng thế. Dẫu sao cũng trong những chuyện nhỏ. Nhưng nếu cần phải có một sự bùng nổ thực sự, có khói mù và lửa ngọn, thì cứ để nó bùng nổ bất ngờ. Như thế có thể làm phấn chấn lòng người.
Mồm bà đỏ chót.
Thelma Forsdyke không hài lòng về cảnh tượng đó. Những mối ngờ vực trước kia trở lại với nàng. Dù biết rõ những chuyện đó là chính đáng nàng cũng chẳng vui tí nào. Nàng có thể hy sinh mẹ nàng chứ không thể hy sinh bạn được.
- Vậy mời bà ngồi, - Amy Parker nói, - để tôi còn chuẩn bị bữa trà cho cả nhà.
- Cảm ơn, - bà Fisher nói. - Xin thật nhiều trà ngon. Một trong những điều tôi dám chấp nhận. Khi tôi ngồi một mình, điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra ở cái tuổi của tôi, tôi luôn luôn uống cạn một ấm trà.
Để một món đồ lông thú nhỏ bẩn thỉu rơi xuống sàn nhà bên ghế bà. Món đồ nhỏ đó thực sự là lông chồn, nhưng Fisher phu nhân chủ trương quên điều ấy.
Thelma thì không thế, nàng chạy đến nhặt nó lên và chải sạch. Nàng run sợ cho sự liều lĩnh của bạn, và sự thiếu liều lĩnh của bản thân mình. Bà Fisher dĩ nhiên đã quen cái trò này lâu rồi, bà giàu hơn kẻ giàu, và đủ khả năng để quên.
- Tôi sẽ làm ít bánh nướng, - Amy Parker nói, thôi nhìn ngắm căn phòng của mình mà nhìn lên sân khấu, trên đó các nữ diễn viên hoạt náo nói những lời thoại lạ lùng đang vào vị trí.
Bà Fisher rạng rỡ.
- Bánh nướng à? Chúng ta dám ăn ư? - Bà hỏi bạn mình.
Nhưng Thenlma đã quên câu trả lời. Nàng đã biến thành hai người trong phòng này, chơi đổ xí ngầu cùng nhau. Nàng bối rối.
- Tại sao? - Bà Parker hỏi. - Bà không được phép ăn bánh nướng sao?
- Ồ, - bà Fisher nói, - để giữ dáng thôi. Bao giờ cũng chỉ có thế.
Da của bà ta khô khốc. Trên một bên má, đôi lúc nhăn lại thành tật máy giật, hình như có một vệt ram ráp nhỏ, không phải là mùn cưa, điều này không thể có được, nhiều khả năng là phấn dính vào lông tơ làm ngứa ngáy. Song bà Fisher không dám liều lĩnh. Ngay cả đối với mẹ của bà Forsdyke bà cũng giấu khuyết điểm của mình, bằng cách phô bày cái tốt, để cho người ta chỉ nhìn thấy mặt nghiêng, giống như con vẹt bà đeo. Đó là một chiếc trâm cài áo bằng vàng đã cũ nhưng rất thanh tú, men ánh lên ở đuôi con vẹt, một viên ngọc đỏ làm mắt, một dây chuyền vàng đeo từ mắt cá chân con vẹt đến cái thanh đậu màu vàng.
Lúc này bà Parker nhìn thấy chiếc trâm cài áo, bà bước tới, như nhiều trẻ con vẫn thường làm, và nói:
- Ôi chao, chiếc trâm cài áo đẹp quá! Thật đáng yêu.
Bà Fisher ngước mắt lên. Đôi mắt của bà vẫn còn trong sáng. Làn da của bà có thể sẽ tươi tắn lại trong con mắt của người thán phục. Miệng bà đã ướt. Bộ máy duyên dáng đang hoạt động. Bà nhoẻn miệng cười với bà Parker.
- Chiếc trâm cài áo ư? Vâng, - Bà nói. - Nhưng trở lại câu chuyện bánh nướng. Thật tình tôi rất thích ăn, rất nhiều bánh nướng của bà.
Bởi vì bà biết là trong chuyện tán tỉnh, giới tính không quan trọng.
Bà Parker sợ rằng cơn sốt ấy có thể lây lan.
- Chỉ là bánh nướng thường thôi, - bà nói, xoay xoay chiếc nhẫn to trên tay.
Bà Forsdyke cười cay đắng:
- Bạn sẽ trở thành bạn của mẹ mình suốt đời.
Người phụ nữ trát phấn này oán giận vẻ duyên dáng. Vai nàng gầy và hẹp, hai bàn tay dài và hai bàn chân hoàn hảo. Mọi bằng chứng cho sự thán phục của người khác dành cho nàng đều là lời chế giễu. Thế là nàng ngồi xuống. Liếm môi. Mái tóc nàng thò ra vài lọn dưới chiếc mũ không còn hợp thời trang nữa, cùng với tuổi tác tóc nàng trở nên như phủ một lớp bột. Da của nàng đã ngả màu sữa, không ốm o nhưng đầy vẻ bực dọc. Nàng không phật lòng về bất kỳ điều gì nói trên.
- Mẹ làm bánh nướng đi. - Nàng nói như đuổi. - Còn con sẽ đi tìm ấm chén.
- Tôi chẳng cần ai giúp đỡ, - Amy Parker nói, - trong bất cứ việc gì.
Bà đã nổi giận về một việc gì đó, tuy bà không biết rõ là việc gì.
- Bà lão thật buồn cười, - bà Forsdyke nói khi bà mẹ đã đi khỏi.
- Khá dễ thương, - bà Fisher thở dài, cảm thấy thư thái.
Bà nhìn quanh ngôi nhà của một người khác.
- Ngôi nhà này. Thế này mới gọi là phòng chứ. Quả là hấp dẫn khi nhìn thấy người ta sinh hoạt. Thelma thân yêu, rất cảm ơn bạn đã đưa mình đến đây.
Thelma rụt người lại. Nàng không vui tí nào.
- Đây chỉ là một căn phòng giản dị, - nàng nói.
- Còn gì quý hơn sự giản dị, - bà Fisher nói.
- Xưa kia tôi ghét nó lắm.
- Dĩ nhiên. Cái gì gần gũi với mình thì mình hay ghét, - bà Fisher nói.
Bà tựa đầu vào tay. Bà đi guốc trong bụng bạn.
- Nhưng đồ đạc xấu có khi lại hấp dẫn nhất, - bà nói tiếp rồi mỉm cười. - Chúng có nét thực.
- Có phải bạn thích thú mọi thứ không? - Thelma cáu tiết hỏi.
- Đúng thế, - bà Fisher nói. - Phải thích thú chứ, không thì chán lắm.
Forsdyke đã hết hơi vì đối đáp không ngừng với bà bạn đáng kính. Nàng nói mặc dù mẹ nàng đã ra lệnh nhưng nàng vẫn sẽ lẻn vào bếp xem sự thể thế nào. Sự thiếu vắng bản thân đã theo đuổi nàng suốt hành lang. Từ lúc thú tội với mẹ nàng cảm thấy hết sức khổ sở.
Bà đứng ở bên bàn với cái chậu nhào bột, cái chậu có kẻ sọc. Người bà dính đầy bột.
Amy Parker không nói.
Bà đang nhào bánh nướng.
Thở hổn hển.
Quãng thời gian ngắn ngủi ở một mình trong bếp, bà cố ghép nối lại các mảnh sáng ngời của bà khách, bởi vì chúng ào xuống như những trận mưa rào, của lời nói, của cái trâm cài áo tráng men, nhưng bà không đương đầu nổi vì người bà mềm nhũn, bà va vào đám đồ gỗ, những thứ đồ gỗ nhẵn bóng sau bao nhiêu năm tháng. Một lần bà va mạnh vào chiếc rây, khiến nó rơi xuống kêu lẻng xẻng. Bà nhặt nó lên. Chiếc váy của bà bị vướng gấu vào chiếc áo lót bên trong. Thế nhưng, đôi lúc, nhất là chiều tối, bên phía nhà có mấy bụi trà hoa lâu đời, tâm trí bà phiêu diêu, đi đi về về, thăm lại những hang động tối tăm, hoặc trong hiện tại, thì giải quyết một vấn đề nào đó cho chồng nếu ông nhờ đến. Bà đứng đấy nhấm nhấm mấy cánh hoa non của đóa hoa trà, và lúc đó bà nhận ra thơ ca nếu bà nghe thấy.
- Mẹ không biết bà ấy thích món gì, - bà nói với con gái, khi thấy cô đi vào.
- Con đã bảo mẹ là chúng con không muốn phiền mẹ, - Thelma nói.
- Thế nhưng, - bà mẹ nói, - kỳ vọng là lẽ thường tình của con người. Con quen bà này đã lâu chưa?
- Lâu rồi. Nghĩa là đã mấy tháng nay. Như thế cũng khá lâu rồi đó. Người ta đến rồi lại đi.
- Ở đây chúng ta quen nhau cả đời, - Amy Parker nói.
- Trong cuộc sống của con, - Thelma nói, - thì hoàn toàn khác.
Nhưng Amy Parker suy nghĩ về bà khách. Lúc này bà ta đang nhìn gì trong phòng này nhỉ? Chỉ ngồi không thôi. Bức rèm thả lưng chừng. Bên trong là một màu xanh lá mạ. Một số người bất di bất dịch khi ngồi lại một mình. Họ khép mí mắt lại. Nhưng con người này thì sẽ biến thành một hình dáng khác. Và hình dáng của bà ta cuối cùng sẽ là gì, nếu không phải là ánh sáng hay tiếng leng keng?
Bà cụ đang đặt bàn tay vào lò để xem bánh ra sao, bà đã quên bẵng là con gái bà đang đứng đấy. Giờ bà vẫn hay quên mọi người, trừ phi cần thiết cho suy tư và tưởng tượng.
- Mẹ không biết, - bà nói, - người ta đeo châu báu cho lắm vào để làm gì. Họ chẳng nhìn thấy kia mà. Mẹ thì chỉ thích bày chúng trong hộp để ngắm nhìn rồi cất đi. Như thế mới là châu báu của mình chứ. Như thế mới rực rỡ chứ. Nhưng chiếc trâm áo phía trước kia thực là rực rỡ.
- Mẹ ngưỡng mộ nó là phải. Bà Fisher được thán phục vì những châu báu của bà ấy đấy. - Thelma nói giọng bất lực. Bản thân nàng không dám đeo đồ trang sức, sợ mất hoặc bị đánh cắp.
Song bà Amy Parker rất tức giận. Bà “phì” một cái.
Bà giận sự thán phục và khát khao của bà. Bà không biết nhiều thứ. Bà không biết cái đèn chùm, và bà đã thoát khỏi một cơn say.
Bà Fisher, ngược lại, biết rất nhiều thứ. Lúc này bà ngồi nhưng không đợi, ngồi trong căn phòng kia cũng đủ lắm rồi, hình như nó tạo cho bà một cái túi mà bà muốn được chui vào. Bà khởi đầu bằng việc tìm hiểu đàn ông. Trước kia bà thích những người đàn ông khỏe như ngựa, những người nom mạnh mẽ, sặc mùi xì gà và sáp bôi đầu, cho đến khi bà ngờ là thể xác họ yếu ớt. Sau một thời gian đắn đo và khước từ, bà đã lấy một người buôn vải giàu có; ông này cũng sưu tập cả đồ gỗ, đồ quý hiếm và những bức tranh về rau quả. Ông ta hơi trầm tư, bà hối tiếc, nhưng chẳng làm gì được, đó là cung cách của ông ta. Bà Fisher tiếp tục tìm hiểu đàn ông. Bà đã ngủ với một vài nhà khoa học. Bà có thể nghe giảng lý thuyết. Bà từng quen một nhạc sĩ và có thể thảo luận về Bach kỹ càng. Cần thiết phải trao đổi nếu ta muốn lấp các lỗ hổng, và tuổi già là lỗ hổng gần cuối. Bà Fisher đã học hỏi như thế đó. Bây giờ bà có thể tỏa sáng những khi trò chuyện, như kim cương, trên gác thượng nhà bà vào ban đêm, buộc chặt khách khứa bằng ngôn từ, nhíu mày gạt những con ngài và những tua hoa nhài lạc vào khuôn mặt trau chuốt của bà. Một số đàn ông nước ngoài vẫn hôn tay bà. Nhưng bà chỉ trở lại với ngôn từ. Hoặc trở lại với những chàng trai có đầu óc Byron[7]. Bà rất khoái những mối quan hệ vui vẻ với các anh chàng nghệ sĩ trẻ mà những yêu sách của họ có tính chất làm cảnh. Khi họ bám quanh bà như một nhóm riêng tư, còn bà thì nuôi dưỡng họ bằng tài trí của họ, các chàng trai ấy đe dọa sẽ gãy hông. Cái thứ cổ lỗ sĩ. Họ chỉ đơn thuần ngưỡng mộ bà.
[7] George Godon Byron (1788-1824), nhà thơ lớn nước Anh.
Tuy nhiên, đôi khi cái toán học, cái cơ học của sự ngưỡng mộ khiến bà Fisher phát ngán. Một lần, trên con đường có mái vòm mà họ đi vào để chọn một vài chiếc bánh con, loại bánh chưa ai phát hiện ra, bà đã trốn khỏi bà bạn Forsdyke trong khi bà này đang mải ngắm bánh. Bà Fisher chạy trên đôi chân mảnh dẻ vào lối đi dài dưới vòm thủy tinh, xuyên qua ánh sáng vàng nhạt, như thể bà có được một cái gì đó để che chở. Có một đợt hai người bạn đùa cợt mãi về chuyện bà Fisher đã đi lang thang và lạc đường trong khi mua sắm.
Bây giờ bị bỏ rơi trong căn phòng đầy bàn ghế, bà nhớ lại sự cố này, cùng bao nhiêu hoàn cảnh khác mà trong đó đôi chân bà hoạt động, ước gì ta có thể nhớ lại rõ ràng, bà tự nhủ, nhưng liệu ta có đủ trung thực không? Bà ngồi xuống, nhắm mắt lại, và nhíu mày, khiến bà có một vẻ đen tối bên trên cái mũi. Bà cố nhớ lại bản thân hồi con gái, nhưng tất cả những gì bà thấy được chỉ là một chiếc váy bằng xa tanh, với một chuỗi hạt, đúng thế không nhỉ? Đúng thế, bao giờ bà cũng chải chuốt. Cố nhớ lại cái ý niệm đầu tiên của mình về cuộc đời, bởi vì bao giờ cũng có ý niệm đầu tiên, mà kinh nghiệm không thể làm tăng thêm được, nếu không bị lẫn lộn. Bây giờ sự lẫn lộn đã làm mờ tầm mắt. Bà cũng chẳng nghe thấy giọng nói của mình. Tuy ở một thời kỳ nào đó bà đã nói những điều ngây thơ, lầm lạc, những điều thậm chí đã phơi bày tất cả.
Khi bánh nướng được mang lên, và mấy cái chén bên trên cắm mấy bông hoa păngxê, cùng một bình trà mạ bạc bị mẻ một bên, bà Fisher mở mắt ra rất nhanh, phóng mắt vào gian phòng, rồi xoay người, ngời sáng như ngọn đèn pha sục sọi.
- Bà Parker ạ, - mắt bà lóe lên. - Tôi đã ngồi trong phòng bà, một căn phòng hoàn hảo, và rất thấu hiểu bà. Tôi biết bà tường tận.
- Thế thì bà biết hơn tôi đấy, - bà Parker nói, mừng thầm là lúc ấy bà có mấy chiếc đĩa để làm một cái gì đó và bà đã làm.
- Christine này, bạn hãy thuyết phục bà cụ rằng bản chất của mình là chân thật đi. - Bà Fisher mắt ánh lên, ra lệnh.
- Christine?
Bà Parker ngẩng lên nhìn. Thật bất ngờ, cái gì thế này?
Nhưng Thelma đỏ mặt. Đó là điều bí mật mẹ nàng dĩ nhiên không biết, như con gái vẫn hay giữ bí mật. Đó là trò tiêu khiển của họ. Thư từ, hoa ép, và tên. Cái tên này chẳng có gì xấu hổ, trừ khi bị tiết lộ một cách nhẫn tâm cho những người họ giấu giếm. Nàng dành riêng tên ấy cho bạn bè, hay đúng hơn là cho người quen, những người đột nhiên được hưởng tước vị cao, với họ nàng sống trong nỗi kinh hoàng, nơm nớp sợ họ cắt đứt quan hệ vì một lý do nào đó. Vì thế nàng dành cho họ cái tên Christine, như là một bảo đảm cho mối thân tình. Vả lại, nàng ghét cay ghét đắng cái tên Thelma hơn bất kỳ một cái gì vận vào người nàng. Cái tôi trần truồng có thể là cái đáng ghét nhất.
- Chỉ là một cái tên, - bà Forsdyke gầy gò nói, giả vờ ho để lảng đi, - một cái tên mà bạn bè con thường gọi.
- Ồ? - bà mẹ nói, hạ thấp giọng.
Nhưng Thelma vẫn là Thelma.
Thelma khốn khổ. Bà cụ ngồi đấy, chính bà cũng đỏ ửng, mỉm cười trước những điều kỳ lạ này, bơ từ những chiếc bánh nướng ngon lành nhỏ giọt xuống giữa những ngón tay bà. Con bé dại dột, bà tự nhủ. Rồi bà liếm các ngón tay và tỏ ra thích thú.
Trong khi họ cắn bánh ăn, nhe răng một cách khéo léo, hai người khách bắt đầu bàn tán về Mabel, người vừa lấy một ông quý tộc nào đó. Mabel, bà cụ đoán, vẫn nghèo túng tuy có nhiều ô tô.
- Bởi vì lão ta đối xử với chị ấy quá tồi tệ, - bà Fisher nói.
- Nhưng chỗ ấy đẹp lắm, - bà Forsdyke gợi ý một cách dè dặt.
Nàng không quen biết Mabel nên chỉ nói hú họa, thậm chí liều lĩnh, nhưng nàng thích thú với cái trò hú tim này.
- Ồ, chỗ ấy, - bà Fisher nói, - tuần trước chúng tôi đánh xe xuống đấy thăm họ nhân dịp đi qua đó. Mabel tội nghiệp mà nghe thì hẳn tự ái. Chỗ ấy thật là, thôi, bạn có thể đoán được rồi. Chỉ toàn gỗ sồi và cầu thang. Nếu bạn thích sồi.
Bà Forsdyke, xưa nay vẫn nghĩ rằng mình thích, bây giờ chỉ ậm ừ buồn thảm.
- Nhưng giờ họ ở Antibes, - nàng nói.
Đúng ra là nàng đã đọc trên báo.
- Ở Antibes, - bà Fisher dài giọng. - Ở biệt thự Bồ Câu Xanh. Đúng rồi. Mabel tội nghiệp đã viết một trong những lá thư nổi tiếng của chị ấy. Họ đã đọc giống như đọc giờ giấc ghi trên xe buýt. Nghe êm tai lắm. Chết là ở chỗ đó. Ở biệt thự Bồ Câu Xanh, - bà hét lên, - quả là điên rồ. Mùa đông ở biệt thự Bồ Câu Xanh thật tuyệt trần. Nó quá nguyên sơ. Nhưng về mùa hè, như chúng ta đều biết, hôi lắm.
Bà Forsdyke co người lại. Chẳng bao giờ nàng có thể ganh đua với bạn được. Chẳng bao giờ nàng biết.
Trong nỗi khốn khổ nàng bỗng nghĩ đến chồng. Không lý do nào có thể giải thích thỏa đáng tại sao vợ chồng Forsdyke chưa hề sang châu Âu. Nhưng họ chưa hề đi thật. Như thế Thelma bị đặt vào một thế trái cựa, hay bị phục kích về mặt đàm thoại, mà nàng đã thoát ra khỏi một cách yếu ớt.
- Dĩ nhiên, - nàng nói. - Mùa hè ở miền Nam nước Pháp quả là có mùi. Hãy cho tôi những bãi biển xanh cát sạch. Dòng máu Ăng-lê của tôi thế đấy.
Nhưng bà Fisher đã khép lại. Bà căm giận quá không nói thêm được nữa. Vả lại miệng của bà tạm thời biến mất. Khi bà đặt nó trở lại, sờ lên mái tóc, mái tóc màu đỏ khi ra đời và càng đỏ hơn vào cuối đời, bà dịu dàng, thận trọng nói:
- Chẳng điều nào là lý thú đối với bà Parker tội nghiệp cả.
Bà cụ không thể nhã nhặn phản đối rằng không đúng như thế, vì vậy bà ngồi không yên, nhìn hết người phụ nữ này đến người phụ nữ kia, những con người khô khan bà đang ngồi cùng. Một người là con gái bà và có thể xem như chỗ quen biết theo các tiêu chuẩn đã được chấp nhận, nếu không dựa trên thực tế. Người đàn bà thứ hai khiến bà Parker bực mình, như những giấc mơ thường làm bà bực mình, vì chúng đến không đúng lúc và chẳng bao giờ hiện nguyên hình vào buổi sáng hôm sau. Đây là một giấc mơ sáng chói, một giấc mơ trêu ngươi bằng những nụ cười, những chuyện cổ tích và những cử chỉ tử tế bất ngờ, chứ không chịu đứng im để người ta khám phá ra cái ý nghĩa bí mật của nó.
Bà Parker nhấp nhổm trong chiếc ghế nóng và nói:
- Tôi vui mừng là bà và Thelma có rất nhiều cái chung, bạn bè và vân vân, để nói chuyện với nhau.
- Mặc dù rất có thể bà cũng biết con người mà chúng tôi đang bàn tán với nhau, - bà Fisher ân cần nói. - Đó là Mabel Armstrong. Trước đây họ sống trong quận này. Cơ ngơi của họ có tên là Glastonbury.
Bà Fisher đã ngán về sự tiết lộ này. Bà đang tìm găng tay và vui mừng có được tấm lông thú để cọ người vào. Bà không thể ngồi mãi trong gian phòng xấu xí này.
- Dĩ nhiên là tôi biết gia đình Armstrong, - bà Parker nói với giọng kẻ cả, bởi vì cái quận này và quá khứ là hai thứ mà bà gìn giữ lại. - Ông Armstrong là người mà tôi biết rõ nhất. Nhưng tôi thường để ý đến các cô con gái và nói chuyện với họ.
- Đó là một ngôi nhà xinh đẹp, - Bà Fisher nói, giọng bà vỡ ra.
Bà đang xem xét đôi chân gầy guộc đeo tất chỉ để ra vẻ.
- Nó gần như đã tan tành, - Amy Parker nói một cách thô bạo.
Bà cảm thấy đôi môi căng lên, lộ màu mận chín, trên khuôn mặt đầy đặn và vẫn còn ham muốn nhục dục của bà.
- Vì chẳng có người chăm sóc. Bà nên đến mà xem, - bà nói, bởi vì người phụ nữ này đã nắm thế thượng phong. - Dây nho bám từng mớ lấy ngôi nhà. Rễ cây chọc thủng sàn gỗ.
Chính bà đang đi ngang nó, đã lay động nó một cái.
- Buồn lắm, - Thelma nói, vừa đứng lên, và nhận thấy mình chẳng vui vẻ gì, nàng chưa bao giờ vui vẻ, trừ phi nàng có thể dự kiến trước.
- Cả một cơ ngơi như thế. Bà Fisher hồi con gái đã từng ở đấy. Có phải thế không, Madeleine?
Madeleine đang đứng lên từ đống tro tàn.
Bà Parker hít thật nhanh qua kẽ răng.
- A… a, - bà nói. - Hóa ra là bà. Madeleine!
Fisher đứng thẳng lên không cần ai giúp đỡ, chọn ngay một trong những tư thế xưa nay bà vẫn nổi tiếng vì nó. Bà nói:
- Thế nào? Chúng ta đã gặp nhau rồi sao?
- Không, - Amy Parker nói. - Không hẳn thế. Ngày trước bà vẫn cưỡi ngựa trên các đường lộ. Một con ngựa ô. Bà mặc một chiếc áo khoác ngoài màu xanh cổ vịt, hình như thế, dù sao thì cũng màu sẫm.
- Quả là tôi có một chiếc áo choàng màu xanh sẫm, - bà Fisher quá đỗi thích thú nói. - Rất diện. Tôi thường cưỡi ngựa đi khắp nơi. Tôi thường được mời đến nghỉ tại các trang trại ở nông thôn. Nhưng tôi chẳng tài nào nhớ được những con đường bà vừa nói đến. Bà Parker ạ, con người ta chẳng làm sao nhớ được mọi thứ trên đời này.
- Tôi thì nhớ, - bà Parker nói, mắt ngời sáng. - Tôi cho rằng tôi nhớ được.
- Quả là một tai họa khủng khiếp, - bà Fisher tuyên bố.
Amy Parker đứng lên, động tác của bà chậm lại bởi ký ức, và điều này tạo cho bà một tầm vóc.
- Bà còn nhớ những đám cháy ngày ấy không? - Bà nói giọng đắc thắng. - Đám cháy rừng? Và ngôi nhà bốc cháy?
Hai người kích động trong tiếng nhạc lửa vừa được gọi hồn về.
- Có, - bà Fisher nói.
Amy Parker định tiếp tục bốc cháy hừng hực, từ hồi còn trẻ bà chưa bao giờ nồng nhiệt đến thế, nhưng người kia không muốn thế, sợ mình sẽ bị thiêu cháy ngay.
- Cũng đáng hồ hởi theo cách của nó, - bà nói, vừa rũ người. - Như bà biết đấy, suýt nữa tôi đã chết luôn trong đám lửa. May mà có người đưa tôi ra.
- Tôi chỉ còn nhớ mang máng đám cháy ở Glastonbury. Hồi ấy tôi còn bé quá, - bà Forsdyke nói.
- Mong bà vui lòng đừng nhắc đến những sự thực làm gì. - Bà Fisher cười vang khi hai người miễn cưỡng bước ra.
Amy Parker theo họ ra khỏi phòng. Bà đi dép lê, vì không kịp thay giày. Bà nhớ lại cô gái xấu xí tóc bị cháy xém.
Bà hoàn toàn không thể xóa tan cái hình ảnh yêu kiều của Madeleine, vốn là vậy. Thế là thơ ca, sau khi đã được tận dụng hết, phải ra khỏi hệ thống. Phải loại trừ nó, như loại trừ mật đắng, nếu cần.
- Ngôi nhà trước kia ở đâu đó đằng ấy, - bà Fisher đứng trên bậc thềm nói, ngần ngại không dám bước ra khu vườn lạnh lẽo. - Ta đứng đây có thể nhìn thấy không nhỉ?
Nhìn đằng sau bà nom già hơn nhìn đằng trước.
- Bây giờ thì không nhìn thấy đâu, - Thelma nói. - Cây cối đã mọc lên rồi.
Hình như bà Fisher định cố kiễng chân, như thể cơ bắp của bà vẫn còn tốt, nhưng bà Forsdyke đã đặt bàn tay bên dưới khuỷu tay bà, và bà đã thay đổi ý định.
Thelma Forsdyke nom nhợt nhạt hẳn. Nàng có thể yêu những ai phụ thuộc vào nàng, thừa hưởng sức mạnh từ sự yếu đuối.
Dưới bầu trời ấy, bầu trời có màu tử đinh hương ở những nơi nào nó chưa tan biến đi, mấy người đàn bà xuôi theo con đường gạch cũ, mà trên đó rêu đã mọc đầy như những chiếc đệm lót con bằng nhung sẫm. Ngoại trừ tiếng chim trong trẻo, khu vườn im lặng như những người đàn bà đang đi trong đó. Một mặt, những người đang ra đi chưa nhận thức được bản thân họ một cách đầy đủ, nhưng có lẽ sẽ làm được điều đó, nếu thời gian đứng vững. Mặt khác, con người vẫn còn đó, con người không chịu từ bỏ ngay cả sự khó chịu của bầu bạn, đã tạo một thói quen trong một thời gian ngắn.
Ngay sau đó một cụ già từ phía khác của khu vườn bước đến, rạp mình dưới những cành cây, rẽ lối qua lùm cây bụi. Ông mặc chiếc quần màu xanh nhăn nhúm ở mắt cá; nhìn chung quần áo ông rộng rãi, thoải mái. Khuôn mặt ông nhăn nheo, mang màu da cam dưới ánh chiều. Ông cụ già giống như da thuộc bước tới trên nền đất ẩm ướt. Từ mảnh đất mà ông giẫm lên, bốc lên một mùi ẩm ướt nhưng dễ chịu.
Amy Parker nghển cổ lên. Lông mày bà lấp lánh. Chúng vẫn rậm và sẫm đen.
- Đây là chồng tôi, - bà nói.
Thelma hôn ông cụ khi ông bước đến, bởi vì bao giờ nàng cũng tận dụng triệt để việc ông cụ là bố mình. Bà Fisher chìa bàn tay đeo găng cho ông bắt. Tất cả họ đều đứng dưới ánh sáng vàng nhợt nhạt. Stan Parker không nhìn người đàn bà lạ mặt, hình như thế, đổ lỗi cho ánh chói của mặt trời lặn.
- Nãy giờ anh ở đâu? - Vợ ông hỏi, mỉm cười giận dỗi.
- Dưới kia, - ông trả lời, khẽ nháy mắt trước ánh mặt trời.
Rõ ràng ông có ý định lẩn tránh các chi tiết.
- Tôi đang đốt mấy thứ linh tinh.
Đúng là có một làn khói nhẹ đang dâng lên, có mùi khói, và vài ngọn lửa nhỏ lung linh sau những cành cây.
- Chồng tôi rất thạo việc đốt lửa, - Amy Parker nói. - Theo tôi, phần lớn đàn ông có thói quen đứng quanh một đám lửa và nhìn vào đó sau khi nhóm lên.
Bà muốn bới móc chuyện này, nhưng nhớ lại chồng mình thời cường tráng, bà lại thôi. Và thế là họ đứng bên nhau trước mặt người lạ. Họ ở bên nhau. Người đàn ông này y hệt con người trước giờ ta vẫn biết, bà nhủ thầm.
- Cái mùi này thích quá, - bà Fisher chân thật nói. - Cái mùi của mùa đông. Cái mùi đáng yêu quá, ở đây và ở khắp nơi. Chẳng bao giờ dứt.
- Nhà ta có nuôi ong không? - Bà hỏi, quay nhanh về phía ông cụ.
Mặt trời như quả bóng đang chìm dần, những ngọn lửa giống những chiếc lưỡi con nhảy nhót phủ lên mọi người một màu vàng dịu.
- Không, - Stan Parker nói. - Tôi thậm chí chưa hề nghĩ đến chuyện ấy, thực tình mà nói.
Ông có nhìn người đàn bà một lần, bởi vì việc bà ta hỏi ông thật kỳ lạ. Ông nhìn vào khuôn mặt đang sụp đổ của bà ta, trong đó đôi mắt vẫn còn hoạt động.
- Tôi cũng muốn nuôi ong, - bà Fisher nói. - Kể ra cũng chẳng thích hợp đâu, tôi biết. Nhưng tôi muốn ra ngoài, mở tổ ong và nhòm vào đàn ong đang bám chặt lấy tổ. Tôi biết là chúng sẽ chẳng làm hại gì tôi. Ngay cả khi chúng tụ tập quanh cổ tay tôi. Tôi chẳng sợ chúng tí nào. Ôi những con ong vàng óng mới dễ thương làm sao. Nhưng bây giờ thì muộn rồi.
Chuyện gì đang diễn ra thế này? Amy Parker tự hỏi. Một vở kịch vĩ đại về lửa vàng đang giày vò bà. Chẳng có lý do gì để giả dụ rằng Stan đã nhìn thấy người đàn bà ấy thông qua ánh lửa, hay đã nghe thấy giọng nói của bà ta thông qua tiếng đàn ong vo ve.
Song ông mỉm cười.
- Nuôi chúng rất tốn thời gian, - ông nói. - Chúng hay bị bệnh và chết.
- Thế ra ông là một trong những người ấy? - Bà Fisher hỏi.
Tuy vậy khó mà nói bà đang nghĩ điều gì về ông.
Thelma bắt đầu xốc cổ áo. Nàng nói:
- Chúng ta cứ đứng chỗ ẩm ướt này không khéo chết cả lũ.
Bằng một giọng dành cho những người đã từ giã nàng. Nó chứa đựng một sự dịu dàng giận dỗi.
Sau đó nàng dắt bạn đi, sợ rằng rút cục chuyến đi thăm có thể thành công mà nàng thì không có phần trong đó. Bà Fisher ngồi mỉm cười qua cửa xe ô tô. Bà muốn thét to một điều gì đó, một điều đáng ghi nhớ lúc ra đi, như bà vẫn làm, nhưng bà không thể. Gương mặt khô khốc của bà nằm yên dưới chiếc mũ. Thật kỳ diệu là ý tưởng về đàn ong đã nảy ra trong đầu bà với sự say mê như vậy, cứ như đúng là thế, chứ chẳng phải làm bộ làm tịch như đúng ra bà phải thế. Giờ đây sự nuối tiếc ghê gớm về những cơ hội đã mất đang giày vò bà, khi bà kinh ngạc nhìn ngôi nhà gỗ vuông vức, nơi bố mẹ của người bạn bà đang sống. Mọi giải pháp đều lẩn tránh bà. Một lần bà bắt gặp một cuốn sách giải thích các giấc mơ trên cái bàn trang điểm ở một gian phòng trống trải, của một cô hầu gái mà bà vừa đuổi, bà vội vã xem ngấu xem nghiến, chuỗi ngọc của bà đung đưa trên trang giấy màu vàng. Bà đang tìm kiếm một ý nghĩa. Thế rồi bà bỗng cười vang và xé tan cái của nợ ấy, mừng thầm là những kẻ ghét hoặc kính trọng bà không nhìn thấy.
Vì thế lúc này, để tìm những ý nghĩa chính xác, bà đã nhìn vào khuôn mặt của đôi vợ chồng già này, đặc biệt là ông cụ, vì ông là đàn ông và vì nước da màu cam của ông lóe lên một ánh lửa yên lành. Nhưng ông lão không nhìn mình, bà nhủ thầm. Bà cựa quậy, rồi đặt găng tay lên trên khung kính trượt của ô tô, như thể chỉ cần một cử động nữa là bà chồm về phía trước và bật mí mắt ông ra, để hai người trừng trừng nhìn nhau.
Thế nhưng chiếc xe đã đưa bà đi, qua đám khói của ngọn lửa tàn, qua đống rác mà ông vừa đốt. Bà phát hiện có những cuộc sống chỉ có thể chạm vào nhau chứ không thể gắn với nhau. Ngay cả trên một cầu thang rực lửa, hai người nằm chập chờn bên nhau, nhưng mắt của họ không nhìn sâu hơn các tia máu của nhãn cầu.
Amy Parker khẽ chạm vào người chồng.
- Rét thật, - bà nói, - ta vào nhà đi, anh Stan. Chẳng tốt gì cho cái lưng của anh đâu. Hay cho cái chân của em.
Bà muốn gắn mình với ông, thậm chí cả với nỗi đau đớn của ông.
- Em mừng là họ đã về, - bà vừa nói vừa ngáp, thư giãn cái lợi. - Anh có mừng không? Nhưng anh nào có đến. Dẫu sao bà ta cũng rất hay. Bà ta nói nhiều chuyện buồn cười thật.
Họ đi dọc theo con đường mòn trong bộ quần áo bằng len dạ đã cũ nhưng thoải mái, trong khi những người kia đã về. Bà sờ một cái vỏ cây mà bà đã quen thuộc từ lâu. Cuối cùng bà cáu lên vì ông chẳng nói năng gì cả.
- Bà ta đến đây ngày còn là một cô gái, - Amy Parker thận trọng nói. - Bà ta bảo như thế. Bà ta đã từng ở đâu đó trong vùng này, anh ạ.
Nhưng chồng bà đã hình thành một thói quen khủng khiếp là không trả lời hay tỏ ra dấu hiệu nào. Vì thế chẳng mấy chốc máu trong người bà sôi lên sùng sục.
- Thế nhưng nom bà ấy tiều tụy quá, - bà cất tiếng cười vang. - Bơ dính đầy mồm sau khi ăn bánh nướng. Dĩ nhiên bà ta có sửa sang lại ngay. Nhưng là sau khi đã có người trông thấy.
- Trong vùng này. Nơi bà ta ở hẳn là cơ ngơi gia đình Armstrong. - Stan Parker nói. - Thế bà có nhìn thấy tóc của bà ta không. Màu đỏ đấy.
- Nhuộm đỏ đấy. - Amy Parker nói với vẻ hiểu biết lạnh lùng. - Một số bà thường làm thế.
Còn ông thì chất phác thế, có đúng không? Bà tự hỏi. Nhưng không có câu trả lời, bà đi vào nhà.
Ông cụ bước theo. Đây là nơi họ sống. Ông cảm thấy hàm ơn về mọi thứ trên đời vào buổi hoàng hôn này, và ông đã không chất vấn cái điều không thể có được. Ánh lửa chiều đã tắt, chỉ còn một vệt đỏ dài. Dù sao thì ông cũng không tin vào cái ngôi nhà đang cháy ấy, vang tiếng đàn hạc, và tóc đàn bà.