Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.12
C
hương trình lễ kỷ niệm ở Mũi Partageuse ba tháng sau đó tính theo chuẩn miền Tây Nam thì đúng là xôm tụ. Giám đốc Phòng Thương mại Hàng hải từ Perth cũng tham dự, có cả Thống đốc Bang. Các vị chức sắc thị trấn đều có mặt – Ngài Thị trưởng, Cảng trưởng, Cha Norkells, và ba trong số năm người gác đèn gần đây nhất. Họ tụ hội về xứ Mũi để kỷ niệm ngày đầu tiên ngọn hải đang Janus được thắp sáng bốn mươi năm trước đó, hồi tháng Giêng năm 1890. Nhân dịp này nhà Sherbourne cũng được một chuyến nghỉ phép ngắn hạn trên bờ.
Tom miết ngón tay giữa cổ và chiếc cổ áo bó chặt. “Thật chẳng khác gì con ngỗng nhồi!” anh than phiền với Ralph khi cả hai đang đứng trong cánh gà, nhìn ra ngoài sau tấm màn sân khấu. Ngồi ngay ngắn trên mấy hàng ghế giữa sân khấu là các kỹ sư công chánh, nhân viên cục hải đăng và cảng từng làm việc có liên quan đến Janus trong các năm trước. Cửa sổ mở toang, bên ngoài râm ran tiếng dế kêu lên đêm mùa hạ. Isabel và cha mẹ cô ngồi một bên trong khán phòng. Bill Graysmark giữ Lucy trên đùi, con bé cứ bập bẹ đọc mấy bài đồng dao.
“Cứ nghĩ tới vụ uống xả láng lát nữa vậy,” Ralph thì thầm với Tom. “Tới cả Jock Johnson cũng không thể nói năng suốt cả đêm được – bộ đồ đó hẳn khó chịu lắm.” Ông lão gật đầu về phía người đàn ông hói đầu, mồ hôi nhễ nhại vận áo choàng cổ lông chồn, có đeo thêm sợi xích lễ phục truyền thống của Thị trưởng. Ông ta đang đi tới đi lui, chuẩn bị đọc diễn văn trong hội trường thị trấn.
“Cháu đi ra đây một lát,” Tom nói, “Mắc quá.” Rồi anh đi ra phía nhà vệ sinh đằng sau hội trường.
Khi trở lại anh để ý thấy một người đàn bà cứ nhìn mình chằm chằm.
Anh kiểm tra xem đã kéo khóa quần chưa, rồi nhìn ra phía sau, biết đâu cô ta đang nhìn ai khác. Nhưng cô ta vẫn nhìn anh. Cô ta tiến lại gần rồi nói, “Anh không nhớ tôi phải không?”
Tom nhìn cô ta một lần nữa. “Xin lỗi, có lẽ chị nhầm tôi với ai.”
“Cũng lâu rồi mà,” cô ta nói, mặt ửng đỏ. Trong giây lát nét biểu cảm trên gương mặt cô ta thay đổi, và anh nhận ra gương mặt người con gái trên tàu khi anh lần dầu đến Mũi Partageuse. Cô ta đã già đi nhiều, gầy gò hơn, dưới mắt có quầng thâm. Anh tự hỏi không biết cô ta có đau ốm gì không. Anh vẫn nhớ cô gái đó, trong bộ áo ngủ, mắt mở to vì sợ hãi, bị một tay say rượu ngu xuẩn ép dựa vào tường. Ký ức đó như đã thuộc về một con người khác. Đã một hai lần anh tự hỏi không biết cô gái ấy giờ ra sao, và cả tên say rượu đã hù dọa cô nữa. Anh chưa bao giờ kể lại chuyện đó với ai, kể cả Isabel. Linh cảm khiến Tom biết rằng giờ đây đã quá trễ để mà kể lại.
“Tôi chỉ muốn cảm ơn anh,” người phụ nữ vừa lên tiếng nhưng ngay lập tức bị cắt ngang bởi giọng người gọi ra từ cánh cửa sau khán phòng. “Sắp bắt đầu rồi. Vào trong đi.”
“Xin phép cô,” Tom nói. “Tôi phải đi đây. Có lẽ gặp cô sau vậy.”
Chương trình bắt đầu ngay khi anh ngồi xuống ghế trên sân khấu. Vài bài diễn văn, mấy mẩu chuyện từ những người gác đèn cũ; rồi đến phần trưng bày mô hình của chiếc đèn đầu tiên.
“Mẫu đèn này,” ông Thị trưởng dõng dạc tuyên bố, “được một nhà hảo tâm xứ Mũi tài trợ, chính là Ngài Septimus Potts đây. Tôi rất hân hạnh thông báo hôm nay ngài Potts cùng với hai cô Hannah và Gwen cũng đến dự buổi lễ đơn sơ này, tôi mời mọi người cùng tôi cảm ơn Ngài theo cách thông thường.” Ông ta chỉ tay về phía một người đàn ông lớn tuổi ngồi cạnh hai người phụ nữ. Người đầu tiên, Tom nhận ra mà gan ruột xoắn lại, không ai khác hơn chính là cô gái trên tàu năm nào. Anh liếc xuống Isabel, cô đang gượng gạo cười và vỗ tay cùng với cả khán phòng.
Ông thị trưởng tiếp tục, “Và đương nhiên, thưa quý ông quý bà, đêm nay ở đây còn có người gác đèn hiện tại ở Janus, Là anh Thomas Sherbourne. Tôi chắc rằng anh Tom sẽ rất sẵn lòng nói vài lời về cuộc sống ở Janus Rock ngày nay.” Ông ta quay sang phía Tom, ra dấu mời anh lên bục phát biểu.
Tom cứng người lại. Không ai nói gì trước với anh về chuyện phát biểu. Anh vẫn còn choáng váng khi nhận ra người anh vừa gặp chính là Hannah Roennfeldt. Khán giả vỗ tay. Ông thị trưởng ra dấu mời anh một lần nữa, lần này có vẻ ép buộc. “Lên đi nào, anh bạn.”
Trong giây lát, Tom tự hỏi liệu tất cả mọi việc, kể từ ngày chiếc thuyền con dạt lên đảo, phải chăng chỉ là một cơn ác mộng kinh hoàng, không có thật. Nhưng nhìn xuống dưới anh thấy Isabel, gia đình nhà Potts, cả Bluey, hết thảy đều có thật một cách ngột ngạt, không thể nào chối bỏ. Anh đứng dậy, tim đập thình thịch, tiến về phía bục phát biểu như phạm nhân bước ra giá treo cổ.
“Lạy Chúa,” anh bắt đầu, khán giả ở dưới cười khúc khích hưởng ứng. “Tôi không biết trước là phải phát biểu.” Anh lau bàn tay lên ống quần, nắm lấy bục phát biểu để đứng cho vững. “Cuộc sống ở Janus ngày nay…” Anh dừng lại, thoáng ngây người ra, rồi lặp lại, “Cuộc sống ở Janus ngày nay…” Làm sao anh giải thích được sự cô quạnh nơi đó? Làm sao anh khiến họ hiểu được cái thế giới nơi ấy, khác biệt với thế giới của họ như ở một thiên hà khác? Sự cô lập chở che của Janus giờ đây đã vỡ tan: anh đứng đây, trong căn phòng bình thường, có thật, đầy người, đầy những cuộc đời khác. Hannah Roennfeldt đang ngồi đó. Im lặng kéo dài. Người ta bắt đầu hắng giọng thiếu kiên nhẫn, có người trở mình trên ghế.
“Hải đăng Janus do những người rất giỏi giang thiết kế ra,” anh nói, “và được những người vô cùng dũng cảm xây lên. Tôi chỉ biết cố gắng cho xứng với họ. Giữ cho đèn thắp mãi.” Anh bám vào những chi tiết kỹ thuật, thực tế, những thứ anh có thể nói đến mà không phải suy nghĩ. “Người ta nghĩ hẳn ngọn đèn phải lớn lắm, nhưng không phải vậy – nguồn sáng có được từ một ngọn lửa đốt bằng hơi dầu trong đèn măng-sông cực sáng. Nguồn sáng được khuếch đại và dẫn qua một bộ lăng kính cao chừng ba thước sáu, gọi là thấu kính Fresnel bậc một, có tác dụng uốn cong ánh sáng thành chùm sáng cực mạnh, khiến ta có thể thấy được từ cách ba mươi dặm. Thật kỳ diệu vì một ngọn lửa nhỏ đến vậy mà trở nên thật mạnh, đứng cách hàng dặm vẫn thấy được… Công việc của tôi… việc tôi làm chỉ đơn giản là giữ cho nó sạch sẽ. Giữ cho đèn quay. Janus như một thế giới khác ở ngoài kia, cứ như theo một khung thời gian khác vậy: chẳng có gì thay đổi trừ bốn mùa đi qua. Dọc bờ biển Australia có đến hàng tá hải đăng như thế: có rất nhiều người làm việc như tôi, cố giữ an toàn cho tàu thuyền, giữ ngọn đèn sáng cho những người cần đến nó, mặc dù chúng tôi chẳng bao giờ thấy mặt hay biết được họ là ai. Thực tôi cũng không biết nói gì thêm nữa. Có lẽ trừ chuyện ta không biết được thủy triều sẽ mang vào đảo những gì mỗi ngày – hết thảy những món dạt trôi mà hai đại dương xô đẩy lên đảo.” Anh thấy ông Thị trưởng đang nhìn đồng hồ trong túi. “Có lẽ quý vị cũng khát nước lắm rồi: trời nực quá. Cảm ơn,” anh kết thúc bài nói chuyện, đột ngột quay ngồi xuống ghế. Khá giả hơi bị hẫng, vỗ tay chừng mực.
“Anh không sao chứ?” Ralph thì thầm hỏi. “Trông anh hơi tái.”
“Cháu không thích mấy vụ bất ngờ này lắm,” Tom chỉ nói vậy.
Phu nhân Đại tá Hasluck rất thích tiệc tùng. Nhưng sở thích đó rất hiếm khi được thỏa mãn ở Partageuse, vậy nên đêm nay trông bà còn vui vẻ hơn thường ngày. Bà có vẻ thích trách nhiệm phu nhân Cảng trưởng của mình, hăng hái đi quanh tạo không khí tiệc tùng, nhất là hôm đó có cả khách đến từ Perth. Bà thoắt đi thoắt lại, giới thiệu khách với nhau, rồi nhắc lại tên tuổi, rồi gợi ý những điểm tương đồng giữa họ. Bà cũng để mắt đến Cha Norkells đang uống tì tì rượu Sherry, trông chừng không để Cha quá chén, rồi bắt chuyện với phu nhân Giám đốc Phòng Thương mại Hàng hải, nói những chuyện vu vơ như làm sao để giặt ủi chỗ dây xích vàng trên đồng phục nhân viên. Bà còn thuyết phục được cả lão Neville Whittnish kể lại câu chuyện lão đã cứu thủy thủ đoàn trên chiếc thuyền chở toàn rượu rum trong trận cháy gần Janus năm 1899. “Đương nhiên hồi đó là trước thời Liên bang,” lão nói. “Rất lâu trước khi Khối Thịnh Vượng Chung nhúng tay vào Hải đăng năm 1915. Về sau thì làm gì cũng giấy tờ quan liêu.” Phu nhân thống đốc bang gật gù chiếu lệ và tự hỏi không biết ông lão có biết tóc mình đầy gàu không.
Phu nhân đại tá Hasluck tìm việc tiếp theo để bận bịu, ngay lập tức nhìn ra cơ hội. “Isabel thân mến,” bà ta chào rồi đặt tay lên khuỷu tay cô. “Tom phát biểu hay quá là hay!” Nói rồi bà quay sang nựng nịu Lucy, lúc này được Isabel bế ngang hông. “Tối nay tiểu thư thức khuya quá hả. Mong là ngoan, không quấy mẹ.”
Isabel mỉm cười. “Nó ngoan lắm đó bà.”
Bà Hasluck nhanh nhẹn chạy ra, đón lấy cánh tay một người phụ nữ vừa đi ngang qua. “Gwen,” bà gọi. “Cô biết Isabel Sherbourne đây đúng không?”
Gwen Potts ngập ngừng trong giây lát. Hai chị em nhà cô lớn hơn Isabel cũng đến vài tuổi, từ nhỏ đã theo học trường nội trú ở Perth nên cũng không thân quen gì với Isabel. Bà đại tá nhận ra sự ngập ngừng đó. “Graysmark đó. Isabel hồi con gái là Isabel Graysmark,” bà nói.
“Tôi… à đương nhiên là tôi có biết chị.” Gwen mỉm cười, lịch sự trả lời. “Cha chị là thầy hiệu trưởng.”
“Đúng vậy,” Isabel đáp, thấy dợn người, nôn nao trong bụng. Cô nhìn quanh, cứ như thể muốn bỏ trốn ra chỗ khác chỉ bằng đôi mắt.
Bà Đại tá có vẻ bối rối sau màn giới thiệu vừa rồi. hai cô con gái nhà Potts không qua lại gì nhiều với dân xứ Mũi. Rồi nữa lại thêm chuyện tay người Đức, à… chuyện cô chị gái… Trời đất… Bà còn mải tính xem nên cứu vãn tình thế ra sao thì Gwen vẫy tay về phía Hannah, đứng cách đó có vài bước chân.
“Hannah, chị có biết anh Sherbourne mới phát biểu vừa rồi là chồng của Isabel Graysmark không? Con gái thầy hiệu trưởng xứ Mũi đó.”
“Không, chị không biết,” Hannah đáp, có vẻ như vẫn đang suy nghĩ tận đâu đâu.
Isabel cứng người lại, không thốt nên lời khi gương mặt hốc hác của Hannah tiến lại gần. Cô ôm chặt lấy Lucy, cố mở lời chào hỏi, nhưng vô vọng.
“Con gái chị tên gì vậy?” Gwen hỏi, mỉm cười.
“Lucy.” Phải cố hết sức Isabel mới kiềm lại được, không chạy ngay ra khỏi phòng.
“Tên dễ thương quá,” Gwen khen.
“Lucy,” Hannah lên tiếng, như thể phát âm một từ tiếng nước ngoài. Cô nhìn đứa bé một hồi lâu, rồi đưa tay ra chạm vào nó.
Isabel rùng mình hoảng sợ khi bắt gặp đôi mắt của Hannah lúc cô mải ngắm đứa trẻ.
Lucy như bị thôi miên trước bàn tay người lạ mặt. Con bé nhìn chăm chú vào đôi mắt sẫm màu của Hannah, không cười cũng không nhăn nhó, như thể đang suy nghĩ giải một câu đố. “Má ơi,” con bé lên tiếng. Cả hai người phụ nữ cùng bừng tỉnh. Con bé quay về phía Isabel. “Má ơi,” nó lặp lại, “Lulu buồn ngủ,” rồi đưa tay dụi mắt.
Trong một khoảng khắc vô cùng ngắn ngủi, Isabel mường tượng ra cảnh phải giao trả đứa bé về với Hannah. Cô ta mới là mẹ. Cô ta có quyền. Nhưng rõ là Isabel đang choáng váng. Mà không, cô đã nghĩ đến chuyện đó rất nhiều lần rồi. Không thể thay đổi được nữa. ý Chúa đã định, Isabel phải làm theo, phải đi cùng ý Chúa. Cô loay hoay nghĩ cách mở chuyện.
“A nhìn kìa,” bà Hasluck lên tiếng khi thấy Tom đến gần, “nhân vật chính đây rồi,” bà ta kéo ngay anh vào rồi nhanh chóng tách ra, đi đến một nhóm người khác. Nãy giờ Tom vẫn cố tìm Isabel, nên đã cố tình lảng ra khi khách dự tiệc tụ tập quanh những chiếc bàn xếp chất đầy bánh cuộn xúc xích và bánh mì kẹp. Khi nhận ra Isabel đang nói chuyện với ai, cổ anh nóng ran, anh thấy mạch đập nhanh hơn.
“Tom, đây là Hannah và Gwen Potts,” Isabel nói, gượng cười.
Tom nhìn vợ chằm chằm, cô vẫn đang bế Lucy ngang hông. Isabel đặt tay lên cánh tay anh.
“Chào anh,” Gwen lên tiếng.
“Rất hân hạnh được gặp lại anh,” Hannah nói, cuối cùng cũng rời mắt khỏi đứa trẻ.
Tom không biết nói gì.
“Gặp lại?” Gwen hỏi.
“Chị gặp anh Tom cả mấy năm trước rồi nhưng không biết tên.”
Giờ đến lượt Isabel thấy nôn nóng, hết nhìn người này đến người khác.
“Chồng chị rất tử tế. Cứu tôi thoát khỏi một tay… lúc đó đang làm phiền tôi. Trên chuyến tàu từ Sydney.” Hannah đáp lại câu hỏi trống không của Gwen. “Để khi nào rảnh chị sẽ kể em nghe. Chuyện cũng đã lâu rồi.” Rồi quay sang Tom, cô nói. “Tôi không biết là anh ở Janus.”
Sự im lặng nặng nề bao trùm khi họ đứng đó, chỉ cách nhau có gang tấc.
“Ba ơi,” cuối cùng Lucy lên tiếng, đưa tay ra đòi Tom bế. Isabel thoáng giằng lại nhưng đứa bé vòng tay qua cổ Tom, anh để nó trèo lên người mình, dựa đầu nó vào ngực anh, nghe tim mình đập như trống đánh.
Tom chuẩn bị dợm bước đi thì Hannah với tay chạm vào khuỷu tay anh. “Tôi rất thích bài phát biểu của anh, nhất là chỗ ngọn đèn ở đó cho tất cả những ai cần đến nó.” Phải một lúc sau Hannah mới nói tiếp được. “Tôi hỏi anh một chuyện được không, anh Sherbourne?”
Câu hỏi khiến anh thấy lòng nặng trĩu, nhưng vẫn đáp “Chuyện gì kia?”
“Có lẽ câu hỏi hơi lạ, nhưng tàu thuyền có hay cứu được người ở ngoài xa không? Anh có nghe nói gì đến chuyện thuyền nhỏ được cứu không? Người sống sót được đem đến những nơi thật xa chẳng hạn? Anh có hay nghe những chuyện như vậy không…”
Tom hắng giọng. “Ở đại dương thì việc gì cũng có thể. Bất cứ việc gì.”
“Tôi hiểu rồi… Cảm ơn anh.” Hannah hít một hơi sâu rồi nhìn Lucy lần nữa. “Tôi đã làm theo lời khuyên của anh,” cô thêm vào. “Chuyện tay say rượu trên tàu hôm đó. Như anh nói, anh ta cũng khổ lắm rồi.” Cô quay sang em gái. “Gwen, đi về nhà thôi. Chị cũng không hợp với tiệc tùng gì. Em chào tạm biệt cha cho chị vậy nhé? Chị không muốn cắt ngang câu chuyện của cha.” Rồi cô quay sang Tom và Isabel, “Xin phép anh chị.” Cô vừa dợm bước đi thì Lucy ngái ngủ vẫy tay theo, “Tạm biệt”. Hannah cố mỉm cười. “Tạm biệt”, cô đáp lời đứa trẻ. Rồi cô nói tiếp trong làn nước mắt, “Anh chị có con gái đáng yêu quá. Xin phép, tôi ra về.” Cô chạy vội ra phía cửa.
“Xin lỗi anh chị,” Gwen nói. “Hannah mấy năm trước gặp chuyện rất buồn. Gia đình bị thất lạc ngoài biển – chồng với cả con gái, nếu còn sống chắc cũng bằng tuổi con gái anh chị đây. Chị tôi hay hỏi những câu như vậy. Thấy đứa nhỏ hẳn chị tôi lại bị xúc động.”
“Chuyện buồn thật,” Isabel cố gắng thốt ra mấy tiếng.
“Tôi đi xem chị ấy có sao không.”
Khi Gwen đi ra, mẹ của Isabel tiến lại gần hai người. “Lucy thấy ba có giỏi không hả? Ba thật giỏi quá, phát biểu hay quá, đúng không?” Bà quay sang Isabel. “Để má mang nó về nhà trước vậy. Hai con ở lại chơi cho hết tiệc. Cũng phải mấy năm rồi con chưa được khiêu vũ.”
Isabel nhìn Tom, chờ đợi.
“Con đã hứa sẽ đi uống bia với Ralph và Bluey rồi. Mấy tiệc tùng vậy cũng không hợp với con lắm.” Không nhìn vợ, anh bước vội vào màn đêm.
***
Đêm đó khi nhìn vào gương lúc rửa mặt, trong giây lát Isabel thấy những đường nét của Hannah trong gương, khắc khổ đau thương. Cô vốc nước lên mặt, cố gột đi hình ảnh tưởng chừng như không thể chịu được đó, cùng với những giọt mồ hôi sau cuộc gặp gỡ lúc nãy. Nhưng cô không thể khiến hình bóng đó tan biến, cũng không thể xua đi sợi dây sợ hãi vô hình sau khi biết được Tom có quen Hannah. Isabel không thể giải thích được vì sao chuyện đó làm mọi thứ tồi tệ đi, nhưng cô vẫn thấy đất dưới chân mình như vừa dịch chuyển.
Cuộc gặp gỡ khiến cô choáng váng. Thực sự choáng váng khi nhìn thẳng vào bóng tối trong đôi mắt của Hannah Roennfeldt. Khi ngửi mùi phấn thơm nọt ngào phảng phất của cô ta. Khi cảm thấy, gần như là hơi thở, nỗi tuyệt vọng đang bao quanh người đàn bà đó. Nhưng cùng lúc, Isabel như đã chạm đến viễn cảnh mất Lucy. Những thớ thịt cánh tay cô cứng lại, như thể cố ôm giữ lấy đứa bé.
“Lạy Chúa,” cô cầu nguyện, “Lạy Chúa mang an lành cho Hannah Roennfeldt. Và cho con giữ Lucy được bình yên.”
Tom vẫn chưa về nhà. Isabel vào phòng nơi Lucy ngủ để xem chừng. Cô nhẹ nhàng gỡ cuốn sách đầy tranh vẽ từ tay con bé đang say ngủ, đặt lên chiếc bàn phấn. “Ngủ ngon, thiên thần của má,” cô thì thầm, rồi hôn con. Khi cô vuốt tóc con, Isabel bắt gặp mình đang so sánh gương mặt Lucy với hình bóng Hannah trong gương lúc nãy, tìm kiếm đường nét chung nơi chiếc cằm, hay trên chân mày.