The multitude of books is making us ignorant.

Voltaire

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Markens Grøde
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1219 / 19
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương XVIII
ốt cuộc ông cậu Sivert cũng qua đời. Eleseus trải qua ba tuần săn sóc ông, và rồi ông cụ chết. Eleseus sắp xếp tang lễ và lo liệu mọi thứ rất tốt; thu gom hoa vân anh từ những nhà xung quanh [để làm tràng hoa], mượn một lá cờ để treo cờ rũ và mua một ít vải đen từ cửa tiệm để làm mành che; cử người đi mời Isak và Inger tới dự lễ an táng. Cậu hành động với tư cách chủ nhà, phục vụ đồ ăn thức uống cho quan khách; phải, và khi thi hài được đưa ra, mọi người đã hát một bài thánh ca, Eleseus đã phát biểu vài lời phù hợp trước cỗ quan tài. Inger tự hào và xúc động đến nỗi nàng phải dùng tới chiếc khăn tay của mình. Mọi chuyện diễn ra một cách tuyệt vời.
Trên đường trở về nhà với cha mình Eleseus phải công khai mang theo chiếc áo khoác mùa xuân, dù cậu cố tìm cách giấu cây gậy trong tay áo. Mọi thứ đều ổn cho tới khi họ phải băng qua hồ trên một chiếc thuyền; khi người cha bất ngờ ngồi lên chiếc áo khoác, một tiếng răng rắc phát ra. “Cái gì thế?” Isak hỏi.
“Ồ, không có gì,” Eleseus đáp.
Nhưng cậu không quẳng cây gậy gãy đi; ngay khi họ về tới nhà, cậu tìm quanh nhà một cái ống hay thứ gì đó để chữa lại cây gậy.
“Chúng ta sẽ sửa lại nó ổn thôi,” Sivert nói, một kẻ không thể cải sửa tính tình. “Xem này, ghép một thanh nẹp gỗ vào mỗi bên, và quấn tất cả lại với chỉ vuốt sáp…”
“Anh sẽ quấn em với chỉ vuốt sáp,” Eleseus nói.
“Hahaha! Chà, có lẽ anh thích quấn nó thật chặt bằng một cái nịt bít tất đỏ hơn hả?”
“Hahaha,” Eleseus cười với câu nói đùa đó; nhưng cậu đi vào phòng của Inger, xin nàng một cái đê cũ, gọt bỏ một đầu và chế thành một cái vòng nối rất khá. Ồ, nói cho cùng Eleseus không phải quá bất tài vô dụng, với đôi bàn tay dài trắng trẻo.
Hai anh em vẫn trêu đùa nhau như trước. “Anh sẽ có những gì cậu Sivert để lại chứ?” Eleseus nói.
“Anh có nó? Bao nhiêu vậy?” Sivert hỏi.
“Hahaha, em muốn biết nó là bao nhiêu trước hả, anh chàng bủn xỉn!”
“Tốt, dù sao đi nữa, anh có thể có nó,” Sivert nói.
“Nó nằm giữa năm và mười ngàn.”
“Daler?” Sivert kêu lên; cậu không thể kềm lại được.
Eleseus chưa hề nghĩ tới đồng Daler, nhưng cậu không thích nói không vào lúc đó, vì thế cậu chỉ gật đầu, và gác lại chuyện đó cho tới ngày hôm sau.
Khi đó cậu nhắc lại vấn đề. “Em có hối tiếc khi hôm qua cho anh tất cả số đó không?”
“Ngốc quá! Dĩ nhiên là không,” Sivert nói. Đó là lời cậu nói, nhưng – chà, năm ngàn Daler vẫn là năm ngàn Daler, và đó không phải là một món tiền nhỏ; nếu anh cậu không phải là một tên thổ dân da đỏ dã man tệ hại, anh ta nên cho lại cậu phân nửa.
“Chà, thật tình, nói cho cùng anh không định cuỗm hết số di sản đó,” Eleseus giải thích.
Sivert kinh ngạc nhìn cậu. “Thế à, phải không đây?”
“Phải, không có gì đặc biệt hết, đó là nói thế. Không phải là món mà em có thể gọi là khá lắm.”
Eleseus đã có một ý niệm nào đó về các bản thu chi, dĩ nhiên, và cái rương tiền của ông cậu Sivert, cái thùng đựng rượu khét tiếng đó, đã được mở ra và kiểm tra trong lúc cậu có mặt ở đó; cậu đã phải xem xét hết những giấy tờ kế toán và lập một bản cân đối thu chi. Ông cậu Sivert không bắt người cháu này ra làm việc trên đồng hoặc chữa lại những tấm lưới bắt cá trích; ông cho cậu làm quen với một đống các con số rối ren phức tạp, một công việc kế toán kỳ lạ nhất từng được biết. Nếu một người phải đóng các khoản thuế của mình lùi lại vài năm với một loại tài sản, chẳng hạn với một con dê, hoặc một khối lượng khô cá tuyết, lúc này chẳng có thịt mà cũng chẳng có cá để đưa ra; nhưng cụ Sivert rà soát lại ký ức của mình và bảo, “Nó đã được thanh toán rồi!”
“Đúng, vậy chúng ta sẽ xóa nó đi,” ông cụ nói.
Eleseus là loại người dành cho công việc này; cậu sáng láng và nhanh nhẹn, cậu động viên ông cụ tàn phế bằng cách bảo đảm với ông rằng mọi việc đều ổn thỏa; cả hai rất hòa hợp với nhau, thậm chí đôi khi còn nói đùa với nhau. Có lẽ Eleseus hơi ngốc ở một số điều, nhưng cả ông cậu cũng vậy; và cả hai đã ngồi đó soạn thảo những văn kiện phức tạp không chỉ có lợi cho Sivert trẻ mà cho cả ngôi làng, cái cộng đồng mà ông cụ đã phục vụ suốt ba mươi năm. Ồ, đó là những ngày tuyệt diệu! “Ta không thể tìm được người nào tốt hơn cháu để giúp giải quyết tất cả những thứ này, cháu ạ,” ông cậu Sivert nói. Ông cử người đi mua thịt cừu vào giữa mùa hè; cá tươi được mang lên từ biển, Eleseus được lệnh chi tiền từ cái rương. Họ đã sống khá ổn. Họ giữ Oline lại – họ không thể tìm ra người nào tốt hơn để mời dự một bữa tiệc, và cũng chẳng có ai chắc chắn hơn để lan truyền ra ngoài các tin tức về sự vĩ đại cho tới phút cuối cùng của ông cậu Sivert. Và các bên đều thỏa mãn. “Chúng ta cũng phải làm điều gì đó cho Oline nữa,” ông cậu Sivert nói, “bà là một bà góa và không khá cho lắm. Dù sao cũng sẽ có đủ cho Sivert trẻ.” Eleseus lo liệu chuyện đó với một vài nét bút; một khoản bổ sung đơn giản vào bản chúc thư cuối cùng, và thế là Oline cũng trở thành một đồng thừa kế.
“Tôi sẽ chăm lo cho bà,” ông cậu Sivert nói với bà. “Nếu lần này tôi không khá lên được và lại trở về với đất, tôi sẽ lo cho bà không bị bỏ mặc.” Oline tuyên bố rằng bà không nói nên lời, nhưng bà không phải là kẻ không biết cách diễn đạt bằng lời; bà khóc, xúc động tận tâm can và tỏ ra biết ơn; không ai có thể sánh với Oline trong việc tìm ra một sự kết nối ngay lập tức giữa một món quà trần tục và việc “vĩnh viễn đền đáp lại gấp ngàn lần trong thế giới sẽ tới.” Không, bà không phải là kẻ không biết diễn đạt bằng lời.
Nhưng còn Eleseus? Có lẽ lúc đầu hẳn cậu đã có một cái nhìn khá sáng sủa về các vụ làm ăn của ông cậu Sivert, nhưng sau một thời gian cậu bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ về mọi thứ và cũng trao đổi nữa. Trước hết, cậu cố đưa ra một gợi ý nhẹ nhàng: “Những bản thu chi không chính xác như lẽ ra phải thế,” cậu nói.
“À, đừng bận tâm chuyện đó,” ông cụ nói. “Sẽ có đủ và dư khi ta ra đi.”
“Có lẽ ông cậu còn có món tiền nào khác bên ngoài?” Eleseus nói. “Trong một ngân hàng, hay đại loại?” Vì lời đồn đã nói thế.
“Ừm,” ông cụ nói. “Cứ cho là thế. Nhưng dù sao thì với bãi đánh cá, nông trại, nhà cửa và gia sản, những con bò cái đỏ và những con bò cái trắng và các thứ, cháu đừng lo về chuyện đó, nhóc Eleseus ạ.”
Eleseus không biết công việc đánh bắt cá có thể trị giá đến mức nào, nhưng cậu đã nhìn thấy gia súc; nó bao gồm một con bò cái, lông nửa đỏ nửa trắng. Hẳn là ông cậu Sivert đã mê sảng. Một số hồ sơ kế toán cũng vậy, rất khó làm rõ được; chúng là một đống rối ren, một mớ bòng bong những con số, nhất là từ ngày đơn vị tiền tệ đã thay đổi; viên thủ quỹ huyện thường xuyên xem những đồng Kroner bé nhỏ như thể chúng là những đồng Daler mệnh giá cao. Không lạ gì khi ông tưởng tượng rằng mình giàu có! Nhưng khi mọi thứ bị giảm thiểu xuống thành một thứ gì đó như đơn đặt hàng, Eleseus e rằng những gì được để lại sẽ không còn nhiều lắm. Có lẽ không đủ để giải quyết mọi thứ.
Phải, Sivert có thể dễ dàng hứa với cậu rằng tất cả những gì của ông cậu sẽ thuộc về cậu!
Hai anh em đùa cợt nhau về chuyện đó. Sivert không chút buồn phiền về vấn đề này; thật vậy, có lẽ cậu sẽ khó chịu hơn nếu cậu thật sự vứt đi năm ngàn Daler. Cậu biết rõ rằng đơn thuần đó chỉ là sự đầu cơ khi đặt tên cậu theo tên của ông cụ; cậu không đòi hỏi bất cứ thứ gì ở đó. Và giờ đây cậu ép Eleseus nhận những gì có được. “Nó sẽ là của anh, tất nhiên,” cậu nói. “Nào, chúng ta hãy lập thành văn bản. Em muốn thấy anh là một người giàu có. Đừng quá kiêu hãnh để không nhận nó!”
Phải, họ đã cười ngặt nghẽo với nhau nhiều lần. Thật sự, Sivert là người giúp ích nhiều nhất trong việc giữ Eleseus ở lại nhà; hẳn việc này sẽ khó khăn hơn nếu không có cậu.
Thật ra, Eleseus lại trở nên hư hỏng; ba tuần rảnh rỗi ở mé bên kia dãy đồi không có ích gì cho cậu. Cậu cũng đã đi lễ nhà thờ ở đó và tạo ra chú ý; phải, thậm chí cậu còn gặp một số cô gái ở đó. Ở trại Sellanraa này không có thứ gì giống thế; Jensine, cô hầu gái, chẳng là gì cả, một người làm công không hơn không kém, hợp với Sivert hơn.
“Anh muốn nhìn xem cái cô nàng Barbro ở Breidablik đó trông như thế nào khi đã trưởng thành,” một hôm Eleseus nói.
“Được, hãy xuống chỗ của Axel Ström mà xem,” Sivert nói.
Eleseus xuống đó vào một ngày Chủ nhật. Phải, cậu đã rời nhà, một lần nữa tìm lại sự tự tin và lòng hăng hái; cậu đã nếm mùi kích thích, và cậu khiến cho mọi thứ ở cái trại nhỏ của Axel trở nên sống động hơn. Bản thân Barbro không dễ xem thường chút nào; với bất cứ giá nào, cô là người duy nhất ở gần bên. Cô biết chơi ghi ta và sẵn lòng trò chuyện; ngoài ra, cô không có mùi cúc ngải mà tỏa ra một mùi thơm thật sự, loại mà bạn mua trong tiệm. Về phần mình, Eleseus làm cho hai người kia hiểu rằng cậu chỉ về nhà nghỉ lễ, và chẳng bao lâu sẽ quay trở lại văn phòng. Nhưng nói cho cùng ở nhà cũng không tệ lắm, ở nơi chốn cũ, và dĩ nhiên, cậu có một phòng ngủ nhỏ. Nhưng vẫn không giống như sống ở thị trấn!
“Không giống, điều đó đúng,” Barbro nói, “cuộc sống ở thị trấn rất khác với cuộc sống này.”
Axel hoàn toàn nằm ngoài cuộc đối với hai thị dân này; anh thấy ngồi với họ thật chán, và thích ra ngoài xem xét đất đai của mình hơn. Bộ đôi đó được bỏ mặc cho làm những gì họ thích, và Eleseus xoay xở mọi thứ một cách tuyệt vời. Cậu kể cậu đã đi qua làng bên để chôn cất ông cậu của mình như thế nào, và không quên nhắc tới bài diễn văn mà cậu đã đọc trước cỗ quan tài.
Khi chào từ giã, cậu đề nghị Barbro cùng đi với mình một khúc đường. Nhưng Barbro cám ơn, không sẵn sàng làm theo cung cách đó.
“Phải chăng ở chỗ anh sống người ta làm như thế,” cô hỏi – “các tiểu thư phải đưa những quý ông về nhà?”
Đó là một cú đòn đau đối với Eleseus; cậu đỏ mặt và hiểu rằng cậu đã xúc phạm cô.
Tuy nhiên, Chủ nhật sau cậu lại xuống Maaneland, lần này có mang theo cây gậy. Họ trò chuyện như lần trước, và Axel lại hoàn toàn nằm ngoài cuộc, như lần trước. “Cha cậu có một trang trại lớn,” anh nói. “Và dường như hiện giờ lại đang xây cất.”
“Phải, với ông mọi thứ rất ổn,” Eleseus nói, nôn nóng được khoe khoang chút ít. “Ông có thể đảm đương được nó. Với những người nghèo như chúng ta lại là chuyện khác.”
“Ý cậu là sao?”
“Ồ, anh chưa nghe thấy à? Hôm nọ có mấy tay triệu phú người Thụy Điển tới và mua một cái mỏ của ông, một cái mỏ đồng.”
“Sao, không phải chứ? Vậy ông ấy đã thu được một đống tiền phải không?”
“Rất nhiều. Chà, tôi không muốn khoác lác, nhưng giá nào thì nó cũng tới nhiều ngàn đồng. Tôi định nói gì nhỉ? Xây cất à? Bản thân anh cũng có nhiều gỗ quanh đây. Khi nào thì anh sẽ bắt đầu?”
Barbro xen vào: “Không bao giờ!”
Đó không phải là sự cường điệu hay xấc láo đơn thuần. Axel đã gom đủ đá vào mùa thu trước và đã chở chúng về nhà mùa đông đó; hiện giờ, giữa hai mùa, anh đã làm xong các móng tường, hầm chứa và mọi thứ khác – tất cả những gì còn lại là dựng phần gỗ bên trên. Anh hy vọng sẽ lợp được một phần mái nhà vào mùa thu này, và đã nghĩ tới việc đề nghị Sivert giúp anh một tay trong vài ngày – Eleseus nghĩ thế nào về chuyện đó.
Eleseus nghĩ rất có thể. “Nhưng vì sao anh không đề nghị tôi?” Cậu mỉm cười hỏi.
“Cậu?” Axel nói, và anh nói với sự kính trọng bất ngờ đối với ý tưởng đó. “Cậu có tài năng đối với những việc khác, tôi biết thế.”
Ồ, thật thú vị khi thấy mình được ca ngợi ở đây, giữa chốn hoang vu này! “Sao, tôi e là đôi tay của tôi không khá lắm với loại công việc đó,” Eleseus nói với vẻ tế nhị.
“Để tôi nhìn xem,” Barbro nói và nắm lấy bàn tay cậu.
Axel lại bị gạt ra khỏi cuộc đối thoại, anh bỏ ra ngoài, để yên cho hai người bọn họ. Họ cùng một lứa tuổi, từng đến trường với nhau, nô đùa và hôn nhau và chạy tung tăng; và giờ đây, với một sự bất cẩn mang tính khinh thị, họ trò chuyện về những ngày tháng cũ, trao đổi những hồi ức – và có lẽ Barbro có chiều hướng muốn khoe mẽ chút đỉnh trước mặt anh bạn của mình. Đúng, anh chàng Eleseus này không giống như những thanh niên thật sự đẹp trai trong các văn phòng, những người đeo kính, đeo đồng hồ vàng, vân vân, nhưng cậu có thể được coi là một quý ông trong vùng đất hoang vu, không thể chối bỏ điều đó. Thế là cô lấy bức ảnh của mình ra và khoe với cậu – lúc ấy trông cô như thế đó – “Hoàn toàn khác hẳn bây giờ, dĩ nhiên.” Và Barbro thở dài.
“Sao, hiện giờ có vấn đề gì với cô vậy?” Cậu hỏi
“Anh có nghĩ là tôi đã thay đổi xấu đi kể từ dạo đó không?”
“Thay đổi xấu đi à, thật là! Được, tôi không ngại nói với cô hiện giờ cô xinh hơn rất nhiều,” cậu nói, “người tròn trĩnh hẳn ra. Xấu đi à? Ái chà! Thật là một ý tưởng hay ho!”
“Nhưng anh có nghĩ đây là một cái váy đẹp hay không? Cắt hở một chút ở đằng trước và đằng sau. Và dạo đó tôi có sợi dây chuyền bạc mà anh thấy trong ảnh, nó cũng đáng giá khối tiền; đó là quà của một trong những viên thư ký trẻ mà tôi giúp việc dạo ấy. Nhưng tôi đã đánh mất nó. Không chính xác là đánh mất, anh biết đó, nhưng tôi cần tiền để về nhà.”
Eleseus hỏi: “Tôi có thể giữ tấm ảnh này không?”
“Giữ nó? Ừm. Anh cho tôi cái gì để đổi lấy nó?”
Ồ, Eleseus biết rất rõ điều mà cậu muốn nói, nhưng cậu không dám. Thay vì thế, cậu nói, “tôi sẽ chụp ảnh của mình khi quay trở lại thị trấn và gửi nó cho cô.”
Barbro cất tấm ảnh. “Không, nó là tấm duy nhất tôi còn lại.”
Có một nhát quét của bóng tối lướt qua trái tim trẻ tuổi của cậu, và cậu duỗi bàn tay về phía tấm ảnh.
“Nào, đưa cho tôi thứ gì đó để đổi lấy nó, nhanh lên,” cô nói, bật cười. Và khi đó cậu đứng lên, hôn cô theo đúng thể thức.
Sau đó mọi thứ trở nên dễ dàng. Eleseus rạng rỡ hẳn lên và tiếp tục một cách tốt đẹp. Họ tán tỉnh, cười đùa với nhau, và là những người bạn tuyệt vời. “Khi cô nắm lấy bàn tay tôi lúc này nó giống như một chiếc cánh thiên nga hạ xuống, ý tôi là bàn tay của cô.”
“Ồ, anh sẽ quay lại thị trấn, và chẳng bao giờ trở lại đây, tôi sẽ bị bỏ rơi,” Barbro nói.
“Cô nghĩ tôi là loại người đó ư?” Eleseus nói.
“Chà, tôi dám nói là ở đó anh có thích một cô nào đó.”
“Không, không có. Chỉ giữa tôi và cô, tôi chưa đính ước gì hết,” cậu nói.
“Ồ, vâng, anh đã; tôi biết.”
‘Không, sự thật nghiêm trang đấy, tôi chưa có mà.”
Họ tiếp tục như thế một lúc lâu; Rõ ràng là Eleseus đang yêu. “Tôi sẽ viết cho cô,” cậu nói. “Được không?”
“Vâng,” cô gái đáp.
“Vì tôi sẽ rất đau khổ nếu cô không quan tâm tới điều đó, cô biết đấy.” Và đột nhiên cậu nổi cơn ghen, cất tiếng hỏi: “Tôi nghe nói cô đã hứa hẹn với Axel ở đây, có đúng thế không?”
“Axel à? Đừng hòng!” Cô nói một cách khinh miệt, và cậu rạng rỡ trở lại. Nhưng rồi cô trở nên ăn năn, nói thêm: “Axel ảnh rất tốt với tôi, mặc dù… Và ảnh mang báo về cho tôi đọc, thỉnh thoảng cho tôi thứ này thứ khác, nhiều thứ. Tôi phải nói thế.”
“Ồ, tất nhiên,” Eleseus đồng ý. “Anh ta có thể là một gã xuất sắc theo cách của anh ta, nhưng đó không phải là tất cả…”
Nhưng dường như ý nghĩ về Axel đã khiến cho Barbro cảm thấy lo âu; cô đứng lên và nói với Eleseus: “Anh phải đi rồi; tôi phải coi sóc lũ gia súc.”
Chủ nhật kế tiếp Eleseus xuống trễ hơn thường lệ khá nhiều, và mang theo lá thư của cậu. Đúng là một lá thư! Trọn một tuần kích động, tất cả mọi rắc rối mà nó mang tới cho cậu khi viết, nhưng cuối cùng nó đây rồi; cậu đã xoay xở để mở đầu thư: “Gửi tiểu thư Barbro Bredesen. Cho tới nay đã có hai ba lần tôi được hưởng niềm sung sướng vô tả được gặp lại cô…”
Tới muộn đến thế như lúc này, bằng mọi giá Barbro hẳn đã hoàn tất việc coi sóc lũ gia súc, và có lẽ đã đi ngủ. Điều đó không quan trọng – thật ra phải hoàn toàn dè dặt.
Nhưng Barbro còn thức, đang ngồi trong lều. Lúc này trông như thể cô đã đột ngột đánh mất mọi ý tưởng về việc đối xử tốt với cậu và chuyện yêu đương – Eleseus cho rằng có lẽ Axel đã nắm giữ được cô và đã cảnh báo cô.
“Đây là lá thư mà tôi đã hứa với cô,” cậu nói.
“Cám ơn,” cô đáp, và mở nó ra, đọc hết nhưng có vẻ như không xúc động mấy. “Tôi ước gì có thể viết hay như thế,” cô nói.
Eleseus thất vọng. Cậu đã làm gì – chuyện gì đã xảy ra với cô ta vậy? Và Axel ở đâu? Anh ta không có ở đó. Bắt đầu mệt mỏi với những cuộc viếng thăm vào ngày Chủ nhật này, có lẽ, và thích ở bên ngoài hơn; hoặc có thể anh ta có đôi ba công việc gì đó phải ở lại khi xuống làng ngày hôm trước. Dù sao thì anh ta cũng không có mặt ở đó.
“Cô muốn ngồi đây trong cái trại cũ chật chội này để làm gì trong một buổi tối đáng yêu như thế này?” Eleseus hỏi. “Hãy ra ngoài tản bộ đi.”
“Tôi đang chờ Axel,” Barbro đáp.
“Axel? Cô không thể sống thiếu Axel nhỉ?”
“Vâng. Nhưng ảnh sẽ muốn có thứ gì đó để ăn khi về tới nhà.”
Thời gian trôi, thời gian nhỏ giọt, họ không đến gần nhau hơn; Barbro trở nên trái ngược hẳn với ngày thường. Cậu cố kể lại cho cô nghe về chuyến đi qua mé bên kia dãy đồi, và không quên nói tới bài diễn văn đã đọc: “Tôi không phải nói nhiều lắm, nhưng nó đã khiến cho một số người bọn họ phải rơi lệ.”
“Thật thế ư?” Cô gái nói.
“Và một Chủ nhật nọ tôi tới nhà thờ.”
“Có tin tức gì ở đó?”
“Tin tức à? Ồ, không có gì. Chỉ để nhìn quanh. Không có gì nhiều ở một vị linh mục, trong chừng mực tôi biết về chuyện đó; ông ta không có gì hay ho cả.”
Thời gian trôi.
“Anh nghĩ Axel sẽ nói gì nếu ảnh lại thấy anh ở đây tối nay?” Barbro đột ngột hỏi.
Chẳng khác nào không còn gì để nói! Như thể cô đã đấm cậu một quả. Chả lẽ cô đã quên hết chuyện lần trước? Không phải họ đã nhất trí rằng tối nay cậu sẽ tới đây sao? Eleseus bị tổn thương sâu sắc, cậu lẩm bẩm: “Tôi có thể đi, nếu cô muốn. Tôi đã làm gì nào?” Cậu hỏi, đôi môi run rẩy. Cậu đang đau buồn, đang khổ sở, có thể dễ dàng thấy thế.
“Đã làm gì? Ồ, anh chả làm gì sất.”
“Tốt, thế thì có chuyện gì với cô tối nay vậy?”
“Với tôi? Hahaha! Nhưng nếu nghĩ tới chuyện đó, không ngạc nhiên gì nếu Axel nổi giận.”
“Vậy thì tôi sẽ đi,” Eleseus lặp lại. Nhưng cô vẫn lạnh nhạt, chẳng chút gì e sợ, mặc cho cậu ngồi đó đấu tranh với những ý nghĩ của mình. Đúng là một người đàn bà ngốc nghếch!
Lúc này cậu bắt đầu nổi giận; hồi đầu cậu đã hé lộ sự không hài lòng của mình một cách tế nhị: với ấn tượng rằng cô thật sự là một thiếu nữ xinh đẹp, và là một vinh hạnh cho giới tính của mình, hừ! Nhưng khi cách đó không đem tới hiệu quả nào – ồ, hẳn cậu sẽ xử sự tốt hơn bằng cách nhẫn nại chịu đựng và không nói lời nào. Nhưng cậu không thu được kết quả nào hay ho hơn từ cách đó, cậu nói: “Nếu tôi biết cô sẽ như thế này, đêm nay tôi không bao giờ tới đây.”
“Tốt, nếu anh không đến thì sao?” Cô nói. “Anh sẽ đánh mất một cơ hội để khoe khoang cây gậy mà anh ưa thích.”
Ôi chao, Barbro, cô đã từng sống ở Breden, biết cách chế nhạo một gã đàn ông; cô đã nhìn thấy những cây gậy thật sự, và bây giờ có thể hỏi cậu muốn gì khi vừa đi vừa đong đưa một cái cán dù vá víu như thế. Nhưng cậu mặc cho cô tiếp tục.
“Giờ thì tôi cho rằng cô muốn lấy lại tấm ảnh mà cô đã cho tôi,” cậu nói. Và nếu câu đó không khiến cô xúc động, chắc chắn là không còn gì có thể, vì đối với những người dân sống giữa chốn hoang vu, không có gì bị coi là đê tiện cho bằng việc đòi lại một món quà.
“Cứ cho là như thế,” cô lãng tránh.
“Ồ, thôi được, cô sẽ có nó,” cậu nói một cách dũng cảm. “Tôi sẽ gửi trả nó ngay, đừng lo. Còn bây giờ có lẽ cô sẽ trả lại cho tôi lá thư của tôi.” Eleseus đứng lên.
Rất tốt; cô trả lại cho cậu lá thư. Nhưng lúc này, khi làm điều đó, cô rưng rưng nước mắt; cái cô hầu gái này đã xúc động; bạn của cô đã từ bỏ cô – giã từ mãi mãi!
“Anh không cần phải đi,” cô nói. “Tôi mặc kệ những gì Axel nói.”
Nhưng bây giờ Eleseus đã nắm thế thượng phong, và phải tận dụng nó; cậu cám ơn và chào tạm biệt. “Khi một thiếu nữ đã xử sự theo cách đó,” cậu nói, “thì không còn gì khác để làm nữa.”
Cậu rời khỏi ngôi nhà, lặng lẽ, và vừa bước về nhà vừa huýt sáo, đong đưa cây gậy, thủ vai một người đàn ông. Hừ! Một lúc sau Barbro nối gót theo sau: cô đã gọi cậu một hai lần gì đó. Rất tốt; cậu dừng lại, cậu đã làm như thế, nhưng trở thành một con sư tử bị trọng thương. Cô ngồi xuống giữa bụi thạch nam, có vẻ ăn năn; cô lúc lắc một nhánh cây, và một lúc sau cả cậu cũng mềm lòng lại, hỏi xin một nụ hôn, lần cuối cùng, chỉ để nói lời tạm biệt, cậu nói. Không, cô không muốn. “Hãy tỏ ra tốt bụng và dễ thương, như cô lần trước,” cậu van nài, và đi vòng quanh cô, bước nhanh, cậu có thể nhìn thấy cơ hội của mình. Nhưng cô không chịu là một cô gái dễ thương; cô đứng lên. Và cô đứng đó. Tới lúc này, cậu chỉ còn nước gật đầu và cất bước.
Khi cậu đã đi khỏi tầm mắt, Axel đột ngột xuất hiện từ phía sau một bụi cây. Barbro giật mình, bước lui lại và hỏi: “Gì thế, anh đã ở đâu? Đi lên con đường này ư?”
“Không, tôi đã đi xuống con đường này,” anh đáp. “Nhưng tôi nhìn thấy hai người ở đây.”
“Thế sao? Và tôi dám nói rằng anh thật tốt lắm đó,” cô gái kêu lên, đột nhiên nổi cơn thịnh nộ. Hẳn nhiên là không dễ đối phó với cô vào lúc này. “Anh đang rình rập, đánh hơi cái gì đây, tôi muốn biết? Chuyện này dính dáng gì tới anh?”
Bản thân Axel cũng không phải đang trong tâm trạng tốt. “Hừm. Vậy là hôm nay cậu ta lại tới đây?”
“À, nếu anh ta tới thì sao? Anh muốn gì với anh ta?”
“Tôi muốn gì với cậu ta? Em muốn gì với cậu ta, đó mới là điều tôi muốn hỏi. Em phải biết xấu hổ chứ.”
“Xấu hổ à? Hừ! Nếu anh hỏi tôi, có thể nói thế này,” Barbro nói. “Tôi ở đây, để ngồi trong nhà như một pho tượng hả, tôi cho là vậy? Dù sao thì tôi phải xấu hổ về cái gì chứ? Nếu anh muốn đi tìm một ai khác để coi sóc chỗ này, tôi sẵn sàng ra đi. Anh nên cẩn trọng lời ăn tiếng nói của mình, đó là tất cả những gì tôi phải nói, nếu đó không phải là yêu cầu cao lắm. Bây giờ tôi sẽ quay về để dọn bữa tối và pha cà phê cho anh, và sau đó tôi có thể làm gì tùy ý.”
Họ về tới nhà với cuộc đấu khẩu đang lúc cao trào.
Không, họ không luôn luôn là bạn thân nhất của nhau, Axel và Barbro; thỉnh thoảng lại có chuyện. Tới lúc này, cô gái đã sống với anh được hai năm, và trước đó họ đã từng cãi cọ; hầu hết là khi Barbro nói tới việc tìm một nơi khác. Anh muốn cô gái ở lại đó mãi, định cư ở đó, cùng chia sẻ ngôi nhà và cuộc sống với anh; anh biết anh sẽ gặp khó khăn ra sao nếu bị bỏ lại không người trợ giúp. Và cô đã hứa nhiều lần – phải, trong những lúc thân thương trìu mến hơn, cô không hề nghĩ tới việc ra đi. Nhưng khi họ cãi cọ về bất cứ điều gì, cô luôn đe dọa bỏ đi. Nếu không có việc gì khác, cô phải đi khám răng ở thị trấn. Đi, đi xa… Axel cảm thấy anh phải tìm ra một biện pháp để giữ chân cô.
Giữ chân cô? Barbro rất quan tâm tới việc anh cố giữ chân cô nếu cô không muốn ở lại.
“Thế à, vậy là em lại muốn ra đi?” Anh hỏi.
“Vâng, và nếu tôi muốn thế?”
“Em nghĩ là em có thể sao?”
“Chà, tại sao không nhỉ? Nếu anh nghĩ tôi sợ vì mùa đông sắp đến… Nhưng tôi có thể tìm một chỗ ở Bergen bất kỳ ngày nào tôi muốn.”
Axel nói một cách khá kiên quyết: “Dù sao đi nữa, sẽ mất một thời gian trước khi em có thể làm điều đó. Chừng nào em còn có một đứa bé.”
“Chừng nào còn có một đứa bé? Anh đang nói cái gì vậy?”
Axel nhìn chăm chú. Cô gái này có điên không? Đúng, bản thân anh nên nhẫn nại hơn. Bây giờ, khi đã có phương tiện để giữ chân cô, anh đã trở nên tự tin, và đó là một sai lầm; không cần thiết phải gay gắt với cô và chọc cho cô nổi điên lên; anh không cần phải tốn nhiều lời để chỉ dẫn cô trong việc giúp anh với vụ khoai tây mùa xuân ấy – anh có thể tự mình trồng chúng. Sẽ có nhiều thời gian để anh khẳng nhận thẩm quyền của mình sau khi họ đã kết hôn; cho tới lúc đó anh nên có đủ tỉnh táo để nhượng bộ.
Nhưng… thật là tệ hại, cái sự vụ với Eleseus, cái cu cậu thư ký này, kẻ đã vênh váo đến với chiếc gậy và mọi câu chuyện hay ho của cậu ta. Cứ tiếp tục như thế với một cô gái khi cô ta đã đính ước với một người đàn ông khác – và trong tình trạng lúc này của cô ta nữa! Điều này nằm ngoài khả năng thấu hiểu. Cho tới lúc đó Axel không có đối thủ nào để cạnh tranh – giờ đây thì đã khác.
“Đây là một tờ báo mới cho em,” anh nói. “Và đây là một chút quà tôi mua cho em. Không biết em có quan tâm tới nó chăng.”
Barbro tỏ ra lạnh lùng. Họ đang ngồi đó bên nhau, uống thứ cà phê nóng hổi từ trong chén, nhưng với tất cả những điều đó cô chỉ đáp lại bằng những lời lạnh lẽo như băng:
“Tôi cho rằng đó là chiếc nhẫn vàng mà anh đã hứa cho tôi trong suốt hơn mười hai tháng vừa qua.”
Tuy nhiên, câu nói này đã đi quá đà, vì nói cho cùng, đó là một chiếc nhẫn, nhưng không phải là một chiếc nhẫn vàng, và anh chưa bao giờ hứa cho cô thứ đó – điều này là do cô bịa đặt; nó làm bằng bạc, bạc thật mạ vàng, với hai cái móc và có nhãn hiệu bên trên các thứ. Nhưng ôi chao, chuyến hành trình xúi quẩy đó của cô tới Bergen! Barbro đã từng nhìn thấy những chiếc nhẫn đính hôn thật sự – không ích gì để nói với cô!
“Chiếc nhẫn đó! Hừ! Anh cứ đi mà giữ nó.”
“Có gì sai với nó nào?”
“Sai với nó? Theo tôi biết thì không có gì sai với nó,” cô đáp. Và đứng lên để dọn bàn.
“Sao, em cần đeo nó ngay bây giờ,” anh nói. “Có thể tôi sẽ xoay xở mua một chiếc khác một ngày nào đó.”
Barbro không đáp.
Tối hôm đó Barbro trở thành một tạo vật vô ơn. Một chiếc nhẫn bạc mới – ít nhất cô phải nồng nhiệt cám ơn anh mới phải. Hẳn là tay thư ký đó với những cung cách thị dân đã khiến cô thay lòng đổi dạ. Axel không thể kềm được câu nói: “Tôi muốn biết cái cậu Eleseus đó cứ tới đây để làm gì. Cậu ta muốn gì với em?”
“Với tôi?”
“Phải. Phải chăng cậu ta là một tên ngốc tới nỗi không thể nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra với em lúc này? Cậu ta không có mắt trên trán hay sao?”
Barbro quay thẳng sang anh ta khi nghe thấy thế: “Ồ, vậy ra anh nghĩ anh đã tóm chặt được tôi là vì chuyện đó? Anh sẽ thấy rằng anh đã sai lầm, chỉ có thế thôi.”
“Thế à!” Axel nói.
“Phải, và tôi cũng không ở đây nữa.”
Nhưng nghe thấy câu này Axel chỉ mỉm cười; không cười toe toét, cũng không cười phì vào mặt cô, không; vì anh không có ý định ngăn cản cô. Thế rồi anh nói một cách vỗ về, như với một đứa bé: “Hãy là một cô gái ngoan nào, Barbro. Chỉ có tôi và em, em biết đó.”
Và dĩ nhiên cuối cùng Barbro đầu hàng và tỏ ra ngoan ngoãn, thậm chí còn lên giường với chiếc nhẫn bạc trên ngón tay.
Tất cả sẽ đi đúng đường vào đúng lúc, đừng lo.
Đối với hai người trong túp lều, vâng. Nhưng còn Eleseus thì sao? Với cậu thì rất tệ; cậu thấy khó lòng bỏ qua được cái cung cách đáng xấu hổ mà Barbro đã đối xử với cậu. Cậu không biết gì về chứng loạn thần kinh, và xem tất cả chỉ là sự ác độc đơn thuần về phần cô gái; cái cô nàng Barbro xuất thân từ trại Breidablik đó đã nghĩ quá nhiều tới bản thân, mặc dù cô ta đã từng sống ở Bergen…
Cậu gửi trả lại cô gái tấm ảnh theo cách riêng của mình – tự tay mang nó xuống một đêm nọ và nhét nó qua cửa vựa cỏ khô, nơi Barbro ngủ. Việc đó không được thực hiện theo bất kỳ cách thức thô lỗ bất lịch sự nào, không phải vậy; cậu đã lúc lắc cánh cửa một lúc lâu để đánh thức cô, và khi cô chống cùi chỏ nhổm lên và hỏi, “Chuyện gì thế; anh không tìm thấy lối đi trong bóng đêm hay sao?” cậu hiểu rằng câu hỏi đó là dành cho một người khác, và nó xuyên qua tim cậu như một mũi kim; như một lưỡi kiếm.
Cậu quay trở về nhà, không gậy chống, không tiếng huýt sáo. Cậu không màng tới việc sắm vai đàn ông nữa. Một nhát dao cắm vào tim không phải là chuyện nhẹ nhàng.
Và đó có phải là lần cuối cùng không?
Một Chủ nhật nọ cậu đi xuống chỉ để nhìn xem; chỉ để nhìn lén lút. Với một sự kiên nhẫn bệnh hoạn và phi tự nhiên, cậu nằm nấp giữa các bụi cây, nhìn đăm đăm về phía căn lều. Khi cuối cùng một dấu hiệu của sự sống và chuyển động xuất hiện, nó đã đủ để kết thúc hoàn toàn mối tình của cậu: Axel và Barbro cùng bước ra và đi tới chỗ chuồng bò. Lúc này họ đang yêu và âu yếm với nhau, phải, họ đã có một giờ hạnh phúc; họ bước đi với đôi cánh tay choàng quanh người nhau, và anh ta sẽ giúp cô với bầy gia súc. Thế đấy, vâng!
Eleseus quan sát đôi tình nhân với một vẻ mặt như thể cậu đã đánh mất tất cả; như một người bị phá sản. Và có lẽ ý nghĩ của cậu là như thế này: Nàng ở đó tay trong tay với Axel Ström. Mình không thể nghĩ ra vì sao nàng có thể làm điều đó; đã có một thời nàng vòng đôi cánh tay quanh người mình! Và họ đã biến mất vào cái chuồng.
Tốt, cứ để mặc họ! Hừ! Phải chăng cậu đã nằm đây trong bụi rậm và quên cả bản thân? Một điều thật tốt đẹp đối với cậu – nằm úp bụng bẹp dúm ở đó và quên cả bản thân. Nói cho cùng, cô ta là ai chứ? Nhưng cậu vẫn là con người của chính mình. Hừ! Một lần nữa.
Cậu co chân đứng lên; phủi những nhánh cây và bụi đất khỏi quần áo, vươn vai và đứng thẳng lên trở lại. Lúc này cơn giận dữ và sự tuyệt vọng của cậu hiện ra dưới một hình thức lạ lùng: cậu đặt mọi quan tâm vào những cơn gió và bắt đầu hát một bài tình ca có nội dung cực kỳ phù phiếm. Và trên nét mặt cậu hiện lên một vẻ nghiêm chỉnh khi cậu chú tâm hát to hết cỡ những đoạn tồi tệ nhất.
Phúc Lành Của Đất Phúc Lành Của Đất - Knut Hamsun Phúc Lành Của Đất