Tác giả:
Nguyên tác: Người Của Biển
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:35:07 +0700
Chương 21
H
ai người hồi hộp, căng thẳng như thế đã lâu.
Ông Tám Thạnh ngồi trên đống dây mồi đầu mũi tàu hút hết điếu thuốc này, lại châm điếu thuốc khác. Ông lặng lẽ ngóng vào bến, nét mặt tư lự. Dưới chân, đầu mẩu thuốc lá như kén sâu, vương vãi.
Lê ngồi trong buồng lái nhìn ra, chốc chốc, ngó lên cái núm nhựa màu đỏ bằng chiếc nút chai gắn trước mặt. Chỉ cần chạm ngón tay vào đó, năm tạ thuốc nổ cài dưới đáy tàu, ở ca bin, ở khoang máy tức khắc nổ tung và con tàu sẽ tan ra từng mảnh như xác pháo. Lê và ông Tám đã kiểm tra kỹ mấy cái kíp nổ, anh vẫn thấy lo. Trời sáng dần. Sương mù đã tan, nhưng trên mặt biển hơi nước còn lởn vởn mờ mờ. Mặt trời giống quả khinh khí cầu nhô ra từ sau dãy núi chắn trước mặt, tròn vạnh, hồng tươi, lơ lửng bay lên. Nước cạn, đứng trên tàu nhìn vào có thể trông rõ bãi cát trơ ra khô cằn, đầy ngấn sóng. Và mặt biển trải ra mới lạ, khỏe khoắn như vừa tỉnh lại sau giấc ngủ dài mê mệt.
Lúc này Lê mới nhìn rõ vùng Hòn Hàng. Nó khác nhiều với sự tưởng tượng của anh. Ngọn núi Một chắn trên biển khiến con đường vào bãi tẽ ra như hai cửa sông. Trên bến, chếch về phía bên phải, bãi cát kéo dài sát lộ Một, những ngọn núi lô nhô như bát úp, choài ra tận mi nước. Phía bên trái là làng chài, có tên Vạn Hải. Mấy ngôi nhà gạch chắc mới cất sáng màu ve chen giữa những ngôi nhà lá lụp xụp thấp thoáng sau rặng dừa. Lưới dăng dầy trảng cát ven làng. Trên ngọn đồi khá cao kề đó, chiếc lô cốt đen trũi in hình lên nền trời. Đứng trên ấy nhìn xuống chắc tróng rõ cả vùng biển này. Bao quanh chiếc lô cốt, dăm ba ngôi nhà lợp tôn thấp tè mà từ trên tàu nhìn tới, Lê có cảm giác như những mụn vá đắp lên quả đồi. Quây lấy những mụn vá đó mấy lớp hàng rào dây thép gai kéo sát lưng chừng đồi. Dưới chân đồi, trên mặt nước, những chiếc tàu, những chiếc thuyền đánh cá nằm rải rác, im lìm. Cạnh đó, mấy chiếc lốp chà của lính cụm sát vào nhau.
Thị trấn Thương Long mà chú Tám thường nhắc tới ở chỗ nào? Có phải sát lộ Một, nơi mấy ngôi nhà gạch lờ mờ?
Mặt trời cao dần. Sương tan hẳn. Nắng hắt xuống khiến vùng biển sáng lên. Sóng lăn tăn nối nhau vỗ nhẹ vào mạn tàu. Cách con tàu vài ba chục mét, dăm bảy chiếc thuyền con hớt hải đi ra biển. Những người trên thuyền gò lưng xuống sát mái chèo, dáng vội vã, chẳng ai chú ý đến chiếc tàu mắc cạn. Xa xa, quá ngoài núi Một, loáng thoáng bóng mấy chiếc tàu đánh cá đi về hướng đông và một vài chiếc vơ-đét của hải quân ngụy chạy dọc bờ.
Con tàu hoàn toàn trơ ra giữa vịnh.
Lê ngước nhìn chiếc lô cốt cạnh làng Vạn Hải, có cảm giác như từ trên đó, bọn địch nhìn rất rõ con tàu, thậm chí thấy cả ông Tám đang lo lắng ngồi đốt thuốc triền miên đằng mũi và anh đang phấp phỏng trong buồng lái. Con tàu đã lọt vào tầm nhìn, tầm đạn của chiếc lô cốt. Chắc bọn địch đang hí hửng: "À, tàu Bắc Việt giả dạng tàu đánh cá, mắc cạn..." và đang thú vị vì con mồi mắc bẫy.
- Chú Tám! - Lê gọi nhỏ - Cho cháu hỏi điều này!
Ông Tám Thạnh đứng dậy, chân mập, lưng bè, điếu thuốc cháy trên môi, bước thong thả tới buồng lái. Đôi mắt ông bạc nhợt vẻ lo âu và nét mặt căng thẳng:
- Liệu trên đồn nó có nhận ra mình không, chú? - Lê hỏi - Cái biển số mình gắn lúc đêm đúng số đăng ký của tàu đánh cá vùng này chớ?
- Đừng lo. Bọn du kích biểu đúng - Ông Tám đủng đỉnh trả lời và đưa mắt nhìn Lê - Lúc này mày phải bình tĩnh hơn tao...
- Cháu đâu sợ! Cái biển số mình gắn chặt rồi hả chú?
- Chặt? Tao soát lại lần chót. Mày ra boong ngồi cho thoáng, đỡ căng thẳng. Đứng chi đây cho ngạt. Mình đã xác định chết cùng với con tàu con ngán chi.
- Cháu đâu ngán, nhưng đứng đây, nếu có sự gì, mình hủy tàu cho kịp.
- Chưa! - Ông Tárn ngó xuống biển - Nước cạn, chẳng có tàu lớn nào xáp vô nổi để soát tàu mình. Cứ ra boong ngồi cho đầu óc nó đỡ rối.
Hai người lững thững bước ra boong và ngồi xuống mũi tàu. Lê nhìn xung quanh, thấy con tàu hôm nay sao to cao, cứ bè bè, chênh ềnh giữa vịnh trông thật chướng.
- Lúc nào thủy triều lên, chú? - Lê hỏi, đôi mắt nhìn xuống mấy con thuyền đang lướt lại gần.
- Hôm ni mồng chín, chừng quá ngọ.
- Hơn năm tiếng nữa!
Hai người ngồi im. Lê đốt điếu thuốc, rít từng hơi mà chẳng có cảm giác gì. Chỉ thấy miệng đăng đắng. Mấy chiếc thuyền đánh cá từ đồn Vạn Hải đi tới, chạy sát chiếc tàu. Có tiếng bâng quơ đưa lên:
- Tàu lớn, vô chi đây cho cạn, hè?
- Đêm qua mù mà? Các cha tham, cho chết.
Lê đưa mắt nhìn những người trên thuyền, nhưng anh vội quay: "Sao họ cứ nhìn mình lâu vậy? Thật ngốc, nhỡ họ nhận ra mình không phải là người vùng này..."
Bất giác, Lê đưa tay sờ lên mặt.
- Chú Tám, tàu ta sơn màu sáng quá phải không? Ở đây tàu đánh cá họ có sơn màu này?
- Tàu đánh cá thì sơn tùm lum, kể chi màu sáng, màu tối.
- Cháu lo cái cột treo lưới của mình cao quá đó!
- Tao biểu mày không được nghĩ nhiều. Cái chi cũng sợ địch nó nghi! Bình tĩnh chớ!
- Nếu có sự gì, chú cháu mình sẽ đâm tàu vào chiếc tàu nào lớn nhất của nó, mạng đổi mạng chú nhé!
- Chớ sao? Để nó lấy tàu dong vô Sài Gòn thì ngồi đây chi.
- Anh em trên bờ chắc đang lo cho chú cháu mình lắm đấy!
- Tội nghiệp! Mình lo một, bọn hắn lo đến mười. Đứng dưới gốc lo hơn người trèo lên ngọn. Mong sao cho trời chóng tối, hí!
Lê lại nhìn lên đồn Vạn Hải, nghĩ miên man. Thời gian chậm chạp trôi. Mỗi phút đi qua ví bằng một ngày. Lê nghĩ rằng chắc gì mình đã chịu nổi cảnh chờ đợi này thêm mấy tiếng nữa! Thần kinh căng lên tưởng không có thể đứt phựt cả màng não. Giá bọn địch cứ cho tàu xáp vào và Lê cùng với ông Tám hoặc dùng B.40 hoặc dùng ĐKZ đánh trả, hoặc sẽ ấn vào nút điện cho tàu nổ tung lên thì đỡ hơn bao nhiêu. Trò ú tim này đến vỡ lồng ngực mất.
Ngó vẩn vơ lên nóc tàu. Lê chợt hỏi:
- Cái cờ ba que mình treo trên dó mới quá hả chú Tám? Giá nó cũ đi một chút.
- Mày nhìn mấy chiếc thuyền vừa đi qua đó, độc treo cờ ba que mới. Chớ ngại. Bọn chủ tàu thích treo cờ mới cả. Nè, mình phải ăn uống chút gì chớ? Từ chiều qua tới giờ chưa có chi vào bụng lận.
- Chú đói à?
- Không đói, nhưng tao nghĩ mình phải ăn mà giữ sức. Mấy giờ rồi?
- Mười giờ! Cháu vào lấy ít đồ ăn nhé!
- Vô đi!
Lê mang ra mấy gói lương khô, hai hộp thịt, hai hộp dứa. Nhưng khi mở ra không ai đụng tới, chỉ nhấm chút nước dứa rồi lại ngồi đốt thuốc. Nuốt không trôi. Ông Tám ngó chừng xuống mạn tàu rồi quay lại, bảo Lê:
- Có triệu chứng nước lên rồi đó. Lạy Trời Phật, biết đâu mình thoát hả Lê...
Từ dưới đồn Vạn Hải, một chiếc lốp chà lách qua đám thuyền bè, đâm mũi hướng về phía chiếc tàu. Mặt ông Tám biến sắc:
-Thuyền máy tụi nó đó nghe! Bình tĩnh, mày! - Ông nói, mắt không rời chiếc lốp chà đang mỗi lúc mỗi gần - Có chi để tao ứng phó. Nghe tiếng mày, nó nhận ra người khác vùng, nó bắn liền đó.
Lê kín đáo lên đạn khẩu súng ngắn, lận vào người rồi giả bộ đứng dậy ngó ra biển, mặt tỉnh khô.
Chiếc thuyền máy rạch nước lướt qua con tàu. Được một đoạn, chợt nó giảrn máy, lộn lại.
- Mặc tao nghe, không được nóng vội đó! - Ông Tám nhắc.
Chiếc lốp chà áp sát mạn tàu.
- Ê, chủ tàu? - Tên lính đứng dạng chân trên thuyền, gọi lên.
- Dạ, chú cho gọi! - Ông Tám bước tới mép tàu, khuôn mặt cố tươi tỉnh, dáng nhanh nhẹn như không có điều gì xảy ra.
- Bị cạn hí? - Tên lính ngửa mặt lên hỏi - Mù mà, đêm qua thằng Năm rỗ lái chiếc lốp chà đi ăn mảnh, lạc vô chỗ nào chưa thấy về. Coi chừng lại biếu mấy tay du kích. Nè, có con cá con mực nào ngon ngon quẳng xuống một ít tụi này lai rai chơi.
Ông Tám thấy an lòng, cố nén tiếng thở mạnh.
- Dạ, đêm qua tưởng kẹt ngoài khơi chớ. Kiếm được ít cá bọn chợ ra nài, bán hết trơn rồi. Dạ, nhưng có cái ni biếu các chú uống cho đỡ sầu - ông Tám quay lại phía Lê - Út, vô lấy chai rượu Pháp để biếu mấy chú, nghe.
- Rượu Tây hả chú Ba? Chà chà... - Khuôn mặt tên lính giãn ra, vẻ thích thú.
Hiểu ý, Lê lấy chai rượu còn nguyên nhãn đưa ông Tám. Ông Tám cúi xuống đưa cho tên lính. Nó rướn người, với tay đón lấy.
- Ủa, chú Hai kiếm đâu ra của quý này ta? - Mắt tên lính sáng lên khi nhận ra chai rượu ngoại.
- Hôm qua gặp tàu nước ngoài, xáp vô. Họ đổi tôm.
- Chà, chú Ba không uống sao đưa tụi tui?
- Tui quen đế, uống thứ ni nhạt.
- Ông già quê quá ha. Rượu loại nhứt đó!
Tên lính cho chai rượu vào túi, toan quay vào, chợt nó ngẩng lên hỏi:
- Thằng nào trắng như con gái vậy chú Hai? Bộ không phải dân vùng biển.
- Dạ, quên trình mấy chú - Giọng ông Tám suôn sẻ - út đằng vợ ba tui đó. Kêu hắn là Chín.
Tên lính nhe răng cười:
- Chu cha, già mà lắm "đĩ" vậy, cha nội?
Ông Tám cũng cười:
- Cũng chỉ có ba. Thằng này là cháu ngoại bà Mỹ Thạnh, hiệu vàng lớn nhứt Sài Gòn. Chắc chú biết hiệu kim hoàn Mỹ Thạnh.
- Biết! Biết! Tôi rành Sài Gòn lắm.
- Từ nhỏ nó sống ở đó. Nhưng tui không muốn nó cớm nắng. Tui đưa nó ra đây cho nó tập làm quen với biển. Nó vừa ở Sài Gòn ra mấy hôm ni. Má nó la tui dữ quá...
- Cậu ấm đi biển hả chú Năm? Đầy chi nó cho khổ.
- Dạ, cũng thử cho nối nghiệp coi sao.
- Tụi tui đi nghe. Lần sau có loại rượu Mác-ten này, chú cứ đổi về thiệt nhiều, bọn này chuộc lại, đừng sợ thiệt. Tụi tui sòng phẳng mà. Bai nghe! Còn phải đi tìm thằng Năm rỗ.
- Dạ, mấy chú đi!
Chiếc thuyền vừa tách khỏi mạn tàu, Lê loạng choạng ngồi xuống. Da mặt tái nhợt, mồ hôi túa đầm người. Sự căng thẳng khiến anh như người bị choáng. Ông Tám ái ngại nhìn Lê: mới từ đêm qua tới giờ mà trông hắn khác quá! Hắn lo cho con tàu, lo cho công việc dữ!
- Nước đang cường đó Lê. Vài tiếng nữa ta ra khỏi chỗ cạn, tàu cơ động được là đỡ lo...
- Vừa rồi cháu hãi quá? Chú đóng kịch giỏi thật!
Gió bắt đầu nổi lên. Sóng vỗ vào mạn nghe đã rõ lắm. Ông Tám lắng tai và có phần an tâm.
Hai người nhìn ra bốn phía. Vùng Hòn Hàng giờ này tấp nập thuyền bè. Thuyền đánh cá, thuyền chở hàng qua lại hối hả.
Thời gian trôi nặng nề, chậm chạp.
Khi mặt trời rọi nắng thẳng góc xuống boong tàu, thì có tiếng máy bay sà thấp, rẹt qua rồi mất hút ngoài biển.
- Kệ nó, đừng hốt!
- Cháu đâu có hốt. Nó chụp ảnh mình chăng?
Hai người ngóng theo và cùng lắng nghe, chiếc máy bay không quay lại.
- Nó bay thẳng, không lo? - Lê nói - Vụ Vũng Rô ngày trước cũng do máy bay phát hiện ra tàu ta rồi gọi tàu chiến và quân lính tới bao vây đấy!
- Tao nhớ! Nhưng lần này mình công khai. Tàu cá có treo cờ quốc gia, có biển số đăng ký, lại đậu ngay chân đồn... Bắc Việt nào dám thế?
Khoảng quá trưa, một chiếc thuyền con treo cờ ba que, có lưới, có chài từ phía Bắc đi lại. Tới ngang con tàu người đàn ông chèo phía sau cho thuyền dừng hẳn, áp sát mạn.
Lê và ông Tám hoảng hốt kín đáo nhìn xuống.
Nhưng Lê nhận ra người con gái ngồi trước mũi thuyền gở lưỡi là Sáu Thùy. Anh chạy lại mép boong.
- Kìa, cô Sáu, có tin gì đó? - Lê cúi xuống, lo ngại.
Sáu Thùy đưa mắt ngó quanh, rồi đứng dậy:
- Ban chỉ huy bến và mấy anh trên đó biểu em ra nói với anh: đặt giờ cho tàu nổ, còn anh và chú Tám theo thuyền vô bờ luôn - Sáu Thùy nói, mắt vẫn liếc ra bốn phía - Các chú và mấy anh nhận định máy bay dã chụp hình tàu mình, chắc lộ. Hủy tàu càng sớm càng hay. Trên bến đã chuẩn bị êm mọi việc.
- Sao lại hủy tàu? - Lê ngạc nhiên nói, đôi mày nhíu lại - Sáu Thùy về bảo với các anh trên đó rằng tàu chưa lộ đâu. Nếu nghi, máy bay nó đã đảo lại. Đồn Vạn Hải cũng chưa động tĩnh gì mà.
- Vô thôi anh Lê! - Tiếng Sáu Thùy khẩn thiết - Ở lại nguy hiểm lắm đó. Trên đã có lệnh... Em lo cho anh quá!
- Sáu Thùy cứ an tâm. Đêm nay tàu sẽ ra được. Nước đang lên rồi. Nhắn với anh Lượng là tôi sẽ chờ anh em ở chỗ ngọn núi nhô ra biển nhé.
- Anh Lê, đừng...Vô đi! Cơ sở trong đồn báo ra là bọn hải thuyền mới về đang muốn lập chiến tích đó...
- Sáu Thùy đi đi kẻo chúng nghi?
Đôi mắt đen ngước nhìn Lê hồi lâu.
" Người đâu mà gan! - Cô cho chiếc thuyền rời khỏi tàu - Thuyền trưởng. Anh ấy trẻ quá, dễ thương quá. Trời ơi, nếu có điều chi...".
- Sao đó Lê? - Ông Tám hỏi khi Lê bước tới gần.
- Các anh bảo hủy tàu, nhưng cháu không nghe.
- Hủy tàu? Nước lên mạnh rồi, hủy tàu chi? Các cha chỉ lo không đâu... Ta nổ máy được rồi đó.
- Chờ nước lên lúc nữa cho ăn chắc, chú!
Hai người thấp thỏm chờ. Biết tàu đang dềnh lên, Lê mừng lắm. Nếu lúc này cũng còn cơ động được, ít cũng đổi một mạng tàu của chúng, đã dễ gì bắt sống nhau lúc này! Anh đi đi lại lại trên boong, vẻ mặt tươi tỉnh hơn.
Lúc sau, Lê và ông Tám quay tời kéo neo.
- Bây giờ chú chạy máy, cháu lái, ta vòng ra ngoài núi Một, gặp tàu địch, chú theo lệnh cháu nhé.
- Nổ máy, hí! - Ông Tám lật bật chạy xuống khoang.
Con tàu rùng lên, quay mũi và chạy chậm ra phía biển. Lúc đó, khoảng ba giờ chiều.
Qua núi Một, Lê lái tàu đi về hướng bắc rồi chạy vòng vo như thể tàu đang thả lưới. Và cũng là để giết thời gian.
Khi mặt trời xuống thấp, nhiều tàu cá hối hả đi vào vịnh, anh đưa tàu lẫn vào.
Đang nghĩ chưa biết đưa tàu vào đâu để tối nay đón anh em mình thì ông Tám từ dưới khoang chạy lên:
- Cho tàu nép dưới chân đồn Vạn Hải như mọi tàu khác nghe, Lê.
Nói rồi ông vội vã xuống khoang.
Đám tàu cá của dân cụm cả dưới chân đồn. Hiểu ý ông Tám, Lê đưa tàu tới đó, đậu phía ngoài cùng. Tính tới chuyện chốc nữa con tàu phải vòng ra.
Ông Tám tắt máy, lên buồng lái.
- Ổn đó! - Ông bảo.
Hai người đứng trong buồng lái nhìn ra và mong sao cho bóng tối chóng sập xuống.
Ráng chiều đỏ như một đám cháy hắt lên sau lộ Một. Sóng biển lấp lóa trong màu hồng nhạt.
Ba chiếc lốp chà đi tuần quanh vịnh, xua tàu thuyền vào bến, đang vội vã trở về. Chúng dàn hàng một lướt qua con tàu của Lê rồi luồn lách giữa đám tàu thuyền đỗ rải rác, tới đậu sát bờ.
Mặt biển trở nên tĩnh lặng.
Lê đứng trong buồng lái, cạnh ông Tám. Nghĩ rằng vài tiếng nữa, lại đầy đủ mọi người, Lê hồi hộp đến lạnh cả người. Tất cả diễn ra cứ như một giấc mơ. Nó nằm ngoài sự mong muốn. Bọn địch cũng không thể nghĩ tới...
Chiều mùa đông, trời tối nhanh. Ngọn núi Một chìm lỉm trong bóng tối. Đứng trên tàu nhìn lên đã không nom rõ bờ. Đèn pha ở đồn Vạn Hải bắt đầu rà quét.
Thời gian trôi qua...
Khi mặt biển đen sẫm, ông Tám Thạnh xuống khoang nổ máy. Con tàu lầm lũi ngược lên hướng cũ. Tới ngang ngọn núi toài ra mép nước, nó đừng lại. Trời tối bưng.
Ba chiếc thuyền chờ sẵn quanh đó vội vã trườn tới. Cuộc chia tay diễn ra bên mạn tàu. Tiếng chào hỏi ríu rít.
- Bọn tôi đi nhé cô Mười. Anh Quế và các đồng chí! Cám ơn các đồng chí nhiều lắm.
- Chúng tôi và đồng bào miền Nam phải cám ơn các anh chớ.
- Anh về nói với chú Ba là nhất định lần sau chúng tôi sẽ vào
- Đi nghe chú. Mạnh giỏi hí! Nhớ các chú lắm!
- Tụi tui hứa đánh giặc thiệt giỏi kẻo phụ lòng các anh.
- Anh Cang, đừng quên em nghe. Anh hứa lại vô. Nhớ không?
- Nhớ chứ. Chiếc khăn Mười đưa tôi sẽ giữ mãi để làm kỷ niệm... Tôi không quên đâu.
- Thiệt nghe!
- Thiệt mà! Ơ kìa, sao lại khóc, Mười... Nín đi, Anh... Anh hứa là sẽ vào mà...
- Em nhớ các anh...
- Mười nói lại với Sáu Thùy bọn anh cũng nhớ.
- Bộ chỉ nhớ chị Sáu thôi sao?
- Mười!
- Anh Lê, chú Tám đi mạnh nghe! Hẹn dịp hội ngộ - Có tiếng ai đó nói với lên - Sáu Thùy không ra được, nó nhắn tui gửi lời chào thuyền trưởng Lê.
Lê cúi xuống, mới nói được mấy tiếng: "Cho tôi chào tất cả..." thì thủy thủ nhanh chóng ào lên boong.
Lê và Tám Thạnh ôm lấy từng người, mừng quá! Có thủy thủ lau nước mắt.
Boong tàu rộn ràng.
- Thôi, ta tranh thủ đi!
Con tàu rê mũi. Hầu hết thủy thủ đều ra sát mép boong toài người xuống, nói với những lời cuối cùng.
- Mười!
- Anh Cang!
- Các anh đi mạnh giỏi!
- Mong bình an!
Khi con tàu chạy đã khá xa, thủy thủ vẫn tần ngần ngóng về phía bờ, lưu luyến...
Lê cho tăng tốc độ. Con tàu lướt êm trong đêm.
- Các đồng chí, tất cả về vị trí của mình, sẵn sàng chiến đấu. Từ đây ra tới biên quốc tế vẫn có khả năng gặp tàu địch. Trước mắt chúng ta vẫn là khó khăn - Chính trị viên Lượng nhắc nhở.
Và mọi người tản về vị trí.
Lê quay sang ông Tám Thạnh:
- Thế là chú Tám chưa thỏa nguyện vọng đặt chân lên Hòn Hàng.
- Như vậy tao cũng đã lắm rồi đó, Lê. Quê hương khác nhiều quá!
Ông Tám nói, khuôn mặt vân ngóng về phía bờ.