Nguyên tác: L'étoile Du Sud (1884)
Số lần đọc/download: 1911 / 69
Cập nhật: 2018-12-04 06:06:47 +0700
Chương 20 - Trở Về
C
hưa khi nào John Watkins khó chịu tới vậy kể từ khi bốn chàng cầu hôn con gái ông lên đường truy tìm Matakit. Mỗi ngày, mỗi tuần trôi qua như khiến ông ngày một khó chịu thêm nữa và làm giảm dần cơ hội mà ông tin rằng sẵn có để tìm lại được viên ngọc quý. Thêm việc ông nhớ đám bạn ngồi chung bàn James Hilton, Friedel, Annibal Pantalacci, và cả Cyprien nữa, những người mà ông đã quen thấy họ gần bên. Thế nên ông ngất ngưởng bên hũ rượu gin và cần phải nói rõ là những thứ rượu chè mà ông tự chuốc vào kia hoàn toàn không được tạo ra để làm dịu đi cái tính khí của ông!
Hơn nữa, ở trang trại, mọi người hoàn toàn đúng khi lo lắng cho số phận những người sống sót sau cuộc hành trình. Thực ra, Bardik, đã bị nhóm người da đen bắt cóc - Những bạn đồng hành của cậu cũng giả định như thế - đã bỏ trốn thành công vài ngày sau đó. Trở về Griqualand, cậu báo cho ngài Watkins về cái chết của James Hilton và Friedel. Đây thực sự là một điềm gở cho những người còn sống của hành trình tìm kiếm, Cyprien Méré, Annibal Pantalaci và anh chàng người Hoa.
Alice cũng vô cùng đau khổ. Nàng không còn ca hát nữa, cây đàn dương cầm của nàng bặt hẳn tiếng. Có chăng bọn đà điểu còn làm nàng quan tâm chút ít. Bản thân con Dada cũng không tài nào làm nàng cười bởi tính háu ăn của nó nữa, nó nuốt vô tội vạ, mà không hề bị cản, những thứ hỗn tạp nhất.
Tiểu thư Watkins giờ đang mang hai nỗi sợ cứ lớn dần trong trí tưởng tượng của nàng: một là Cyprien không bao giờ trở về từ cuộc viễn chinh đáng nguyền rủa này; hai là Annibal Pantalacci, người nàng căm ghét nhất trong ba người cầu hôn nàng, sẽ đem Ngọc Phương Nam về và ra giá cho công trạng của hắn. Ý nghĩ nàng có thể bị buộc trở thành vợ của tên người Napôli độc ác và gian xảo này gợi lên trong nàng sự buồn chán không thể nào cưỡng lại được - Nhất là kể từ khi nàng gặp và yêu mến một chàng trai thực sự tuyệt vời như Cyprien Méré. Nàng nghĩ đến chàng mỗi sáng, mơ về chàng mỗi đêm, và đôi má tươi tắn của nàng đang tái xanh đi, cặp mắt xanh kia đang bị một đám mây ngày càng u ám che phủ.
Vậy mà đã ba tháng nàng ngóng đợi như thế trong im lặng và buồn bã. Tối hôm đó, nàng đang ngồi dưới chao đèn, gần bên cha nàng đang ngà ngà ngủ bên hũ rượu. Đầu nghiêng xuống tấm vải thêu mà nàng đang thực hiện để bổ khuyết vào âm nhạc bị lãng quên, nàng buồn rầu nghĩ ngợi.
Một tiếng gõ cửa nhẹ vang lên bất lình thình cắt ngang giấc mơ dài của nàng.
“Mời vào,” nàng nói, hơi ngạc nhiên và tự hỏi ai lại có thể đến vào giờ này.
“Chỉ có thể là tôi, tiểu thư Watkins!” một giọng nói trả lời khiến nàng run rẩy - giọng nói của Cyprien.
Và chàng đã thực sự trở về, xanh xao, gầy gò, rám nắng, với bộ râu dài khiến người ta không nhận ra chàng, bộ quần áo sờn đi vì hành trình dài, nhưng luôn hoạt bát, lịch thiệp, luôn là ánh mắt rạng rỡ và khóe miệng tươi vui.
Alice đứng dậy thốt lên một tiếng đầy ngạc nhiên và hạnh phúc. Một tay nàng dùng để kìm nén nhịp đập của trái tim; tay kia nàng đưa về chàng kỹ sư trẻ tuổi, chàng nắm chặt lấy tay nàng, ông Watkins thoát khỏi trạng thái lơ tơ mơ, ông liền mở mắt và hỏi điều có gì mới mẻ chăng.
Phải mất tới vài ba phút thì ông chủ trang trại mới nhận thức được thực tại. Nhưng, một chút tỉnh táo vừa trở lại với ông thì cũng là lúc ông kêu lên, tiếng kêu thốt lên từ trái tim.
“Thế viên kim cương đâu?”
“Viên kim cương, than ôi! nó không quay về.”
Thế là Cyprien kể vắn tắt những thăng trầm của chuyến đi. Chàng nói về cái chết của Friedel, Annibal Pantalacci và James Hilton, cuộc truy lùng Matakit và việc cậu bị giam cầm ở làng của Tonaïa - mà không đề cập gì đến việc cậu trở về Griqualand - Nhưng chàng nói rõ những căn cứ xác đáng chứng tỏ sự vô tội của cậu bé nam Phi. Chàng không quên khen ngợi sự tận tâm của Bardik và của Lee, tình bạn của Pharamond Barthès, thuật lại tất cả những gì mà chàng nợ anh chàng thợ săn dũng cảm đó, và làm thế nào mà nhờ có anh ấy giúp chàng mới có thể quay về cùng hai người giúp việc của mình từ chuyến hành trình chết chóc ấy. Với cảm xúc mà câu chuyện bi kịch này gợi lên, chàng đã cố tình che đậy những tội lỗi và ác tâm của các đối thủ, vì chàng chỉ muốn xem họ như là những nạn nhân của một cuộc thám hiểm chung. Chàng kể mọi chuyện đã xảy ra, chỉ giữ lại chuyện chàng đã thề giữ bí mật, tức là chuyện về căn động huyền diệu cùng sự phong phú đá khoáng ở đấy mà khi so cạnh chúng mọi kim cương ở Griqualand chỉ còn là những viên sỏi vô giá trị.
Chàng nói để kết thúc: “Tonaïa đã giữ đúng cam kết. Hai ngày sau khi tôi đến thủ phủ của ông ta, mọi thứ đã sẵn sàng cho chuyến trở về của chúng tôi, thức ăn dự trữ, các cỗ xe và đoàn tùy tùng. Theo lệnh của đích thân nhà vua, khoảng ba trăm người da đen, mang đầy bột và thịt xông khói, đã tháp tùng chúng tôi đến tận nơi đóng trại, nơi chúng tôi đã để lại một toa xe trong tình trạng còn tốt, dưới đám bụi rậm đang phủ lên nó. Thế là chúng tôi cáo từ vị gia chủ đã tiếp đãi mình sau khi đã đưa cho ông ta năm cây súng thay vì bốn như ông ta đã tính - trên thực tế là người được tôn làm vị chúa tể đáng sợ nhất toàn vùng nằm giữa lưu vực dòng Limpopo và Zambèze!”
“Nhưng chuyến trở về của các anh bắt đầu từ chỗ đóng trại thì sao?...” tiểu thư Watkins hỏi.
“Hành trình trở về của chúng tôi bị chậm dù dễ dàng và không có tai nạn,” Cyprien trả lời. “Đoàn tùy tùng chỉ rời chúng tôi khi tới biên giới Transvaal, nơi Pharamond Barthès cùng những người của bộ lạc Bassouto đã chia tay chúng tôi để trở về Durban. Cuối cùng, sau bốn mươi ngày đi xuyên qua Veld, chúng tôi có mặt ở đây, không hơn không kém so với lúc ban đầu!”
“Nhưng tại sao Matakit lại bỏ trốn?” ông Watkins lên tiếng hỏi, ông đã vô cùng chăm chú lắng nghe câu chuyện mà không biểu lộ chút cảm xúc thái quá nào về việc ba người đàn ông không quay trở về nữa.
“Matakit chạy trốn vì cậu ta mắc bệnh sợ hãi!” chàng kỹ sư trẻ trả lời.
“Vậy thì không có công lý ở Griqualand hay sao?” ông chủ trang trại nhún vai trả lời.
“Ôi! Công lý thường quá sơ sài, ngài Watkins à, và thực ra là tôi không thể trách cậu bé nghèo khổ đáng thương, bị buộc tội nhầm kia, đã cố chạy trốn ngay từ cảm xúc đầu tiên ập đến do sự biến mất khó hiểu của viên kim cương!”
“Tôi cũng thế!” Alice thêm vào.
“Dù sao, tôi nhắc lại với mọi người, cậu ta không có tội, và tôi tin rằng mọi người từ bây giờ sẽ để cậu ta yên!”
“Hừm!” John Watkins lên tiếng, dường như không có vẻ bị thuyết phục trước lời khẳng định đó. “Mọi người không tin là tên xảo trá Matakit ấy chỉ vờ sợ hãi để thoát khỏi sự truy đuổi của cảnh sát ư?”
“Không!... Cậu ta vô tội!... Niềm tin của tôi vào chuyện này là tuyệt đối,” Cyprien đáp hơi sẵng giọng, “tôi đã mua niềm tin đó, tôi nghĩ là với giá khá đắt!”
“À, anh cứ giữ lấy ý kiến của anh!” John Watkins nói lớn. “Còn ta, ta giữ ý kiến của ta!”
Alice cảm thấy cuộc thảo luận có nguy cơ chuyển thành tranh cãi, nàng vội vã nói sang việc khác.
“Nhân tiện, anh Cyprien Méré,” nàng nói, “anh có biết rằng, trong khi anh vắng mặt, hầm mỏ của anh đã trở nên vô cùng tuyệt vời và rằng người cộng sự của anh, Thomas Steel, đang trở thành một trong những người giàu có nhất trong số những người khai thác mỏ ở Kopje?”
“Tôi hoàn toàn không biết!” Cyprien trả lời thực thà. “Nàng là người đầu tiên tôi đến thăm, tiểu thư Watkins, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trong khi tôi vắng mặt!”
“Hình như anh chưa ăn tối?” Alice kêu lên với bản năng của một người nội trợ hoàn hảo vốn là bản chất của nàng.
“Thú thực là chưa!” Cyprien đỏ mặt trả lời, dù sao chuyện đó cũng chẳng to tát gì.
“Ôi, anh không thể đi như vậy mà không ăn gì, anh Méré! Cần lấy lại sức... sau chuyến hành trình quá cực khổ như vậy!... Hãy nghĩ xem, bây giờ đã mười một giờ tối rồi!”
Không cần nghe bất cứ lời phản đối nào, nàng chạy ngay xuống bếp rồi quay lại với một khay phủ vải trắng, trên khay là vài đĩa thịt nguội và bánh kem mứt đào mà nàng tự làm.
Bộ dao dĩa mau chóng được sắp trước mặt Cyprien, đang vô cùng bối rối. Rồi, vì chàng có vẻ lưỡng lự trước khi cầm dao lên cắt miếng thịt khô “biltong” ngon tuyệt, một loại đà điểu đóng hộp:
“Anh cần phải cắt nó ra chứ?” tiểu thư Watkins vừa nói vừa nhìn chàng với nụ cười tươi tắn.
Ngay sau đó ông chủ trang trại, cũng cảm thấy thèm ăn trước sự phô trương thức ăn này, về phần mình cũng muốn có một đĩa và một lát thịt khô. Alice không để ông chờ lâu, rồi hòa nhịp để theo hai quý ông, nàng bắt đầu nhấm nháp hạnh nhân.
Đây là bữa tiệc đêm ngẫu hứng đầy thú vị. Chưa bao giờ chàng kỹ sư trẻ cảm thấy ngon miệng tới vậy. Chàng ăn liền một mạch ba cái bánh kem mứt đào, uống hai ly rượu vang Constance và tự thưởng cho chiến tích của mình bằng việc ưng thuận nếm rượu gin của ông Watkins - Người không lâu sau đó lại ngủ thiếp đi.
“Còn nàng, ba tháng qua nàng làm gì?” Cyprien hỏi Alice. “Tôi e rằng nàng đã quên tất cả kiến thức hóa học rồi!”
“Không đâu, thưa anh, anh đã nhầm rồi!” tiểu thư Watkins trả lời với giọng hơi trách móc. “Ngược lại, tôi đã học rất nhiều, và thậm chí tôi tự cho phép mình làm vài thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của anh. Ôi, tôi đã không làm vỡ gì đâu, anh cứ yên tâm, tôi đã sắp xếp lại mọi thứ đâu vào đó! Tôi rất thích hóa học, chắc chắn là vậy. Thực lòng, tôi không hiểu tại sao anh có thể từ chối một môn khoa học hay như vậy để đi làm thợ mỏ rồi làm kẻ chạy đua xứ Veld!”
“Nhưng nàng biết rõ vì sao ta từ bỏ hóa học mà, tiểu thư Watkins!”
“Tôi hoàn toàn không biết gì cả,” Alice đỏ mặt trả lời, “và tôi cảm thấy điều đó thật tệ! nếu là anh, tôi sẽ cố gắng làm ra kim cương! Điều đó lịch thiệp hơn là việc đào bới dưới đất!”
“Nàng ra lệnh cho tôi đấy ư?” Cyprien hỏi với một giọng hơi run run.
“Ồ không, tiểu thư Watkins cười đáp, đó là lời thỉnh cầu thì đúng hơn!...”
“Anh Méré,” nàng nói tiếp, “như muốn chữa lại những lời hờ hững của nàng, nếu anh biết là tôi đã đau buồn nhường nào khi biết anh phải chịu đựng tất cả những mệt nhọc, những nguy hiểm vừa trải qua! Tôi không biết cụ thể là gì, nhưng tôi tin ít nhất mình đoán được nhiều chuyện trong đó! Một người đàn ông như anh, tôi tự hỏi, uyên bác như vậy, được trang bị nhiều kiến thức để làm những công việc tốt đẹp đến vậy, để tạo ra những phát minh vĩ đại, liệu anh ta có phải chịu chết một cách bi thảm nơi hoang mạc, vì một vết rắn cắn hay bởi nanh vuốt của cọp, mà chẳng cống hiến gì cho khoa học và nhân loại?... Nhưng, việc để anh ta đi là một tội ác!... Và rằng tôi đã có lý!... Vì cuối cùng, chẳng phải là điều kỳ diệu sao khi anh đã trở về với chúng tôi? Và nếu không có bạn anh, anh Pharamond Barthès, người sẽ được Chúa ban phúc lành cho, thì....”
Nàng chưa nói hết, nhưng hai giọt nước mắt, lăn trên khóe mắt nàng, đã nói hộ suy nghĩ của nàng.
Cyprien cũng hết sức cảm động.
“Đối với tôi, hai giọt nước mắt này còn quý hơn mọi viên kim cương trên thế giới, nó làm tôi quên hết nỗi mệt nhọc khác!” chàng nói bình dị.
Với cách cư xử tế nhị thường ngày, tiểu thư phá vỡ bầu không khí im lặng bằng việc quay trở lại câu chuyện thí nghiệm hóa học của nàng.
Khi Cyprien quyết định trở về nhà thì trời đã quá nửa đêm, ở đấy một đống thư tín từ Pháp mà tiểu thư Watkins đã sắp xếp cẩn thận trên bàn làm việc đang chờ chàng.
Những lá thư này đến với chàng sau bao ngày vắng mặt, chàng hầu như không dám mở chúng ra. Liệu những bức thư sẽ mang đến cho chàng tin xấu nào chăng!... Cha, mẹ và em gái Jeanne của chàng!... Biết bao nhiêu chuyện có thể đã xảy ra trong ba tháng!...
Chàng kỹ sư trẻ, sau khi đọc lướt qua và nhận thấy những bức thư này chỉ mang đến cho chàng sự hài lòng và niềm vui, liền thở phào nhẹ nhõm. Tất cả người thân của chàng đều khỏe mạnh. Từ bộ, người ta gửi tới chàng những lời khen nồng nhiệt nhất cho thuyết hình thành kim cương của chàng. Chàng có thể kéo dài thêm ba tháng quãng thời gian gian lưu lại Griqualand nếu chứng minh được lý thuyết đó có lợi cho khoa học. Vậy là mọi chuyện đang diễn ra hết sức tốt đẹp. Cyprien chìm vào giấc ngủ, và tối hôm đó chàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn sau bao chuyện đã qua.
Sáng hôm sau trôi qua bằng việc đến thăm những người bạn của chàng, đặt biệt là thăm Thomas Steel, người rõ ràng đã tiến hành những khám phá tuyệt vời tại mỏ. Chàng trai quả cảm người Lancashire thân tình chào đón cộng sự của mình. Cyprien nhất trí với anh ta rằng Bardik và Lee sẽ làm việc trở lại như trước. Nếu họ may mắn trong việc tìm kiếm của mình, chàng định sẽ dành riêng một khoản để sớm tạo cho họ một số vốn nhỏ.
Về phần mình, chàng quyết định không tìm vận may trong hầm mỏ nữa, nơi chàng luôn gặp bất lợi, và theo lời thỉnh cầu của Alice, chàng quyết định một lần nữa quay lại với việc nghiên cứu hóa học của mình.
Cuộc trò chuyện với cô gái trẻ chỉ góp phần khẳng định thêm những suy nghĩ của riêng chàng. Đã từ lâu, chàng tự nhủ với mình rằng con đường thực sự dành cho chàng không phải là những công việc tay chân cũng không phải những cuộc viễn chinh khám phá. Vốn quá trung thực và kiên định với lời chàng đã hứa để có thể nghĩ đến việc lợi dụng lòng tin của Tonaïa, nghĩ đến việc tận dụng hiểu biết về một cái hang rộng lớn đầy thể kết tinh kia, chàng tìm thấy trong điều xác thực đã qua trải nghiệm ấy lời xác nhận hết sức quý báu cho lý thuyết của chàng về đá quý mà khỏi phải nghiên cứu vất vả thêm.
Thế là Cyprien quay trở lại cuộc sống với những thí nghiệm của chàng một cách rất tự nhiên, nhưng chàng không muốn từ bỏ con đường mà chàng đã thành công và quyết định bắt đầu lại những nghiên cứu đầu tiên của mình.
Về việc này, chàng có một lý do, một trong những lý do nghiêm túc nhất, như người ta có thể nhận định về nó.
Thật ra, kể từ viên kim cương nhân tạo xem như bị biến mất vĩnh viễn, ngài Watkins, người từng có ý nghĩ sẽ ưng thuận đám cưới của Cyprien và Alice, giờ hoàn toàn không nói về chuyện đó nữa. Nhưng có lẽ, nếu chàng kỹ sư có thể làm lại một viên đá khác trị giá hàng triệu, thì ông chủ trang trại có thể quay lại suy nghĩ trước kia.
Do đó, giải pháp này được bắt đầu tiến hành không chậm trễ, và Cyprien không che giấu việc này đối với những thợ mỏ của Vandergaart-Kopje - có lẽ là không đủ.
Sau khi tìm được một cái ống mới chịu lực cao, chàng lại bắt đầu công việc trong cùng những điều kiện trước đây.
“Tuy nhiên, cái tôi còn thiếu để có được cácbon kết tinh, nghĩa là kim cương, chàng nói với Alice, đó là dung môi thích hợp, một chất mà thông qua hiện tượng bay hơi hoặc làm lạnh, thúc đẩy cácbon kết tinh. Người ta đã tìm thấy dung môi này cho nhôm ôxít trong khí cácbon lưu huỳnh. Vì vậy vấn đề là cần tìm ra chất này, bằng phép loại suy, cho cácbon hay thậm chí cho những chất tương tự, như bo hay silíc điôxít.”
Tuy nhiên, dù không có được dung môi này, Cyprien vẫn tích cực tiến hành công việc của mình. Do vắng Matakit vốn chưa trình diện ở khu mỏ, vì thận trọng, Bardik là người được giao việc giữ lửa cả đêm lẫn ngày. Nhiệm vụ này, cậu đã hoàn thành với tất cả lòng hăng hái như người tiền nhiệm.
Trong khi đó, vì được báo trước rằng sau kỳ gia hạn lưu trú này ở Griqualand, chàng có thể sẽ bị buộc trở về châu Âu, Cyprien muốn làm một việc nằm trong dự định của mình mà chàng chưa thể thực hiện: đó là xác định hướng chính xác của một vùng đất trũng, nằm ở Đông Bắc cao nguyên - chỗ trũng mà chàng nghi trước đây vốn là nơi dòng chảy của nước đi qua, và là nơi bắt đầu việc hình thành kim cương của khu vực.
Vì vậy, năm hay sáu ngày sau khi trở về từ TranVaal, chàng bận rộn với việc xác định hướng này với độ chính xác mà chàng thường thực hiện trong mọi hành động. Từ một giờ nay, chàng đặt cột mốc và ghi lại các điểm định vị trên một cái sơ đồ hết sức chi tiết mà chàng kiếm được ở Kimberley, và điều đặc biệt là chàng luôn nhận thấy trong những con số có độ sai lệch lớn hay ít nhất là không ăn khớp với tấm bản đồ này. Cuối cùng, chàng không thể phủ nhận sự thật hiển nhiên là: bản đồ đã bị định hướng sai; kinh độ, và vĩ độ của nó đều sai.
Cyprien vừa sử dụng, vào đúng giữa trưa, một chiếc thời kế thật tốt, được chỉnh theo Đài Thiên văn Paris, để xác định kinh độ của địa điểm. Thế nhưng, vì hoàn toàn chắc chắn về tính chính xác của la bàn và cây compa đo độ nghiêng của mình, chàng không hề do dự khi nhận định rằng tấm bản đồ mà chàng đã dùng để kiểm tra mọi ghi chép của mình, đã hoàn toàn sai do một lỗi nghiêm trọng trong việc xác định hướng.
Thực ra thì hướng Bắc của bản đồ này, được đánh dấu bằng một mũi tên chéo chữ X, theo cách sử dụng của người Anh, lại nằm đúng phía Bắc-Tây Bắc chuẩn, hay gần như thế. Vì thế mà mọi thông số trên bản đồ là hoàn toàn sai về tỉ lệ.
“Ta biết là vậy mà!” chàng kỹ sư trẻ đột nhiên hô to. “Đám lừa ngu ngốc dựng lên kiệt tác này đơn giản đã không tính đến độ lệch từ trường của kim chỉ nam châm! Độ lệch ở đây không nhỏ hơn hai chín độ Tây!... Kết quả là tất cả những thông số vĩ độ và kinh độ, để được chính xác, phải vẽ ra một vòng cung hai chín độ từ Tây sang Đông quanh tâm của bản đồ!... Phải tin rằng, để làm những công việc này, nước Anh đã không hề cử ra những nhà hình học giỏi nhất của mình!”
Rồi chàng cười một mình về sai lầm ngốc nghếch này!
“Được rồi! nhân vô thập toàn!” chàng nói tiếp. “Dù chính lầm lỗi ấy đã buộc tội những người đo đạc quả cảm, những người lẽ ra trong đời mình không bao giờ nhầm lẫn, dù chỉ là một lần duy nhất!”
Tuy nhiên, Cyprien không có lý do nào để che giấu việc cải chính nên làm này để định hướng những vùng đất kim cương của hạt. Vì thế, ngay trong hôm đó, khi trở về trại, chàng gặp Jacobus Vandergaart và nói cho ông biết về chuyện này.
“Thật lạ là,” chàng thêm vào, “một lỗi về đo đạc lớn như vậy làm ảnh hưởng đến tất cả các sơ đồ của hạt, lại chưa được phát hiện ra! Lỗi này là một trong những lỗi lớn nhất cần chỉnh sửa trên tất cả bản đồ vùng.”
Người thợ ngọc già nhìn Cyprien với một ánh mắt kỳ lạ.
“Cậu nói thật chứ?” ông la lên.
“Chắc chắn mà!”
“Và cậu sẵn sàng chứng nhận việc này trước tòa án chứ?”
“Dù có phải làm chứng trước mười tòa án cũng được!”
“Và sẽ không thể tranh cãi về luận cứ của anh chứ?”
“Chắc chắn không, bởi vì tôi chỉ cần trình bày nguyên nhân gây lỗi. Tất nhiên là nó khá rõ ràng! Đó là việc bỏ qua độ lệch từ trường trong quá trình tính toán xác định vị trí!”
Jacobus Vandergaart bỏ đi mà không nói lời nào, và Cyprien đã sớm quên sự quan tâm đặc biệt mà ông dành cho việc lỗi đo đạc đã làm sai lệch tất cả bản đồ của hạt.
Nhưng hai hay ba ngày sau đó, khi Cyprien đến thăm người thợ ngọc già, thì chàng thấy cánh cửa đóng kín.
Trên phiến đá đen treo nơi then cài cửa có dòng chữ, vừa được viết bằng phấn: “Đi công tác xa.”