Nguyên tác: Lost Victory
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Chương 2: Đồng Bằng Cửu Long Và Huế: Yên Bình Ở Nông Thôn
T
rong những năm 1970 và 1971, cùng với những tiến bộ của Việt Nam hoá, chương trình bình định đã có những điều chỉnh. Chúng tôi giữ để bình định luôn luôn được Việt Nam hoá, bởi chính người Việt Nam là những người nắm giữ vai trò chỉ huy và tiến hành công việc, nhưng chúng tôi vẫn nắm giữ được một mạng lưới cố vấn, là những người đóng vai trò chủ yếu trong việc đưa ra những gợi ý và kiểm tra chương trình ở các cấp, từ Hội đồng trung ương xuống đến các làng hẻo lánh xa xôi. Chúng tôi bắt đầu rút các tổ cố vấn ở những quận huyện yên tĩnh nhất, nơi an ninh đã được bảo đảm, ngay cả khi ở đây kẻ địch vẫn chưa được loại bỏ hoàn toàn.
Chúng tôi cũng chuyển giao các hệ thống báo cáo. Ở Hội đồng trung ương, dưới quyền của tướng Cao Hảo Hớn, một con người trầm tĩnh và làm việc có hiệu quả, các viên chức ở đấy nắm toàn bộ tiến trình xây dựng kế hoạch và kiểm tra. Nhân danh tổng thống và thủ tướng, họ trực tiếp có ý kiến với các bộ trưởng có liên quan về những việc các bộ phải hoàn thành và phê bình những khuyết điểm phạm phải. Người ta có thể cảm thấy trách nhiệm và quyền chủ động trong việc thực hiện chương trình đang chuyển dần từ tay người Mỹ sang tay người Việt.
Nhưng đó là một chương trình mà thước đo thực sự của nó nằm ở vô vàn các xã nằm trên khắp Nam Việt Nam, chứ không phải ở trên Hội đồng trung ương hay các bộ. Một cái nhìn thoáng qua vùng đồng bằng Cửu Long, một vùng đông người nhiều của và trước đây nguy hiểm nằm trải rộng ở phía Tây Nam Sài Gòn, có thể minh chứng cho người ta những tiến bộ mà chương trình đã mang lại cho nông thôn ở đó.
Tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm đồng bằng. Năm 1959, tôi đã có dịp dừng xe ở đó nhân một chuyến đi xuống phía Nam. Cũng trong năm ấy, tôi lại nhiều lần trở lại Vĩnh Long để thăm một trong những khu trù mật của Diệm, rồi sau đó để quan sát những gì còn lại ở đó sau thời gian bị cộng sản kiểm soát. Một lần khác là dịp tôi đến thăm trường do Ngô Đình Nhu mở để huấn luyện cho các viên chức “chủ nghĩa dân vị” của ông ta.
Sau đó, khi Nhu hướng sự quan tâm của mình sang chương trình “ấp chiến lược” thì vợ ông ta đã biến trường thành một trung tâm phục hồi nhân phẩm cho các phụ nữ phải làm điếm ở Sài Gòn.
Vĩnh Long cũng là tỉnh mà người Mỹ tiến hành một trong những cuộc khảo sát quan trọng về nông thôn Việt Nam. Nhưng giữa những năm 60, Vĩnh Long đã thực sự nằm dưới quyền kiểm soát của cộng sản thì Mỹ đã không còn điều kiện để tiến hành khảo sát ở đấy nữa.
Trong những năm 60, nhân một trong những chuyến đến thăm Việt Nam, khi tôi nài nỉ nghỉ đêm tại một làng gần thị xã Vĩnh Long, các nhà chức trách địa phương đã phải triển khai một lực lượng quan trọng để làm công tác bảo vệ. Năm 1968, ít lâu sau tổng tiến công Tết, chiếc trực thăng của tôi hạ cánh xuống giữa thị xã. Ngay tối ấy, tôi đã đi kiểm tra lớp rào thép gai bảo vệ xung quanh thị xã và đội vận tải của bộ đội cơ giới có bảo đảm tốt các vị trí của họ hay không. Chúng tôi không thể tiến xa hơn nữa trong đêm tối vì nông thôn quanh vùng là do cộng sản kiểm soát. Du kích cộng sản tấn công những đồn bốt hiếm hoi còn lại, do các lực lượng địa phương được trang bị một cách tồi tệ của chính phủ bảo vệ, cài mìn trên các trục đường để phong toả giao thông. Các ấp chiến lược bị phá trụi và nắm quyền ở đó là các cán bộ Việt cộng, họ thu thuế, tuyên truyền, kích động, khống chế dân chúng và trị tội bất cứ ai có vẻ dính dáng tới chính phủ.
Hồi đầu chương trình bình định, năm 1969, trên đường đã có đông người bắt đầu đi trở lại: những chiếc xe đò sơn sặc sỡ chạy lúc lắc đu đưa, những chiếc xe lam nổ máy ầm ĩ dọc đường trên chồng chất những người dân Sài Gòn hối hả chạy về, để chở rau thịt, hoa quả về bán lại ở các chợ thành phố. Năm 1970, đường 4, trục đường chính nối Sài Gòn với đồng bằng, đã được mở cho xe chạy về để giảm bớt mật độ giao thông. Ngôi làng năm xưa tôi nghỉ lại giờ đã nằm trong vết dầu loang tạo thành vành đai an toàn bảo vệ quanh thị xã, và phần phía Tây của tỉnh đã không còn bị uy hiếp nữa, ngoại trừ vài cuộc tập kích của địch đến từ Đồng Tháp Mười hay từ vùng biên giới Campuchia. Ngược lại phần phía Đông thì còn cận kề với một vùng rất nguy hiểm với sự có mặt của một lực lượng mạnh cộng sản. Vết dầu loang đã không lan được tới đó.
Cuối năm 1970, chúng tôi đã gần như thắng ở đồng bằng. An ninh đã đạt tới mức hầu như Việt cộng chỉ còn những hoạt động lẻ tẻ mà thỉnh thoảng tôi còn nhận ra khi nghe thấy vang lên tiếng nổ chát chúa của một hàng AK-47 bắn lên từ một khu rừng được chạy dài theo ven biển của một tỉnh xa nằm ở phía Nam khi chiếc trực thăng của chúng tôi bay qua. Tôi đã trao đổi nhận xét này với anh bạn phóng viên đi cùng tôi, nói rằng dăm ba những hoạt động kiểu này của cộng sản chắc sẽ còn tồn tại trong một thời gian nào đấy, nhưng nó sẽ không thể đe doạ được sự an toàn của chính phủ cũng như làm ngừng trệ được chương trình bình định một cách đáng nể. Long An, một trong những tỉnh nằm ở phía Nam Sài Gòn, những năm 60 đã từng là nơi diễn ra nhiều trận đánh của cộng sản nhằm chống phá bình định, nhưng không mấy kết quả. Cuối năm 1970, không cần có người hộ tống, tôi vẫn có thể đi lại bằng xe Zeep trên những con đường thuộc vùng sâu, vùng xa. Báo cáo của Phượng hoàng cho biết cơ quan của tỉnh ủy cộng sản giờ đã bị đánh bạt sang ẩn náu ở bên kia biên giới Campuchia, hoàn toàn mất liên lạc với dân chúng.
Bằng chứng có ý nghĩa nhất của sự thay đổi ấy là một em bé gái mười hai tuổi đã tâm sự với tôi, em sung sướng biết bao khi sau năm năm trời đằng đẵng, nay em lại được cắp sách tới trường.
John Vann và tôi, cả hai đều chung hưởng niềm vui khi thấy an ninh giờ đây đã trở lại với đồng bằng Cửu Long. Chúng tôi tổ chức một ngày đi dọc kênh Mang Thít, con kênh nối liền hai nhánh chính của đồng bằng Cửu Long và chạy ngang qua miền đông của tỉnh Vĩnh Long trước đây là một vùng vô cùng nguy hiểm. Chúng tôi chẳng thấy có gì đặc biệt, ngoài những cánh đồng tốt tươi và những chiếc sà lan nặng nhọc chạy trên kênh, chở đầy hàng hoá của các thương lái người Hoa. Một lần khác, chúng tôi đến một trong những tỉnh cực nam, nằm tít ở một vùng sình lầy và nghỉ đêm tại một làng hẻo lánh, dân chúng là những người di cư. Khi hoàng hôn xuống, chúng tôi thấy trên bờ kênh cách xóm vài trăm mét có một số người không rõ là ai mang súng. Chúng tôi tiến lại gần, không phải không có ít nhiều nghi ngại, và những người ấy đã tươi cười vẫy tay với chúng tôi, Anh phóng viên tờ Newsweek cùng đi đã bị ấn tượng đến nỗi sau này trong một bài viết về Việt Nam hoá, anh đã nói đó là một “thành công kỳ lạ” của chương trình bình định - nhớ rằng vào thời kỳ đó, những lời khen như thế là vô cùng hiếm.
Thì chính vào lúc đó John Vann đã nói một cách chính đáng anh đã hoàn thành nhiệm vụ mà chúng tôi giao cho anh ba năm trước đây. Và anh đề nghị tôi cho anh được chuyển lên vùng phía Bắc đối diện với Bắc Việt. Ở đấy, cuộc chiến đang tiếp diễn, điều mà tự tôi đã nhận thấy trong một lần khi tôi lái chiếc xe chạy trên con đường trống vắng dọc theo ven biển tráng lệ thỉnh thoảng nghe vẳng lại bên tai tiếng những tràng súng máy bắn từ đâu đó ở những dãy đồi xa xa. Trong một vùng đang diễn ra chiến sự, sự im lìm bất động lại là dấu hiệu của một nguy hiểm đang rình rập, bởi những tiếng động bình thường của nơi thôn dã đã bị tan biến đi trước sự có mặt của những người lạ đang nhắm súng vào mục tiêu.
Chuyến đi hoàn toàn vắng lặng đó của tôi thực sự là đầy những đe doạ. Ở đồng bằng Cửu Long, chúng tôi đã ưu tiên một cách có cân nhắc, cho nó nhiều thứ như về bình định, về tăng cường lực lượng địa phương, về huấn luyện cho các trưởng thôn trưởng xã ở trung tâm huấn luyện quốc gia, thực hiện chương trình cải cách điền địa…, vì vậy, những tiến bộ nhanh chóng đạt được ở đấy quả không có gì đáng ngạc nhiên. Trong khi đó thì trên vùng phía Bắc, các tỉnh phần lớn đều nằm giáp với Lào và Campuchia cho nên bộ đội chính quy Bắc Việt thường dễ vượt biên sang tấn công. Thế mà công tác bình định, như chúng tôi vẫn nói, là nhằm để chống và thậm chí lôi kéo các phần tử của chiến tranh du kích của địch, chứ không có tham vọng là tiêu diệt hàng tiểu đoàn chính quy của địch.
John có một nguyện vọng, một ham muốn riêng. Anh muốn trở thành một quan chức cao cấp Mỹ ở trong vùng, có nghĩa là có quyền chỉ huy các đơn vị Mỹ hiện còn lại ở đó cũng như các êkíp cố vấn Mỹ. Đó là một yêu cầu đầy tham vọng đối với một cựu trung tá trước đây đã từ chức để chống lại những hành động của quân đội Mỹ hồi đầu những năm 60, và từ đó vẫn luôn luôn phê phán giới quân sự Mỹ trước thông tin báo chí. Thế nhưng khi tôi công nhận John đã tu tỉnh và có nhiều tiến bộ thì tướng Abrams đã đồng ý. Ông quyết định đồng ý có lẽ là do ông thấy phần lớn quân đội Mỹ sẽ sớm rút khỏi miền núi và miền biển thuộc về vùng ấy, và John chắc sẽ không xin chuyển ra vùng mấy tỉnh cực Bắc, vì ở đấy chiến sự vẫn đang diễn ra ác liệt và Mỹ hãy còn hàng sư đoàn đang có mặt để tác chiến.
Về phần tôi, tôi lại hy vọng John sẽ nhận vùng đó, nơi đặc biệt khó khăn để áp dụng những nguyên tắc của chiến lược bình định. Ở đấy rừng núi chiếm phần lớn diện tích, đất đai át cả một dải đồng bằng đông dân nhỏ hẹp. Trước đây chính phủ đã cố lập ra những khu dân cư ở vùng giáp ranh nhưng nó đã bị quân Bắc Việt từ trên núi tiến xuống phá trụi. Biên giới Lào chỉ cách đó vài kilômét, tạo cho Bắc Việt một chỗ trú chân vững chắc và giúp cho họ xây dựng những căn cứ hậu cần để tích trữ súng đạn, lương thực đưa từ miền Bắc vào. Vai trò bao trùm của quân đội Mỹ cũng như Nam Việt Nam, một đòi hỏi cần thiết đối với vùng đất rất gần Bắc Việt ấy, đã không tạo thuận lợi cho công tác bình định, nếu biết rằng quyền lực và uy tín của chính quyền cũng như lòng trung thành của dân chúng chỉ có thể xây dựng được từ cơ sở làng xã, chứ không phải do quân đội áp đặt. Trong những vùng có chiến sự, người ta rất khéo khẳng định được ưu thế của nghệ thuật chính trị đối với những yêu cầu của quân sự.
Tuy nhiên chúng tôi cũng đã có một số thành công ở vùng bắc Nam Việt Nam. Công lao ấy phần lớn thuộc về một tỉnh trưởng có đầu óc thực tế và chín chắn. Trên kia tôi đã nói đến ốc đảo thanh bình mà viên đại tá xuất sắc Hoàng Đình Thọ đã tạo lập được ở một vùng giữa hai tỉnh bị tàn phá. Thì ở đây, đại tá tỉnh trưởng Thừa Thiên Lê Văn Thân cũng tỏ ra xuất sắc không kém.
Mặc dù ở Thừa Thiên, sư đoàn một Nam Việt Nam và sư đoàn 101 không vận Mỹ đang có mặt, đại tá Thân vẫn dồn sức vào tiến hành công tác bình định ở vùng đồng bằng ven biển rất đông dân, nơi mà từ đấy quân đội Mỹ và Nam Việt Nam thường xuyên tung ra các chiến dịch truy đuổi và phá hoại về hướng thung lũng A Sầu và dọc đường số 9 dẫn sang Lào. Kết quả Thân đạt được cũng ngang tầm với sự tận tuỵ của ông.
Tôi đã có dịp xác nhận điều đó trong lần cùng đại sứ Anh ra thăm Huế vào năm 1971. Đại tá Thân ngỏ ý mời chúng tôi đi dạo một vòng quanh nông thôn. Hoàn toàn tin tưởng vào ông, tôi đã nhận lời không do dự. Chúng tôi đi hai chiếc xe Zeep. Đại sứ Anh và tôi ngồi trên chiếc do đại tá Thân lái, còn chiếc kia có cố vấn cao cấp Mỹ và hai sĩ quan tuỳ tùng. Thành phố Huế khuất sau lưng và chúng tôi đi vào một con đường uốn lượn quanh co đi sâu vào nông thôn. Chợt đèn xe chúng tôi dõi rõ một toán người mặc thường phục mang súng. Đại tá Thân thản nhiên tiến về phía họ. Thú thực lúc ấy tim tôi đã thót lên một nỗi sợ hãi, tự hỏi liệu tôi có đưa ông đại sứ của Nữ hoàng Anh vào một tình thế nguy hiểm không. Nhưng té ra những người mang súng ấy chỉ là một toán dân vệ đi tuần tra. Ông đại sứ thì yên tâm về việc tôi tin tưởng vào đại tá Thân song ông có biết đâu điều mà chỉ đại tá Thân và tôi biết là gần ba năm trước đây, nơi chúng tôi đang đi đã từng là chiến trường của nhiều trận giao tranh đẫm máu giữa quân Mỹ và quân Bắc Việt. Sự kiện này đã thuyết phục chúng tôi về những cải thiện rõ ràng về tình hình của vùng Huế, cho dù các báo cáo thống kê có nói kết quả ra sao.