Having your book turned into a movie is like seeing your oxen turned into bouillon cubes.

John LeCarre

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: diep ho
Upload bìa: diep ho
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21: Lâu Đài Bay Đáp Xuống Mặt Đất
HƯƠNG 21
Lâu đài bay đáp xuống mặt đất
Abdullah không cần suy nghĩ nhiều về câu hỏi của Hasruel. “Ngài phải lưu đày em trai ngài tới nơi mà hắn sẽ không trở về được, thưa ma thần hùng mạnh,” anh nói.
Dalzel lập tức òa khóc và giọt nước mắt xanh lam lăn dài xuống. “Không công bằng!” hắn sụt sịt và giậm chân trên cái ngai. “Ai cũng chống lại ta! Anh không yêu thương em, Hasruel! Anh lừa em! Anh còn chẳng buồn cố gắng thoát khỏi ba kẻ bám vào anh!”
Abdullah chắc chắn Dalzel nói đúng về điều đó. Vì biết một ma thần có quyền năng như thế nào, anh chắc chắn Hasruel có thể quăng người lính, chưa kể anh và Hoa Đêm, tới tận cùng thế gian nếu hắn muốn.
“Đâu phải ta gây tổn hại gì chứ!” Dalzel hét. “Ta có quyền được kết hôn, đúng chứ?”
Trong lúc hắn vừa la hét vừa giậm chân, Hasruel thì thầm với Abdullah, “Có một hòn đảo trôi nổi ở đại dương phía Nam, cứ một trăm năm người ta mới có thể phát hiện nó một lần. Ở đó có một tòa lâu đài và rất nhiều cây ăn quả. Ta sẽ đưa em trai ta tới đó nhé?”
“Và giờ anh còn định tống em đi!” Dalzel hét. “Chẳng ai trong các người quan tâm ta sẽ cô đơn như thế nào!”
“Nhân tiện,” Hasruel thì thầm với Abdullah, “họ hàng bà vợ đầu của cha ngươi giao kèo với bọn lính đánh thuê để chúng được chạy khỏi Zanzib mà trốn cơn thịnh nộ của nhà vua, nhưng chúng bỏ hai cô cháu gái lại. Nhà vua đã bắt giam hai cô gái xui xẻo đó bởi họ là những người họ hàng gần nhất của cậu mà lão tìm được.”
“Thật đáng kinh ngạc,” Abdullah nói. Anh thấy điều mà Hasruel đang ám chỉ. “Có lẽ, thưa ma thần hùng mạnh, ngài sẽ ăn mừng việc trở về đường thiện bằng cách đem hai quý cô đó tới đây chăng?”
Gương mặt gớm ghiếc của Hasruel sáng bừng. Gã giơ bàn tay lớn có móng vuốt lên. Một tiếng sấm nổ ra, theo sau là vài tiếng con gái kêu the thé, và hai cô cháu gái béo lú đã đứng trước chiếc ngai. Chỉ đơn giản như vậy. Abdullah nhận thấy Hasruel thực sự đã kiềm chế sức mạnh của mình lại trước đó. Nhìn vào đôi mắt xếch to lớn của ma thần - khóe mắt vẫn còn nhòe lệ sau khi bị con chó tấn công - anh thấy Hasruel biết rằng anh đã nhận ra.
“Đừng thêm công chúa nữa chứ!” công chúa Beatrice thốt lên. Nàng đang quỳ bên cạnh Valeria, trông khá khó chịu.
“Không phải như thế đâu, tôi đảm bảo đấy,” Abdullah nói.
Hai cô cháu gái trông chẳng có nét nào giống công chúa. Họ mặc những bộ quần áo cũ nhất của mình, màu hồng thiết thực và màu vàng tầm thường, rách rưới cáu bẩn sau những gì họ đã trải qua, và tóc của cả hai đã không còn quăn nữa. Họ nhìn Dalzel đang giậm chân khóc lóc trên cái ngai phía trước họ, nhìn thân hình to lớn của Hasruel, rồi lại nhìn Abdullah chẳng mặc gì ngoài cái khố, và họ hét lên. Sau đó người này cố giấu mặt vào bờ vai mập mạp của người kia.
“Các cô gái tội nghiệp,” công chúa xứ High Norland nhận xét. “Đây khó mà coi là hành vi của hoàng tộc.”
“Dalzel!” Abdullah hét lên với gã ma thần đang sụt sùi. “Hỡi Dalzel điển trai, hỡi kẻ bắt cóc các công chúa, hãy yên lặng một lúc và xem món quà tôi trao để ngài mang theo khi đi lưu đày.”
Dalzel ngừng khóc. “Quà à?”
Abdullah chỉ tay. “Hãy nhìn hai cô dâu này, họ trẻ trung, mỡ màng và chẳng cần gì ngoài chú rể.”
Dalzel lau những giọt nước mắt phát sáng trên má và quan sát hai cô cháu gái kia với ánh mắt hệt như những khách hàng lọc lõi của Abdullah xem xét thảm anh bán. “Một cặp giống nhau!” hắn nói. “Và béo tuyệt vời! Cái giá là gì? Và có lẽ họ không phải của ngươi để ngươi có thể trao đi phải không?”
“Không hề có cái giá nào, thưa ma thần lỗi lạc,” Abdullah nói. Theo anh thấy, giờ những họ hàng khác của hai cô gái đã bỏ rơi họ, nên chắc chắn anh có thể gả họ đi. Nhưng để an toàn, anh vẫn bổ sung. “Ngài cứ bắt họ đi tùy ý, thưa Dalzel hùng mạnh.” Anh đi tới chỗ hai cô cháu gái và vỗ lên cánh tay mập mạp của mỗi người. “Các quý cô,” anh nói, “thưa những mặt trăng tròn nhất của thành Zanzib, xin hãy tha lỗi cho tôi về lời thề đáng tiếc đã vĩnh viễn ngăn cản tôi tận hưởng vẻ tròn đầy của các cô. Thay vì thế hãy ngước lên và ngắm người chồng mà tôi đã tìm cho các cô.”
Cả hai cô cháu gái đều ngẩng đầu lên ngay khi nghe thấy từ chồng. Họ nhìn Dalzel. “Anh ta đẹp trai quá trời,” cô mặc đồ hồng nói.
“Chị thích người có cánh,” cô mặc đồ vàng nói. “Trông rất khác biệt.”
“Răng nanh khá quyến rũ đấy,” cô mặc đồ hồng nhận xét. “Móng vuốt cũng vậy, miễn là anh ta cẩn thận với chúng trên thảm.”
Mỗi lời nhận xét càng làm nụ cười của Dalzel sáng rỡ hơn. “Ta sẽ bắt những cô gái này đi ngay lập tức,” hắn nói. “Ta thích họ hơn các công chúa. Tại sao em lại không thu thập các quý cô béo thay vì các công chúa nhỉ, Hasruel?”
Hasruel nở nụ cười trìu mến, để lộ đám răng nanh. “Đó là quyết định của em, em trai ạ.” Nụ cười của gã nhạt dần. “Nếu em đã sẵn sàng, giờ thì nghĩa vụ của ta là phải lưu đày em.”
“Giờ em không phiền điều đó lắm,” Dalzel nói, mắt vẫn dán vào hai cô cháu gái kia.
Hasruel lại vươn ra một bàn tay, chầm chậm, tiếc nuối, rồi lại chầm chậm, và trong ba tiếng sấm dài, Dalzel cùng hai cô gái biến mắt khỏi tầm nhìn. Có mùi biển thoang thoảng và tiếng mòng biển vẳng lại. Cả Morgan và Valeria lại bắt đầu khóc. Tất cả những người khác thở dài, Hasruel thở dài nhất. Abdullah hơi ngạc nhiên nhận ra rằng Hasruel thật sự yêu thương em trai mình. Mặc dù không dễ gì hiểu ra sao lại có ai yêu thương nổi Dalzel, Abdullah cũng khó mà oán trách hắn được. Mình là ai mà chỉ trích chứ? anh nghĩ, trong khi Hoa Đêm tiến đến và khoác tay anh.
Hasruel thở hắt ra nặng nề hơn và ngồi xuống cái ngai - nó phù hợp với vóc người gã hơn Dalzel nhiều - với đôi cánh lớn buồn bã rủ xuống hai bên. “Còn có những chuyện khác,” gã nói, cẩn thận chạm lên mũi. Nó dường như đã lành rồi.
“Phải, chắc chắn là có!” Sophie nói. Cô đã đợi ở những bậc thang dẫn lên ngai chờ cơ hội lên tiếng. “Khi ngài trộm lâu đài bay của chúng tôi, ngài làm Howl chồng tôi biến mất. Anh ấy ở đâu? Tôi muốn anh ấy quay lại.”
Hasruel ủ dột ngẩng đầu lên, nhưng gã chưa kịp trả lời, những tiếng động đáng ngại đã phát ra từ chỗ các công chúa. Tất cả những ai đang đứng ở các bậc thang cuối cùng lùi lại khỏi cái váy lót dài của vị công chúa hoàn mỹ. Nó trương lên và phập phồng ở chỗ khung váy giống như một cái đàn xếp. “Giúp ta!” linh thần bên trong kêu lên. “Cho ta ra! Các ngươi đã hứa rồi mà!”
Hoa Đêm vụt đưa tay lên che miệng. “Ôi! Em hoàn toàn quên mất!” nàng nói và tách khỏi Abdullah rồi chạy xuống những bậc thang. Nàng hất cái váy lót đang cuộn trong đám khói xanh tím ra. “Tôi ước,” nàng kêu lên, “rằng ngài sẽ được thoát khỏi cái chai, thưa linh thần, và mãi mãi tự do!”
Như thường lệ, linh thần không lãng phí thời gian cho những lời cảm ơn. Cái chai nổ tung với một tiếng CHÁT vang dội. Giữa những cuộn khói, một thân hình rõ ràng cứng cáp hơn đứng lên.
Sophie hét lên khi nhìn cảnh đó. “Ôi cầu phước cho cô gái! Cảm ơn, cảm ơn nhé!” Cô lao đến chỗ luồng khói đang dần biến mất nhanh đến nỗi suýt thì đâm sầm vào người đàn ông đang đứng ở đó. Anh ta có vẻ không để tâm. Anh ta ôm Sophie lên và quay tròn cô. “Ôi tại sao em lại không biết chứ? Tại sao em lại không nhận ra chứ?” Sophie thở dốc, loạng choạng trên chỗ thủy tinh vỡ.
“Bởi vì bùa phép này là như thế,” Hasruel ủ rũ nói. “Nếu người ta biết hắn là pháp sư Howl, ai đó sẽ thả hắn ra. Ngươi không thể biết hắn là ai, hắn cũng không thể nói cho bất cứ ai biết.”
Pháp sư hoàng gia Howl trẻ tuổi hơn pháp sư Suliman và tao nhã hơn nhiều. Anh ta ăn vận xa xỉ trong bộ đồ xa tanh màu hoa cà, đối lập với màu tóc vàng thoát tục. Abdullah nhìn vào đôi mắt sáng màu trên gương mặt xương xẩu của vị pháp sư. Anh từng thấy rõ đôi mắt này vào một buổi sáng sớm. Anh cảm thấy mình lẽ ra nên đoán được. Anh cảm thấy mình đang ở trong một vị thế khá khó xử. Anh đã lợi dụng linh thần. Anh cảm thấy mình biết linh thần rất rõ. Điều đó có nghĩa anh cũng biết rõ vị pháp sư à? Hay là không?
Vì lý do này, Abdullah không tham gia cùng khi mọi người, trong đó có cả người lính, xúm quanh pháp sư Howl, tung hô chúc mừng anh ta. Anh thấy nàng công chúa nhỏ nhắn xứ Tsapfan khẽ khàng bước tới giữa đám đông đang cười nói và nghiêm trang đặt Morgan vào vòng tay Howl. “Xin cảm ơn,” Howl nói. “Anh nghĩ tốt nhất anh nên mang con theo tới nơi anh có thể trông chừng nó,” anh ta giải thích với Sophie. “Xin lỗi nếu làm em sợ nhé.” Howl có vẻ quen với việc ôm trẻ nhỏ hơn Sophie. Anh ta đung đưa Morgan nhẹ nhàng và nhìn bé. Morgan cũng nhìn lại, vẻ thù ghét. “Trời đất, nó xấu quá!” Howl nói. “Giống y hệt mẹ nó.”
“Howl!” Sophie phản đối. Nhưng giọng cô nghe không có vẻ tức giận.
“Đợi một chút,” Howl nói. Anh ta tiến đến những bậc thang dẫn tới cái ngai và nhìn lên Hasruel. “Nhìn đây, ma thần,” anh ta nói, “tôi có chuyện phải giải quyết với ông. Việc ăn trộm lâu đài của tôi và nhốt tôi vào một cái chai là sao hả?”
Đôi mắt Hasruel sáng lên thành màu cam giận dữ. “Pháp sư, ngươi tưởng quyền năng của ngươi bằng được ta sao?”
“Không,” Howl nói. “Tôi chỉ muốn ông giải thích.” Abdullah thấy ngưỡng mộ người đàn ông này. Vì đã biết linh thần nhát gan như thế nào, anh không nghi ngờ gì Howl đang rất kinh hoảng trong lòng. Nhưng anh ta không để lộ điều đó ra tí nào. Anh ta nhấc bổng Morgan lên bờ vai màu xanh hoa cà và trừng mắt nhìn Hasruel.
“Được rồi,” Hasruel nói. “Em trai ta ra lệnh cho ta ăn trộm lâu đài. Về chuyện này ta không có lựa chọn nào khác. Nhưng Dalzel không đưa ra mệnh lệnh nào liên quan tới ngươi, trừ việc ta phải đảm bảo ngươi không trộm lại lâu đài. Nếu ngươi là một người vô tội, ta sẽ chỉ đơn giản chuyển ngươi tới hòn đảo giờ em ta đang ở. Nhưng ta biết ngươi đã dùng phép thuật để xâm lược một quốc gia láng giềng...”
“Như thế không công bằng!” Howl nói. “Đức vua ra lệnh cho tôi!” Trong một thoáng, anh ta nói nghe giống hệt Dalzel, và hẳn anh ta đã nhận ra như vậy. Anh ta ngừng lời. Anh ta suy nghĩ. Và rồi anh ta rầu rĩ nói, “Tôi dám nói đáng lẽ tôi đã có thể lái suy nghĩ của đức vua theo hướng khác nếu tôi nghĩ tới chuyện đó. Ông nói đúng. Nhưng đừng bao giờ để tôi bắt được ông trong tình huống mà tôi có thể nhét ông vào trong chai, thế thôi.”
“Có thể ta đáng bị như thế,” Hasruel đồng tình. “Và ta càng đáng bị như thế vì ta đã bỏ công khiến tất cả những người liên quan gặp số phận phù hợp nhất ta có thể nghĩ ra.” Gã nheo mắt về hướng Abdullah. “Đúng thế chứ?”
“Đúng đến khó chịu, thưa ma thần vĩ đại,” Abdullah đồng tình. “TẤT CẢ các giấc mộng của tôi đều thành hiện thực chứ không chỉ những giấc mộng đẹp.”
Hasruel gật đầu. “Và giờ,” gã nói, “ta phải đi sau khi xong một việc nhỏ cần thiết.” Đôi cánh của gã vươn lên và tay gã lại phác một cử chỉ. Lập tức gã được bao quanh bởi những hình thù kỳ lạ có cánh. Chúng lơ lửng quanh đầu gã và cái ngai như những con hải mã trong suốt, hoàn toàn không gây ra tiếng động nào, những đôi cánh phập phồng chỉ xào xạc khe khẽ.
“Đấy là các thiên thần của hắn,” công chúa Beatrice giải thích cho công chúa Valeria.
Hasruel thì thầm với những hình thù có cánh và chúng rời khỏi gã, cũng đột ngột như khi xuất hiện, tới xào xạc quanh đầu Jamal. Jamal hoảng sợ lui khỏi chúng nhưng chẳng ích gì. Đàn thiên thần bay theo anh ta. Từng hình thù có cánh nối tiếp nhau đậu lên những chỗ khác nhau trên mình con chó của Jamal. Mỗi một hình thù đáp xuống lại thu nhỏ và biến mất giữa đám lông của con chó, cho tới khi chỉ còn hai hình thù.
Abdullah đột nhiên phát hiện hai hình thù này lơ lửng ngay trước mắt anh. Anh cúi người tránh, nhưng chúng theo sau. Hai giọng nói lạnh lùng cất lên, dường như chỉ anh có thể nghe được. “Sau khi suy nghĩ rất lâu,” chúng nói, “chúng ta thấy chúng ta thích hình thù này hơn lốt cóc. Chúng ta suy nghĩ dưới ánh sáng của vĩnh hằng, và do vậy chúng ta cảm ơn ngươi.” Nói xong hai hình thù này lao đi để đậu lên mình con chó của Jamal, đoạn thu nhỏ và biến mất vào chỗ da tai nhăn nheo của nó.
Jamal nhìn con chó mình ôm trong tay. “Tại sao tôi lại ôm một con chó đầy ắp thiên thần?” anh ta hỏi Hasruel.
“Họ sẽ không làm hại ngươi hay con vật của ngươi,” Hasruel nói. “Họ chỉ đợi tới khi cái khuyên xuất hiện trở lại. Ngày mai, ngươi nói thế phải không? Ngươi phải thấy là hiển nhiên ta lo lắng theo sát sinh mệnh của mình. Khi các thiên thần của ta tìm thấy nó, họ sẽ đem nó về cho ta dù ta đang ở bất cứ đâu.” Gã thở dài, đủ dài để làm lay động tóc tất cả mọi người. “Và ta không biết ta sẽ ở đâu,” gã nói. “Ta phải tìm một nơi lưu đày ở chốn nào xa xôi. Ta đã cư xử ác độc. Ta không thể lại gia nhập hàng ngũ các Ma Thần Thiện.”
“Ôi thôi nào, thưa ma thần vĩ đại!” Hoa Đêm nói. “Tôi được dạy cái tốt chính là sự tha thứ. Chắc các Ma Thần Thiện sẽ chào đón ngài quay trở lại chứ?”
Hasruel lắc cái đầu lớn của gã. “Công chúa thông minh, ngươi không hiểu đâu.”
Abdullah thấy mình hiểu Hasruel khá rõ. Có lẽ sự thấu hiểu của anh có liên quan gì đó tới cung cách chẳng mấy lịch sự với họ hàng bà vợ đầu của cha anh. “Yên nào, tình yêu,” anh nói. “Ý Hasruel là ông ta thích sự ác độc của mình và không hối tiếc vì chuyện đó.”
“Đúng thế,” Hasruel nói. “Trong những tháng qua, ta đã vui vẻ hơn nhiều so với hàng trăm năm trước đó. Dalzel đã giúp ta nhận ra điều này. Giờ ta phải đi xa để phòng ngừa mình sẽ lặp lại trò vui đó giữa những Ma Thần Thiện. Giá mà ta biết phải đi đâu.”
Howl dường như nảy ra một ý tưởng. Anh ta hắng giọng. “Sao không đi tới một thế giới khác?” anh ta đề nghị. “Có hàng trăm thế giới khác, ngài biết đấy.”
Đôi cánh Hasruel dang rộng và đập đập phấn khích, làm váy áo tóc tai của tất cả các công chúa trong sảnh đường bay phấp phới. “Có à? Ở đâu? Chỉ cho ta cách tới thế giới khác đi.”
Howl đặt Morgan vào vòng tay gượng gạo của Sophie và nhảy lên những bậc thang dẫn tới cái ngai. Anh ta phác vài cử chỉ lạ lùng trước Hasruel và gật đầu một cái. Hasruel có vẻ hiểu hết. Gã gật đầu đáp lại. Rồi gã đứng dậy khỏi ngai và cứ thế bước đi, không nói thêm lời nào, băng qua sảnh và xuyên qua tường như thể nó chỉ là sương mù. Sảnh đường rộng lớn đột nhiên có vẻ trống trải.
“Rảnh nợ!” Howl nói.
“Anh đưa hắn tới thế giới của anh à?” Sophie hỏi.
“Không đời nào!” Howl nói. “Ở đó họ đã có đủ thứ phải lo lắng rồi. Anh đưa hắn đi chiều ngược lại. Anh đánh bạo cho rằng lâu đài sẽ không cứ thế biến mất.” Anh ta quay lại chầm chậm và nhìn vào những góc nhà bằng mây trong sảnh. “Tất cả vẫn ở đây,” anh ta nói. “Điều đó có nghĩa Calcifer vẫn ở chỗ nào đó trong này. Lão là người giữ cho mọi thứ hoạt động.” Anh gọi to. “Calcifer! Lão ở đâu?”
Cái váy lót của vị công chúa hoàn mỹ dường như tự sống dậy một lần nữa. Lần này nó lăn sang bên trên khung váy để tấm thảm mầu nhiệm thoát ra. Tấm thảm lắc mình gần giống như con chó của Jamal giờ đang làm. Rồi mọi người ngạc nhiên thấy nó rơi xuống sàn và bắt đầu bung ra. Abdullah suýt thì kêu lên trước sự lãng phí này. Sợi len dài sổ tung có màu xanh lam và sáng đến kỳ lạ, như thể tấm thảm không hề làm từ len bình thường. Nó lao tới lui trên tấm thảm, vươn lên cao hơn, cao hơn nữa trong khi dài dần ra, cho tới lúc vươn hết chiều cao giữa trần nhà mây cao vút và cái khung thảm gần như đã trống rỗng.
Cuối cùng, giật một cái đầy nôn nóng, đầu kia của sợi len tự xé tung ra khỏi khung thảm và co lên vào phần còn lại của nó, rung rinh vươn ra rồi lại thu vào, và cuối cùng hợp thành một hình dáng mới trông giống như giọt nước mắt lộn ngược, hoặc có lẽ một ngọn lửa. Hình hài mới này chủ tâm lướt thẳng xuống dưới. Khi nó tới gần, Abdullah có thể thấy một cái mặt ở trước nó, làm từ những ngọn lửa nhỏ màu tím, xanh lục hoặc da cam. Abdullah nhún vai vẻ chấp nhận. Có vẻ như anh đã bỏ ra tất cả những đồng vàng đó để mua một con quỷ lửa chứ chẳng phải tấm thảm mầu nhiệm gì cả.
Con quỷ lửa lên tiếng, với cái miệng tím rung rinh, “ơn trời!” nó nói. “Tại sao không ai gọi tên tôi lúc trước? Tôi thấy tổn thương đấy.”
“Ôi Calcifer tội nghiệp!” Sophie nói. “Tôi không biết mà!”
“Tôi không nói chuyện với cô,” ngọn lửa kỳ lạ đáp trả. “Cô đâm móng vuốt vào tôi. Và tôi cũng không,” nó vừa nói vừa bay qua Howl, “nói chuyện với anh. Anh lôi tôi vào chuyện này. Người muốn giúp quân đội của đức vua đâu phải tôi. Tôi chỉ nói với cậu ta,” nó nói, đoạn bay sang bên vai Abdullah. Anh nghe thấy tóc mình khẽ xì xèo. Ngọn lửa nóng quá. “Cậu ta là người duy nhất thử khen ngợi tôi.”
“Từ khi nào,” Howl gay gắt hỏi, “mà lão lại cần được khen?”
“Từ khi tôi phát hiện được nghe người khác bảo mình tốt đẹp thì thích đến dường nào,” Calcifer nói.
“Nhưng tôi không nghĩ lão tốt đẹp,” Howl nói. “Vậy thì cứ thế đi!” Anh ta quay lưng lại Calcifer, ống tay áo xa tanh màu xanh hoa cà phấp phới.
“Anh muốn biến thành cóc hả?” Calcifer hỏi. “Anh không phải là người duy nhất biết biến người ta thành cóc đâu, anh biết chứ!”
Howl giận dữ giậm giậm một bàn chân đi ủng màu xanh hoa cà. “Có lẽ,” anh ta nói, “anh bạn mới của lão có thể yêu cầu lão đưa lâu đài xuống nơi nó vốn ở.”
Abdullah thấy hơi buồn. Dường như Howl đang cố thể hiện rõ rằng anh ta và Abdullah không hề quen nhau. Nhưng anh làm theo lời bóng gió kia. Anh cúi đầu. “Ôi thưa viên ngọc bích giữa những sinh linh mầu nhiệm,” anh nói, “thưa ngọn lửa của niềm hân hoan và ngọn nến giữa các tấm thảm, kẻ huy hoàng gấp trăm lần trong hình dáng chân thực của ngài hơn khi còn là một tấm thảm quý giá...”
“Nói toạc ra đi!” Howl lẩm bẩm.
“... liệu ngài có tử tế mà đồng ý đưa lâu đài này xuống mặt đất không?” Abdullah nói nốt.
“Rất vui lòng,” Calcifer nói.
Tất cả họ đều cảm thấy lâu đài bay xuống. Đầu tiên nó bay xuống nhanh đến nỗi Sophie phải bám chặt lấy cánh tay Howl và một vài nàng công chúa kêu lên thất thanh. Vì giống như Valeria nhận xét rất to, bụng dạ của người ta đã bị rớt lại hết trên trời. Cũng có thể Calcifer còn chưa quen việc sau khi bị nhốt trong hình dáng khác quá lâu. Dù lý do là gì đi nữa, tốc độ hạ cánh cũng chậm lại sau một phút và trở nên nhẹ nhàng đến mức hầu như không ai cảm thấy được. Điều này cũng tốt, bởi trong khi hạ cánh, lâu đài thu nhỏ hơn đáng kể. Mọi người bị lèn sát vào nhau và phải tranh chỗ để có thể đứng vững.
Những bức tường thu lại, biến từ tràng thạch mây thành tường trát vữa trơn. Trần hạ thấp xuống và mái vòm biến thành những thanh rầm đen to lớn, và một ô cửa sổ xuất hiện đằng sau chỗ từng là chiếc ngai. Đầu tiên ngoài cửa sổ tối thui. Abdullah háo hức quay về phía nó, chờ đợi được nhìn thấy thêm một lần nữa cảnh biển mây trong suốt với những hòn đáo hoàng hôn, nhưng tới lúc nó biến xong thành ô cửa sổ vững chắc thật sự, bên ngoài chỉ có bầu trời, đổ tràn ngập căn phòng cỡ như nhà tranh với ánh bình minh vàng trong sáng. Tới lúc này, các nàng công chúa lèn cả vào nhau, Sophie bị ép vào góc, một tay nắm lấy Howl, một tay ôm Morgan, và Abdullah thấy mình bị lèn giữa Hoa Đêm và người lính.
Abdullah nhận ra người lính không nói lời nào từ lâu. Đúng ra, lão đang cư xử một cách kỳ quặc. Lão đã kéo cái mạng mình mượn được trùm qua đầu và giờ đang ngồi cúi đầu trên chiếc ghế đẩu nhỏ xuất hiện cạnh lò sưởi trong khi lâu đài thu nhỏ lại.
“Ông ổn cả chứ?” Abdullah hỏi lão.
“Tuyệt vời,” người lính trả lời. Thậm chí giọng lão nghe cũng kỳ quặc.
Công chúa Beatrice xô đẩy len ra được chỗ lão. “Ồ, ông đây rồi!” nàng nói. “Có chuyện gì với ông vậy? Sợ là ta sẽ rút lại lời hứa giờ khi chúng ta đã quay trở lại bình thường sao? Có phải vậy không?”
“Không,” người lính nói. “Mà thực ra thì đúng vậy đấy. Chuyện này sẽ làm nàng khó chịu.”
“Chuyện này hoàn toàn không làm ta khó chịu chút nào!” công chúa Beatrice gắt. “Ta đã hứa là giữ lời. Kệ xác hoàng thân Justin.”
“Nhưng tôi chính là hoàng thân Justin,” người lính nói.
“Cái gì?” công chúa Beatrice kêu lên.
Người lính chậm rãi ngượng ngùng kéo tấm mạng che xuống và ngước lên. Vẫn là gương mặt ấy, vẫn là đôi mắt xanh lam hoặc trông cực kỳ ngây ngô hoặc trông vô cùng thiếu trung thực, hoặc cả hai, nhưng gương mặt này mềm mỏng và có học thức hơn. Nó mang khí khái quân nhân theo một kiểu khác.
“Gã ma thần chết tiệt đó cũng phù phép cả tôi nữa,” anh ta nói. “Giờ tôi nhớ ra rồi. Tôi đang ở trong rừng chờ các đội tìm kiếm quay lại báo cáo.” Anh ta có vẻ khá hối lỗi. “Chúng tôi đang đi tìm công chúa Beatrice... à... là nàng đó, nàng biết đấy, mà không gặp may mắn lắm. Đột nhiên lều của tôi bay đi, và có một ma thần đứng chen chúc giữa cây cối. ‘Ta đưa công chúa đi,’ hắn nói. ‘Và bởi ngươi đã đánh bại vương quốc của nàng một cách không công bằng nhờ sử dụng phép thuật, ngươi có thể trở thành một người lính thất trận và xem ngươi có thích thế không.’ Và loáng một cái, tôi đã lang thang trên chiến trường, nghĩ mình là một người lính Strangia.”
“Và chàng có ghét như thế không?” công chúa Beatrice hỏi.
“Chà,” hoàng thân đáp, “chuyện đó khá khó khăn. Nhưng tôi quen dần với nó và nhặt nhạnh mọi thứ hữu ích có thể rồi lên vài kế hoạch. Tôi thấy mình phải làm gì đó cho tất cả những người lính bị đánh bại. Nhưng...” một nụ cười hoàn toàn thuộc về người lính già kia xuất hiện trên gương mặt hoàng thân, “... nói thật thì khi đi lang thang quanh Ingary, tôi đã khá tận hưởng cuộc sống. Tôi đã vui vẻ làm kẻ xấu. Tôi rất giống gã ma thần đó. Chính việc phải quay lại trị vì mới làm tôi buồn phiền.”
“À, ta có thể giúp chàng ở điểm đó,” công chúa Beatrice nói. “Dù sao thì ta cũng thành thạo vấn đề này.”
“Thật sao?” hoàng thân nói, và anh ta ngước lên nhìn công chúa bằng ánh mắt mà khi còn là người lính già, anh ta đã nhìn con mèo con trong mũ của mình.
Hoa Đêm hích Abdullah, khẽ khàng và vui vẻ. “Đó là hoàng thân xứ Ochinstan!” nàng thì thầm. “Không cần phải sợ anh ta nữa rồi!”
Không lâu sau, lâu đài hạ xuống mặt đất nhẹ như lông hồng. Calcifer lơ lửng gần thanh rầm thấp trên trần, thông báo rằng lão đã cho lâu đài hạ cánh xuống cánh đồng bên ngoài thành Kingsbury. “Và tôi đã gửi thông báo đến một trong những tấm gương của Suliman,” lão tự mãn nói.
Điều này có vẻ làm Howl cáu tiết. “Tôi cũng thế,” anh ta tức giận nói. “Lão phải gánh nhiều trọng trách quá phải không?”
“Thế thì anh ấy nhận được hai lời nhắn,” Sophie nói. “Thế thì sao nào?”
“Ngốc thật nhỉ!” Howl nói và bắt đầu phá lên cười. Lúc này, Calcifer cũng xèo xèo cười và có vẻ họ đã làm hòa. Nghĩ lại thì Abdullah có thể hiểu được Howl cảm thấy thế nào. Anh ta đã luôn phừng phừng tức giận khi còn là một linh thần, và giờ anh ta vẫn phừng phừng phẫn nộ, và chẳng có ai ngoài Calcifer để trút giận. Có lẽ Calcifer cũng giống vậy. Cả hai đều có phép thuật quá hùng mạnh để mạo hiểm nổi giận với người thường.
Rõ ràng cả hai thông điệp đều đã tới nơi. Ai đó đứng cạnh cửa sổ kêu lên, “Nhìn kìa!” và mọi người đổ xô tới cửa sổ để nhìn những cánh cổng thành Kingsbury mở ra cho cỗ xe ngựa của đức vua vội vàng lao ra sau một đội lính. Thực ra đó là cả một đoàn xe. Nhiều cỗ xe đại sứ nối đuôi cỗ xe của đức vua, trên xe gắn quốc huy của hầu hết những đất nước bị Hasruel bắt cóc công chúa.
Howl quay sang Abdullah. “Tôi cảm thấy tôi đã khá thân quen với anh,” anh ta nói. Họ nhìn nhau gượng gạo. “Anh cũng thế chứ?” Howl hỏi.
Abdullah cúi đầu. “Ít nhất thì thân quen như anh thấy thôi.”
“Đó là điều tôi e ngại,” Howl rầu rĩ nói. “Chậc, tôi biết tôi có thể dựa vào anh khi nào cần hoa ngôn xảo ngữ. Khi tất cả những cỗ xe đó tới đây, có lẽ tôi sẽ cần anh đấy.”
Quả đúng thế. Quãng thời gian sau đó rối tung rối mù, khiến Abdullah khàn cả giọng khi đã xong xuôi đâu đấy. Nhưng phần rối rắm nhất theo Abdullah, là mọi công chúa, chưa kể Sophie, Howl và hoàng thân Justin, đều khăng khăng nói với đức vua rằng Abdullah đã can đảm và thông minh biết bao. Abdullah cứ muốn chỉnh lại lời họ. Anh không dũng cảm - chỉ là lâng lâng trên mây vì Hoa Đêm yêu anh.
Hoàng thân Justin kéo Abdullah vào một hành lang của lâu đài. “Cứ nhận đi,” anh ta nói. “Chẳng bao giờ có ai được khen đúng lý do đâu. Cứ nhìn tôi xem. Người Strangia ở đây đều quý mến tôi vì tôi cho những người lính giải ngũ của họ tiền, và hoàng huynh của tôi thì vui sướng vì tôi ngừng phản đối việc lấy công chúa Beatrice. Ai cũng nghĩ tôi là một hoàng tử mẫu mực.”
“Anh thực sự đã phản đối việc lấy công chúa Beatrice à?” Abdullah hỏi.
“Ồ đúng thế,” hoàng thân nói. “Dĩ nhiên lúc đó tôi còn chưa gặp nàng ấy. Đức vua và tôi tranh cãi về chuyện đó, và tôi dọa sẽ ném ngài lên mái lâu đài. Khi tôi mất tích, ngài chỉ nghĩ rằng tôi đã cáu kỉnh trốn đi một khoảng thời gian. Ngài thậm chí còn chưa bắt đầu lo lắng nữa.”
Đức vua hài lòng với em trai, và với Abdullah vì đã đưa Valeria cùng pháp sư hoàng gia còn lại quay về đến nỗi ông ta ra lệnh tổ chức một đám cưới đôi hoa lệ vào ngày hôm sau. Điều này tăng phần khẩn cấp cho cuộc hỗn loạn. Howl vội vàng tạo ra một hình nhân kỳ lạ giả làm sứ giả của đức vua, tạo nên chủ yếu bởi giấy da - và dùng phép thuật gửi tới nhà vua của thành Zanzib, đề nghị đưa lão tới dự đám cưới của con gái. Hình nhân giả này quay lại nửa tiếng sau đó, trông rách nát không để đâu cho hết, với tin tức rằng nhà vua đã chuẩn bị sẵn một cái cọc mười lăm mét cho Abdullah nếu anh lộ mặt tại thành Zanzib thêm lần nữa.
Dù vậy, Sophie và Howl tới nói chuyện với đức vua. Đức vua lập nên hai chức danh gọi là Đại Sứ Lỗi Lạc Của Vương Quốc Ingary rồi trao hai vị trí đó cho Abdullah và Hoa Đêm cùng buối tối hôm đó.
Đám cưới của hoàng thân và của đại sứ đi vào lịch sử, vì công chúa Beatrice và Hoa Đêm mỗi người đều có mười bốn nàng công chúa khác làm phù dâu, và chính đức vua đã trao công chúa đi cho chú rể. Jamal là phù rể cho Abdullah. Khi đưa cho Abdullah cái nhẫn cưới, anh ta thì thầm thông báo rằng các thiên thần đã rời đi vào buổi sáng hôm đó, mang theo sinh mệnh của Hasruel.
“Và đó cũng là một điều tốt!” Jamal nói. “Giờ thì con chó tội nghiệp của tôi sẽ ngừng gãi.”
Người duy nhất đáng kể không tham dự đám cưới là pháp sư Suliman và phu nhân. Điều này chỉ gián tiếp liên quan tới cơn thịnh nộ của đức vua. Có vẻ Lettie đã nói chuyện quyết liệt với đức vua khi ngài muốn bắt giam pháp sư Suliman đến nỗi cô sinh sớm hơn dự định. Pháp sư Suliman e ngại không muốn rời khỏi cô. Nhưng vào chính ngày diễn ra đám cưới, Lettie hạ sinh một cô con gái mà chẳng gặp rắc rối gì.
“Ôi tốt quá!” Sophie nói. “Tôi biết mình sẽ hợp làm bác mà.”
Nhiệm vụ đầu tiên của hai tân đại sứ là đưa các nàng công chúa bị bắt cóc trở về nhà. Một vài người trong số họ - giống như công chúa nhỏ bé xứ Tsapfan - sống ở xa đến nỗi chưa ai nghe thấy tên vương quốc của họ bao giờ. Hai đại sứ đưa ra những hướng dẫn để lập đồng minh về thương nghiệp và cũng ghi lại tất cả những nơi kỳ lạ khác trên đường để sau này khám phá. Howl đã nói chuyện với đức vua. Giờ - vì lý do nào đó - cả Ingary đều nhắc đến việc vẽ bản đồ địa cầu. Các đội thám hiểm đang được lựa chọn và huấn luyện.
Với những chuyến du hành, việc dỗ dành các công chúa và tranh luận với các nhà vua ở đất nước khác, Abdullah luôn quá bận rộn để thổ lộ với Hoa Đêm. Lúc nào anh cũng cảm thấy dường như ngày hôm sau mới có thời điểm hứa hẹn hơn. Nhưng cuối cùng, khi họ sắp đến vương quốc Tsapfan xa xôi, anh nhận ra anh không thể trì hoãn thêm nữa.
Anh hít thật sâu. Anh cảm thấy mặt mình biến sắc. “Thực ra anh không phải hoàng tử,” anh thốt ra. Đó. Nói xong rồi.
Hoa Đêm ngước lên từ tấm bản đồ nàng đang vẽ. Ánh đèn lờ mờ trong lều khiến gương mặt nàng cơ hồ còn đẹp hơn thường lệ. “Ồ, em biết điều đó chứ,” nàng nói.
“Sao cơ?” Abdullah thì thào.
“Chà, khi ở lâu đài trên mây, em hiển nhiên có nhiều thời gian để nghĩ về anh,” nàng nói. “Và em nhanh chóng nhận ra anh đang tán tỉnh em, bởi vì điều đó rất giống giấc mộng của em, chỉ là theo cách ngược lại. Em thường mơ mộng mình chỉ là một cô gái bình thường, anh thấy đấy, và cha em là một người buôn thảm trong chợ. Em từng tưởng tượng mình bán hàng giúp cha.”
“Em thật tuyệt vời!” Abdullah nói.
“Và anh cũng thế,” nàng nói rồi quay lại vẽ bản đồ.
Họ trở lại Ingary đúng lúc, với một con ngựa nữa chở đầy những hộp kẹo các công chúa đã hứa tặng Valeria. Có sô cô la và cam ngào đường, kem dừa và hạt tẩm mật ong; nhưng tuyệt vời nhất là kẹo của nàng công chúa nhỏ nhắn - loại kẹo có từng lớp từng lớp mỏng như giấy mà nàng công chúa nhỏ nhắn gọi là Lá Mùa Hạ. Chúng được đặt trong chiếc hộp đẹp đến nỗi Valeria dùng để đựng trang sức khi cô bé lớn lên sau này. Kỳ lạ thay, cô bé gần như đã hoàn toàn thôi la hét. Đức vua không thể hiểu nổi tại sao, nhưng như Valeria đã giải thích với Sophie, khi có tới ba mươi người bảo ta phải hét, ta bỗng thấy mất hứng với chuyện đó.
Sophie và Howl lại sống trong lâu đài bay - phải thừa nhận là họ vẫn luôn cãi cọ, dù người ta bảo họ hạnh phúc nhất theo cách đó. Một phần của nó là tòa dinh thự xinh đẹp ở thung lũng Chipping. Khi Abdullah và Hoa Đêm trở về, đức vua cũng ban cho họ một mảnh đất trong thung lũng Chipping, và cho phép họ xây lâu đài ở đó. Ngôi nhà họ dựng lên khá khiêm tốn: nó thậm chí chỉ lợp mái tranh. Nhưng khu vườn của họ nhanh chóng trở thành một kỳ quan của miền đất này. Người ta bảo Abdullah nhận được sự giúp đỡ khi thiết kế khu vườn từ ít nhất một pháp sư hoàng gia - nếu không thì làm thế nào một đại sứ lại có thể có cả một rừng hoa chuông nở rộ quanh năm?
HẾT
Lâu Đài Trên Mây Lâu Đài Trên Mây - Diana Wynne Jones Lâu Đài Trên Mây