This nice and subtle happiness of reading, this joy not chilled by age, this polite and unpunished vice, this selfish, serene life-long intoxication.

Logan Pearsall Smith

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 41
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21 - Tất Cả Ma Quỷ Đều Ở Đây
goài hai lần nhắc tôi rằng chúng tôi phải lập tức trở lại Great Holling, Poirot lặng thinh trên suốt chặng đường về. Ông có vẻ mê mải nghĩ và rõ ràng là không muốn trò chuyện.
Về đến nhà trọ, chúng tôi thấy viên đội Stanley Beer đang chờ sẵn.
“Có chuyện gì vậy?” Poirot hỏi. “Anh đến đây vì tác phẩm nghệ thuật của tôi đó sao?”
“Xin lỗi, thưa ông? À, về cái huy hiệu ấy à? Nó hoàn toàn ổn, thưa ông. Thật ra thì…” Beer thọc tay vào túi, lôi ra một chiếc phong bì. “Ông sẽ tìm ra câu trả lời trong đó.”
“Cảm ơn anh. Nhưng hình như có chuyện gì đó không ổn? Anh đang lo lắng mà, non?”
“Đúng vậy, thưa ông. Ở Scotland Yard, chúng tôi nhận được lời nhắn của Ambrose Flowerday, viên bác sĩ của làng Great Holling. Ông ta đòi ông Catchpool phải đến đó ngay lập tức. Ông ta nói ông ta đang rất cần.”
Poirot nhìn tôi rồi quay sang Stanley Beer. “Chúng tôi cũng đang định đến đó ngay. Anh có biết điều gì khiến bác sĩ Flowerday đòi ông Catchpool hiện diện không?”
“E là có đấy. Một chuyện không vui, thưa ông. Một người phụ nữ tên là Margaret Ernst đã bị tấn công. Hình như bà ta đang hấp hối…”
“Ôi, không,” tôi thì thào.
“…và bà ta nói muốn gặp ông Catchpool trước khi chết. Sau khi trao đổi với bác sĩ Flowerday, tôi khuyên các ông nên đi nhanh lên, thưa ông. Có xe đợi sẵn ngoài kia để đưa các ông ra ga.”
Nghĩ về cách làm việc có phương pháp của Poirot và việc ông rất ghét sự đột xuất, tôi nói: “Chúng tôi chuẩn bị trong nửa giờ có được không?”
Beer nhìn đồng hồ. “Năm mười phút là cùng, không lâu hơn được đâu ạ, thưa ông, nếu như các ông không muốn nhỡ chuyến tàu kế tiếp.”
Tôi có đôi chút xấu hổ khi thấy Poirot đã xuống lầu với vali của ông ta trước cả tôi. “Nhanh lên, mon ami,” ông thúc giục.
Trong xe, tôi quyết định phải nói gì đó, dù Poirot không có hứng trò chuyện. “Giá như tôi không đến cái ngôi làng quỷ quái đó thì Margaret Ernst đã không bị tấn công,” tôi buồn rầu nói. “Hẳn có kẻ đã thấy tôi đến ngôi nhà tranh của bà ta và ở lại đó rất lâu.”
“Đủ lâu để bà ta kể cho anh mọi chuyện hoặc gần như thế. Bà ta đã nói hết những gì mình biết cho cảnh sát, tìm cách giết bà ta để làm gì nhỉ?”
“Để trả thù. Để trừng phạt. Dù nói trắng ra là chẳng đạt được gì. Nếu như Nancy Ducane vô tội, còn Jennie Hobbs và Samuel Kidd thì đứng sau mọi chuyện – ý tôi, họ là những người còn sống đứng sau tất cả mọi chuyện - vậy cớ sao Jennie và Kidd lại muốn giết Margaret Ernst? Bà ta không nói bất cứ điều gì nhằm kết tội họ, và bà ta cũng chưa bao giờ muốn hại Patrick và Frances Ive.”
“Tôi đồng ý. Tôi thấy Jennie Hobbs và Samuel Kidd không muốn giết Margaret Ernst đâu.”
Mưa đập vào cửa sổ xe khiến chúng tôi khó nghe nhau và cũng khó tập trung. “Vậy ai làm?” Tôi hỏi. “Tưởng đã có mọi câu trả lời rồi kia mà…”
“Anh không ngờ sự thể đến nỗi này sao, Catchpool?”
“Phải. Chắc ông sắp nói là tôi sai, nhưng mọi thứ đang có vẻ phức tạp hơn, đúng vậy không nhỉ? Mọi chuyện đang trơn tru thì lại nghe tin Margaret Ernst bị tấn công.”
“Anh ta bảo là trơn tru cơ đấy!” Poirot nhìn cửa sổ xe lất phất mưa, mỉa mai cười.
“Thì tôi thấy có vẻ đơn giản. Tất cả các hung thủ đều đã chết. Ida giết Harriet với sự ưng thuận của Harriet, sau đó cô ta bị Richard Negus giết, với sự ưng thuận của chính cô ta. Rồi khi Negus không thấy Jennie đến để giết mình theo kế hoạch, ông ta đã tự sát. Jennie Hobbs và Samuel Kidd không giết ai cả. Dĩ nhiên, họ đã thông đồng với nhau để gây ra ba cái chết, nhưng những cái chết đó không hẳn là giết người. Chúng là…”
“Hành quyết với sự ưng thuận?”
“Chính xác.”
“Họ có một kế hoạch rất chỉn chu, đúng không? Harriet Sippel, Ida Gransbury, Richard Negus và Jennie Hobbs ấy. Hãy tạm gọi họ là A, B, C và D, ta sẽ thấy rõ hơn sự chỉn chu trong kế hoạch của họ.”
“Tại sao chúng ta không gọi họ bằng tên từng người?” tôi hỏi.
Poirot phớt lờ tôi. “A, B, C và D, cả bốn đều dằn vặt vì tội lỗi và tìm cách chuộc tội. Họ thỏa thuận sẽ trả giá cho tội lỗi quá khứ bằng chính mạng sống của mình, do đó họ lên kế hoạch giết lẫn nhau. B giết A, rồi C giết B, rồi D giết C.”
“Nhưng D đã không giết C, đúng không ạ? D là Jennie Hobbs, và cô ta đã không giết Richard Negus.”
“Có lẽ là không, nhưng cô ta được phân công chuyện đó. Kế hoạch là thế. Ngoài ra D phải sống sót để chứng kiến E – Nancy Ducane – bị treo cổ vì tội giết A, B và C. Chỉ khi đó D mới…” Poirot chợt khựng lại. “D,” ông lặp lại. “Demise? Đó là từ chính xác.”
“Sao cơ?”
“Ô chữ của anh đấy. Một từ liên hệ với cái chết và có sáu chữ. Anh nhớ không? Tôi gợi ý là ‘murder’ và anh nói từ đó chỉ dùng được nếu ‘murder’ bắt đầu bằng…” Ông lắc đầu và rơi vào im lặng.
“Nếu như ‘murder’ bắt đầu bằng vần D. Phải, tôi nhớ rồi. Ông Poirot, ông có ổn không vậy?” Mắt ông lấp lánh cái ánh sáng xanh kỳ lạ mà đôi khi vẫn xuất hiện.
“Comment? Mais bien évidement! Nếu ‘murder’ bắt đầu bằng vần D! Đúng rồi! Mon ami, anh không biết anh giúp tôi nhiều như thế nào đâu. Nay tôi nghĩ… phải, đúng rồi. Hẳn phải là vậy. Chàng trai trẻ và người phụ nữ lớn tuổi hơn – a, bây giờ tôi đã thấy thật rõ ràng!”
“Làm ơn giải thích đi.”
“Được, được. Khi nào tôi sẵn sàng nhé.”
“Tại sao bây giờ ông chưa sẵn sàng? Ông còn chờ gì nữa?”
“Anh phải cho tôi hơn hai mươi giây để sắp xếp lại các ý tưởng của tôi chứ, Catchpool. Điều đó là cần thiết để tôi còn cắt nghĩa cho anh, người chẳng hay biết gì cả. Từng lời của anh đều cho thấy anh chẳng hiểu gì hết. Anh nói chúng ta đã có tất cả mọi câu trả lời, nhưng câu chuyện mà chúng ta nghe Jennie Hobbs kể sáng này chỉ toàn là sự dối trá được thêu dệt công phu! Anh không thấy điều đó sao?”
“Ờ, thì… ý tôi là… hừm…”
“Richard Negus đồng ý với Harriet Sippel rằng Nancy Ducane phải bị treo cổ vì ba án mạng mà bà ấy không gây ra ư? Ông ta muốn giao quyền quyết định số phận Nancy cho Jennie Hobbs ư? Richard Negus, người luôn cầm đầu, nhân vật quyền uy được kính trọng. Cũng Richard Negus đó, trong mười sáu năm, đã cảm thấy mình tội lỗi khủng khiếp vì đã buộc tội Patrick Ive một cách bất công ư? Richard Negus đó nhận ra quá muộn rằng mình đã sai khi buộc tội và hành hạ một người đàn ông chỉ vì những yếu đuối có thể thông hiểu nơi con người ư? Richard Negus đó đã hủy hôn với Ida Gransbury vì cô ta quá giáo điều và đòi hỏi mọi vi phạm đều phải bị trừng phạt một cách nghiêm khắc nhất ư? Richard Negus này thì lại thích thú với ý tưởng để cho Nancy Ducane – người mà tội lỗi duy nhất là yêu một người đàn ông có thể mãi mãi không thuộc về mình – bị pháp luật phán xét và đối mặt với giá treo cổ vì ba cái chết mà cô ta không gây ra. Hừ! Thật là vớ vẩn! Chẳng có gì khớp nhau cả. Đó lại là một chuyện bịa khác do Jennie Hobbs dựng lên để đánh lạc hướng chúng ta.”
Tôi nghe những lời đó mà miệng há hốc. “Ông có chắc không, ông Poirot? Phải nói là tôi đã tin cô ta.”
“Dĩ nhiên là tôi chắc. Henry Negus chẳng đã nói với chúng ta rằng anh ông ấy sống mười sáu năm trong nhà như người ở ẩn, chẳng gặp gỡ, nói năng với bất cứ ai đó sao? Thế mà, theo lời Jennie Hobbs, ông ta dành ngần ấy năm để thuyết phục Harriet Sippel và Ida Gransbury rằng họ chịu trách nhiệm về cái chết của Patrick và Frances Ive và phải trả giá. Bằng cách nào Richard Negus có thể làm cái việc thuyết phục đó, trao đổi thường xuyên với hai người phụ nữ ở Great Holling, mà người em Henry lại không hề phát hiện ra?”
“Chuyện này chắc ông có lý. Tôi đã không nghĩ đến.”
“Đó chỉ là chuyện thứ yếu. Anh đã nhận ra cái sai lớn hơn trong câu chuyện của Jennie chưa?”
“Gài người khác vào tội giết người dĩ nhiên là sai trái rồi,” tôi nói.
“Catchpool, tôi không nói đến cái sai về mặt đạo đức mà nói đến sự bất khả về mặt sự kiện. Phải chăng anh đang chọc giận tôi để buộc tôi phải giải thích trước khi tôi sẵn sàng? Bien, tôi sẽ rút ra một chi tiết để trình bày cho anh với hy vọng nó sẽ dẫn anh đến những chi tiết khác. Theo lời Jennie Hobbs thì bằng cách nào mà chìa khóa các phòng 121 và 317 của khách sạn Bloxham lại chui vào túi áo khoác của Nancy Ducane?”
“Samuel Kidd tuồn chúng vào đó. Để giá họa cho Nancy.”
“Ông ta tuồn chúng vào túi bà ấy ở ngoài đường ư?”
“Tôi nghĩ điều đó cũng dễ làm mà.”
“Phải, nhưng bằng cách nào Samuel Kidd lại có được hai chìa khóa đó? Theo dự kiến, Jennie sẽ tìm thấy cả hai, cùng với chìa khóa của Richard Negus, tại phòng 238 khi cô ta đến đó để giết Richard Negus. Theo dự kiến, cô ta phải chuyển cả ba chìa khóa cho Samuel Kidd sau khi rời khỏi phòng 238 và khóa cửa lại. Thế nhưng, theo lời cô ta, cô ta đã không vào phòng Richard Negus và cũng chẳng đến khách sạn Bloxham vào đêm án mạng. Ông Negus khóa cửa từ bên trong rồi tự sát, sau khi giấu chìa khóa sau viên gạch lỏng ở lò sưởi. Vậy làm cách nào Samuel Kidd lại có được hai chiếc chìa khóa?”
Tôi chờ một lúc để xem có câu trả lời nào đến với tôi hay không. Không có. “Tôi không biết.”
“Có lẽ khi thấy Jennie Hobbs không đến, Samuel Kidd và Richard Negus đã cải biên lại kịch bản chăng? Theo kịch bản mới, Samuel Kidd sẽ giết Richard Negus rồi lấy chìa khóa của Harriet Sippel và Ida Gransbury từ phòng ông Negus. Trong trường hợp này, tại sao Samuel Kidd không mang theo cả chìa khóa của ông Negus? Tại sao lại giấu phía sau viên gạch? Cách giải thích hợp lý duy nhất là Richard Negus muốn việc tự sát của ông ta trông giống như một vụ giết người. Mon ami, điều đó có thể dễ dàng thực hiện bằng cách để cho Samuel Kidd lấy chìa khóa ra khỏi phòng. Thế thì đâu cần gì phải mở cửa sổ ra để gây ấn tượng hung thủ đã thoát ra khỏi phòng theo đường đó.”
Tôi thấy sức mạnh trong lý luận của ông. “Vì Richard Negus khóa cửa phòng từ bên trong. Làm sao Samuel Kidd vào được phòng 238 để lấy đi các chìa khóa phòng 121 và 317?”
“Précisément.”
“Còn nếu ông ta leo cây để chui vào qua cánh cửa sổ để ngỏ thì sao?”
“Catchpool – hãy suy nghĩ đi. Jennie Hobbs nói cô ta không đến khách sạn Bloxham đêm hôm đó. Vậy, hoặc là Samuel Kidd đã hợp tác với Richard Negus để tiếp tục kế hoạch mà không có cô ta, hoặc là hai người đàn ông này không hợp tác với nhau. Nếu không hợp tác thì tại sao Samuel Kidd không được mời mà lại vào phòng của ông Negus qua đường cửa sổ ngỏ và lấy đi hai chìa khóa? Lý do nào ông ta làm như vậy? Còn nếu hai người họ hợp tác với nhau thì chắc chắn Samuel Kidd phải có ba chìa khóa để tuồn vào túi của Nancy chứ đâu phải chỉ hai chiếc. Ngoài ra… nếu Richard Negus tự sát – như anh hiện đang tin – khiến cho chiếc khuy măng-xét rơi sâu vào trong miệng, vậy thì ai là người sắp đặt thi thể ông ta theo một đường thẳng hoàn hảo? Một người uống thuốc độc rồi quằn quại cho đến chết mà vẫn giữ được vị trí nằm cực kỳ chỉn chu, anh có tin nổi không? Non! Ce n’est pas possible.”
“Tôi cần suy nghĩ lại chuyện này,” tôi nói. “Ông làm đầu óc tôi rối tung hết cả lên rồi đó. Nó đang chật ních những câu hỏi mà trước đây chưa từng có.”
“Ví dụ?”
“Tại sao ba nạn nhân của chúng ta gọi bánh mì kẹp, bánh ngọt và bánh nướng nhưng rồi chẳng ăn món nào cả? Và nếu họ không ăn thì tại sao bánh trái lại không còn trên các đĩa trong phòng Ida Gransbury? Chúng đi đâu cả rồi?”
“À! Bây giờ thì anh đã suy nghĩ như một thám tử đích thực rồi đấy. Hercule Poirot đã dạy được anh cách vận dụng những tế bào xám nho nhỏ.”
“Ông đã nghĩ ra chuyện đó chưa, cái vô lý về thức ăn ấy mà?”
“Bien sur. Tại sao tôi không hỏi Jennie Hobbs về chuyện đó, trong khi lại yêu cầu giải thích nhiều điều không khớp khác? Tôi làm vậy vì tôi muốn cô ta lầm tưởng chúng ta tin vào câu chuyện của cô ta. Cho nên tôi không thể hỏi cô ta một câu mà cô ta không thể đưa ra lời giải đáp.”
“Ông Poirot! Khuôn mặt của Samuel Kidd!”
“Nó ở đâu vậy, mon ami!”
“Không, ý tôi không phải là tôi thấy khuôn mặt ông ta. Ý tôi là… Ông có nhớ cái lần đầu tiên gặp ông ta ở Pleasant không? Ông ta cạo râu, bị rách mặt. Có một vết sẹo ở phần da nhỏ trên má đã được cạo, trong khi trong khi các phần da khác thì phủ kín râu ria, ông nhớ không?”
Poirot gật đầu.
“Lỡ đó không phải là vết cắt do cạo râu mà là vết xước do một cành cây nhọn thì sao? Lỡ Samuel Kidd đã bị nhánh cây nhọn nào đó cào phải khi leo cây để ra vào phòng 238 thì sao? Ông ta sẽ tiếp cận chúng ta với lời nói dối về việc thấy Nancy Ducane chạy ra khỏi khách sạn nên không muốn chúng ta gắn vết xước bí ẩn trên mặt mình với ngọn cây bên ngoài cửa sổ phòng của Richard Negus, vì vậy ông ta đã cạo một mảng da nhỏ.”
“Ông ta biết chúng ta sẽ mặc định rằng ông ta bắt đầu cạo râu, bị rách mặt thê thảm nên dừng lại,” Poirot nói. “Và rồi, khi viếng thăm tôi ở nhà trọ, râu ông ta đã biến mất và khuôn mặt ông ta thì phủ đầy vết cắt: để nhắc nhở tôi rằng ông ta không thể cạo râu mà không làm nát khuôn mặt. Eh bien, nếu tôi tin điều đó thì tôi sẽ mặc định rằng mọi vết cắt trên khuôn mặt ông ta đều do cạo râu mà ra.”
“Tại sao tôi không thấy ông phấn khích nhỉ?” tôi hỏi.
“Vì điều đó quá rõ rồi. Tôi đã đi đến kết luận đó hơn hai giờ trước đây rồi.”
“Ồ.” Tôi cảm thấy mình xìu xuống. “Chờ chút – nếu Samuel Kidd bị xước mặt do leo cây bên ngoài cửa sổ để ngỏ của Richard Negus, có nghĩa ông ta đã leo được vào phòng và lấy đi các chìa khóa phòng 121 và 317, đúng không nhỉ?”
“Ta không còn thời gian để thảo luận về ý nghĩa nữa rồi,” Poirot nói bằng một giọng nghiêm nghị. “Chúng ta đã đến nhà ga. Từ câu hỏi của anh có thể thấy anh đã không lắng nghe cẩn thận.”
Bác sĩ Ambrose Flowerday là một người đàn ông cao lớn, bệ vệ khoảng chừng năm mươi tuổi với mái tóc đen thô xoắn điểm những cọng bạc ở hai bên thái dương. Áo ông nhàu nát và mất cúc. Ông đã nhắn chúng tôi đến nhà mục vụ, và vì vậy mà chúng tôi đang ở đó, trong căn sảnh lạnh lẽo trần cao ngất và sàn gỗ bong tróc.
Toàn bộ chốn này chừng như đã được phó thác cho bác sĩ Flowerday để làm bệnh xá tạm cho một bệnh nhân duy nhất. Ra mở cửa là một y tá mặc đồng phục. Thường thì tôi sẽ thắc mắc về cách sắp xếp này, nhưng tôi lại mải suy nghĩ về Margaret Ernst đáng thương.
“Bà ấy thế nào rồi?” tôi hỏi sau khi các bên giới thiệu xong.
Khuôn mặt ông bác sĩ méo xệch vì lo lắng. “Tôi chỉ được phép nói rằng bà ấy rất cừ khôi trong tình cảnh thế này.”
“Được ai cho phép?” Poirot hỏi.
“Margaret. Bà ấy không chấp nhận những lời lẽ yếm thế.”
“Và có đúng là bà ấy yêu cầu ông nói chuyện với chúng tôi?”
Sau một chút ngập ngừng, bác sĩ Flowerday khẽ gật đầu. “Hầu hết mọi người không thể sống sót lâu sau một cuộc tấn công như thế này. Margaret có thể trạng và tinh thần mạnh mẽ. Đó là một cuộc tấn công nghiêm trọng.”
Chết tiệt, tôi sẽ chết mất thôi nếu không giữ được bà ấy sống sót.
“Bà ấy gặp chuyện gì vậy?”
“Hai tên đại lưu manh ở đầu làng đến sân nhà thờ vào giữa đêm và… vâng, chúng đã làm những việc đáng xấu hổ với mộ của vợ chồng Ive. Margaret nghe thấy. Ngay cả khi ngủ bà ấy vẫn dè chừng. Bà ấy nghe có tiếng kim loại đập vào đá. Khi bà ấy chạy ra để ngăn chúng, chúng dùng cái thuổng mà chúng mang theo tấn công. Chúng sẵn sàng đánh bà ấy đến chết! Viên đội của làng đã kết luận điều đó khi ông ta bắt chúng vài giờ sau.”
Poirot nói: “Xin lỗi, bác sĩ. Ông có biết ai làm chuyện đó với bà Ernst không? Hai gã đại lưu manh mà ông nói… chúng đã thú nhận chưa?”
“Một cách hãnh diện nữa cơ đấy,” bác sĩ Flowerday nói qua hàm răng nghiến chặt.
“Và chúng đã bị bắt?”
“Ồ, vâng, cảnh sát đã bắt chúng.”
“Chúng là ai vậy?” Tôi hỏi.
“Frederick và Tobias Clutton, hai cha con. Một cặp say xỉn vô tích sự.”
Tôi tự hỏi không biết người con có phải là gã rách việc mà tôi từng thấy ngồi nhậu với Walter Stoakley ở King’s Head không (Sau này tôi mới biết mình đoán đúng: chính là hắn).
“Chúng nói là Margaret cản trở chúng. Còn về phần ngôi mộ vợ chồng Ive…” Bác sĩ Flowerday quay sang tôi, “Xin hiểu cho rằng tôi không trách cứ gì ông, nhưng cuộc viếng thăm của ông đã khuấy động mọi thứ. Người ta thấy ông đến ngôi nhà tranh của Margaret. Cả làng đều biết lập trường của bà ấy trong vụ vợ chồng Ive. Họ biết câu chuyện mà ông nghe được trong ngôi nhà đó sẽ không phác họa Patrick là một kẻ tà đạo và gian dâm mà là nạn nhân một chiến dịch xúc xiểm độc ác của chính họ. Điều đó khiến họ muốn trừng trị Patrick thêm lần nữa. Ông ấy đã chết và ở ngoài tầm tay của họ, do đó họ muốn phá mộ của ông ấy. Margaret vẫn luôn nói điều này sớm muộn sẽ xảy ra. Bà ấy ngồi bên cửa sổ hết ngày này sang ngày khác, hy vọng sẽ bắt quả tang chúng và ngăn chúng lại. Các ông biết chưa nhỉ, bà ấy chưa từng gặp Patrick và Frances Ive đâu đấy. Bà ấy có kể vậy không? Họ là những người bạn của tôi. Tai họa của họ là nỗi buồn đau của tôi, sự bất công họ hứng chịu là nỗi ám ảnh của tôi. Ngay từ đầu, Margaret đã quý họ. Bà ấy kinh sợ với ý nghĩ một việc như vậy cũng có thể xảy ra trong nhiệm kỳ mới của chồng bà tại xứ đạo. Bà ấy khiến chồng cũng nghĩ như thế. Margaret và Charles đến Great Holling này thật là một sự may mắn khủng khiếp. Không thể kiếm đâu ra một đồng minh tốt như vậy… Những đồng minh chứ,” bác sĩ Flowerday chỉnh lại lời.
“Chúng tôi nói chuyện với bà Margaret được không?” Tôi hỏi. Nếu bà ấy sắp chết – và tôi có linh cảm như thế, bất chấp quyết tâm của ông bác sĩ giữ cho bà sống sót – thì tôi rất muốn nghe bà ấy trăn trối điều gì.”
“Dĩ nhiên,” Ambrose Flowerday nói. “Tôi mà không cho ông gặp thì bà ấy sẽ giận tôi đấy.”
Poirot, cô y tá và tôi theo chân ông ta leo lên một cầu thang gỗ không trải thảm, vào một trong các phòng ngủ. Tôi cố che giấu nỗi sửng sốt khi thấy những băng bó, máu me, những vết bầm xanh tím phủ đầy khuôn mặt bà. Mắt tôi chợt ngấn lệ.
“Họ đến chưa, Ambrose?” bà hỏi.
“Rồi.”
“Bonjour, bà Ernst. Tôi là Hercule Poirot. Tôi không biết dùng lời nào để bày tỏ nỗi…”
“Xin hãy gọi tôi là Margaret. Ông Catchpool có đi cùng ông không?”
“Vâng, tôi đây,” tôi cố xoay xở lên tiếng. Tôi không thể tưởng tượng nổi có những người nhẫn tâm gây thương tích như thế cho một phụ nữ. Đó là hành động dã thú, phi nhân tính. Những con quái vật!
“Có phải hai ông đang cố tỏ ra lịch sự để không làm tôi lo lắng?” bà Margaret hỏi. “Mắt tôi bị phù lên, không nhìn được nên tôi không thấy mặt các ông. Ambrose đã nói với các ông rằng tôi sắp chết rồi chứ?”
“Non, madame. Ông ấy không nói vậy đâu.”
“Không ư? Vâng, nhưng ông tin vậy.”
“Margaret yêu quý….”
“Ông ấy lầm rồi. Tôi quá giận dữ để có thể nhắm mắt.”
“Bà có chuyện gì muốn nói với chúng tôi ư?” Poirot hỏi.
Một âm thanh kỳ lạ phát ra từ cuống họng bà Margaret. Nó có âm điệu nhạo báng. “Đúng vậy, nhưng tôi mong các ông đừng hỏi tôi quá sớm, quá khẩn trương cứ như việc đó phải làm thật nhanh, cứ như hơi thở kế tiếp của tôi là hơi thở cuối cùng vậy! Ambrose đã gây cho các ông ấn tượng sai nếu như các ông tin ông ấy. Bây giờ tôi cần phải nghỉ ngơi. Có lẽ hôm nay tôi sẽ còn phải cự cãi nhiều lần nữa trước những phán đoán không xác đáng về cái chết của tôi! Ambrose, ông hãy nói cho họ những gì họ cần biết, được không ông?” Mí mắt bà hấp háy.
“Được thôi. Nếu bà đã muốn thế.” Mắt ông hốt hoảng mở lớn và ông nắm lấy tay bà. “Margaret? Margaret!”
“Ông để bà ấy yên đi,” cô y tá nói, lần đầu tiên lên tiếng. “Hãy để bà ấy ngủ.”
“Ngủ,” bác sĩ Flowerday lặp lại, có vẻ bối rối. “Phải, dĩ nhiên. Bà ấy cần ngủ.”
“Bà ấy muốn ông nói gì với chúng tôi vậy, ông bác sĩ?” Poirot hỏi.
“Có nên chăng ông đưa khách của ông vào phòng khách?” Cô y tá gợi ý.
“Không,” Flowerday nói. “Tôi sẽ không rời bà ấy. Và tôi cần nói chuyện riêng với các vị này, vì vậy xin cô cho chúng tôi chút thời gian, được không cô y tá?”
Cô y tá trẻ gật đầu rồi rời phòng.
Flowerday hướng sang tôi. “Bà ấy chắc đã nói với ông gần hết rồi, đúng không? Chuyện ngôi làng địa ngục này đã làm gì với Patrick và Frances ấy mà?”
“Có lẽ chúng tôi biết câu chuyện đó còn nhiều hơn ông tưởng đấy,” Poirot nói. “Tôi đã nói chuyện với cả Nancy Ducane lẫn Jennie Hobbs. Họ nói việc thẩm tra cho thấy Patrick và Frances Ive đã chết do tai nạn. Thế nhưng Margaret Ernst lại nói với ông Catchpool rằng họ tự nguyện uống thuốc độc để kết liễu cuộc đời: vợ uống trước, chồng uống sau. Chất độc có tên là Abrin.”
Flowerday gật đầu. “Đó là sự thật. Frances và Patrick đều để lại di thư: những trăn trối cuối cùng của họ. Tôi đã nói với nhà chức trách rằng, theo ý kiến của tôi, hai cái chết đó là do tai nạn. Tôi đã nói dối.”
“Tại sao?” Poirot hỏi.
“Tự sát là một tội lỗi dưới mắt nhà thờ. Sau những công kích làm đổ vỡ thanh danh của Patrick, tôi không thể chấp nhận anh ấy phải hứng chịu thêm một vết nhơ nào nữa. Và Frances tội nghiệp – người đã không làm gì sai – cũng là một tín hữu Cơ Đốc tốt…”
“Oui. Je comprends.”
“Tôi biết nhiều người sẽ ăn mừng thành quả nếu biết hành động của họ dẫn đến việc vợ chồng Ive tự sát. Tôi không muốn cho họ sự hài lòng đó. Harriet Sippel là điển hình.”
Poirot nói: “Tôi hỏi ông câu này nhé, bác sĩ Flowerday? Nếu tôi nói Harriet Sippel đã ăn năn về cách đối xử tàn tệ của mình với Patrick Ive thì liệu ông có tin được không?”
“Ăn năn ư?” Ambrose Flowerday rầu rĩ cười. “Sao thế, ông Poirot, ông làm tôi nghĩ ông bị mất lý trí đấy. Harriet không bao giờ ăn năn những gì bà ta làm. Cả tôi cũng thế, nếu các ông muốn hỏi. Tôi mừng vì tôi đã nói dối mười sáu năm về trước. Nếu trở lại thì tôi sẽ vẫn làm vậy. Tôi nói các ông thế này nhé: đám đông do Harriet Sippel và Ida Gransbury dẫn đầu chống lại Patrick Ive là một đám xấu xa. Không có lời nào khác hơn dành cho chúng. Một người có học thức như ông, tôi nghĩ chắc không xa lạ gì với vở The Tempest, đúng không ạ? Địa ngục trống rỗng?”
“‘Và tất cả ma quỷ đều ở đây’,” Poirot hoàn tất câu trích dẫn.
“Đúng vậy.” Bác sĩ Flowerday quay sang tôi. “Vì thế mà Margaret không muốn ông nói chuyện với tôi, ông Catchpool ạ. Bà ấy rất hãnh diện về việc chúng tôi đã nói dối vì lợi ích của Patrick và Frances, nhưng bà ấy lại thận trọng hơn tôi. Bà ấy sợ tôi sẽ khoe khoang với ông về hành động thách thức của mình, như tôi vừa thể hiện.” Ông buồn bã mỉm cười. “Tôi biết giờ đây tôi sẽ lãnh hậu quả. Tôi sẽ mất quyền hành nghề và có thể sẽ mất cả tự do, và có lẽ điều đó cũng đáng cho tôi. Lời nói dối của tôi đã giết chết Charles.”
“Chồng quá cố của bà Margaret ư?” tôi hỏi.
Ông bác sĩ gật đầu. “Margaret và tôi không màng việc người ta thì thào sau lưng ở ngoài đường, gọi chúng tôi là ‘Lũ gian dối’, nhưng Charles thì lại cực kỳ quan tâm. Sức khỏe của ông ấy bị suy sụp. Nếu tôi đừng quá quyết liệt trong cuộc chiến chống cái ác ở ngôi làng này, Charles có thể vẫn còn sống cho đến tận ngày nay.”
“Hai bản di thư của vợ chồng Ive nay ở đâu?” Poirot hỏi.
“Tôi không biết. Tôi trao chúng cho Margaret mười sáu năm trước. Từ đó đến nay tôi không hỏi bà ấy về chúng.”
“Tôi đốt chúng rồi.”
“Margaret.” Ambrose Flowerday lao đến bên bà. “Bà dậy rồi sao?”
“Tôi vẫn nhớ từng từ trong hai bản di thư đó. Có vẻ như chúng cần được nhớ, cho nên tôi đã cố thuộc chúng.”
“Margaret, bà cần phải nghỉ ngơi. Nói chuyện sẽ làm bà mệt đấy!”
“Di thư của Patrick nhắn Nancy rằng ông ấy yêu bà và sẽ mãi mãi yêu. Tôi không nói lại cho bà ấy. Làm sao tôi nói được khi tôi cần phải che giấu việc Ambrose đã nói dối về cái chết của họ trước hội đồng thẩm tra? Nhưng… giờ thì sự thật đã được phơi bày, ông phải nói lại với bà ấy, Ambrose ạ. Hãy nói cho bà ấy biết Patrick viết gì đi.”
“Tôi sẽ nói. Đừng lo, Margaret. Tôi sẽ thu xếp mọi sự.”
“Tôi lo chứ. Ông chưa nói với ông Poirot và ông Catchpool về các đe dọa của Harriet sau khi Patrick và Frances được chôn cất. Nói cho họ biết đi.” Mắt bà nhắm lại. Vài giây sau, bà lại rơi vào giấc ngủ.
“Những đe dọa gì thế, ông bác sĩ?” Poirot hỏi.
“Một ngày nọ, Harriet Sippel đến nhà mục vụ, kéo theo một đám khoảng mươi mười hai người. Bà ta nói dân làng Great Holling muốn đào thi thể của Patrick và Frances Ive lên. Bà ta nói, nếu họ tự sát thì không được phép chôn cất trên đất của nhà thờ, đó là luật của Chúa. Margaret ra cửa và bảo rằng bà ta đang nói nhảm: điều đó đã từng là luật của nhà thờ, nhưng nay không còn thế nữa. Luật đó đã thôi tồn tại từ thập niên 1880, mà lúc này đã là 1913. Khi chết, linh hồn được phó thác cho sự phán quyết của Chúa và người chết sẽ nằm ngoài mọi phán xét trần tục. Người trợ thủ sùng tín của Harriet, Ida Gransbury, đã khăng khăng rằng nếu trước thập niên 1880 việc chôn người tự sát trong khuôn viên nhà thờ là sai, thì đến nay việc đó vẫn là sai. Chúa không thể đổi ý trong những hành xử đã được thiết lập và chuẩn thuận, cô ta nói vậy. Khi nghe những lời lẽ quá đáng này phát ra từ vị hôn thê, Richard Negus đã hủy hôn với cô gái ác mỏ này và bỏ làng đến Devon. Đó là quyết định đúng đắn nhất trong đời ông ấy.”
“Frances và Patrick Ive tìm đâu ra cái chất Abrin mà họ dùng để tự sát?” Poirot hỏi.
Ambrose Flowerday có vẻ ngạc nhiên. “Đó là một câu hỏi làm tôi hoàn toàn bất ngờ. Tại sao ông hỏi vậy?”
“Vì tôi thắc mắc nó có phải từ ông mà ra không?”
“Đúng vậy.” Ông bác sĩ chùng lại, chừng như vì đau đớn. “Frances lấy trộm nó từ nhà tôi. Tôi đã trải qua vài năm làm việc ở vùng nhiệt đới và đã đem về từ đó hai lọ thuốc độc. Hồi đó tôi còn trẻ, nhưng đã có kế hoạch sử dụng nó sau này trong đời nếu cần, chẳng hạn khi nào bị mắc bệnh gì đau đớn và không thể chữa khỏi. Đã từng chứng kiến sự đau đớn kéo dài của một số bệnh nhân, tôi muốn mình có khả năng tự giải thoát khỏi thách thức đó. Tôi không biết vì sao Frances biết tôi có hai lọ thuốc độc cất trong tủ, nhưng hẳn bà ấy đã phát hiện ra trong lúc tìm kiếm thứ gì đó mà bà ấy cần. Như tôi đã nói ban nãy, có lẽ tôi cũng đáng bị trừng phạt. Dù Margaret nói gì, tôi luôn cảm thấy chính tôi mới là người giết chết Frances chứ không phải bà ấy tự sát.”
“Non. Ông không thể tự trách được,” Poirot nói. “Nếu bà ấy đã quyết tự sát thì đằng nào bà ấy cũng tìm ra cách, dù có hay không lọ Abrin của ông.”
Tôi chờ đợi Poirot chuyển sang câu hỏi về chất cyanide, vì một ông bác sĩ từng tiếp cận một loại thuốc độc thì cũng hoàn toàn có thể tiếp cận loại khác, nhưng thay vào đó ông lại nói: “Bác sĩ Flowerday, tôi không định tiết lộ với ai rằng cái chết của Patrick và Frances Ive không phải là do tai nạn. Ông sẽ vẫn được tự do và tiếp tục hành nghề bác sĩ của ông.”
“Sao?” Flowerday hết nhìn Poirot rồi nhìn tôi, vẻ sửng sốt.
Tôi gật đầu xác nhận dù trong lòng bực bội vì Poirot đã không hề hỏi ý kiến tôi. Dẫu sao thì thực thi pháp luật cũng là công việc của tôi mà. Ông mà tham khảo ý kiến tôi thì tôi sẽ nhắc ông chớ tin vào những lời nói dối của Ambrose Flowerday.
“Xin cảm ơn. Ông quả là một người công bằng và bao dung.”
“Pas du tout.” Poirot chặn đứng những lời hàm ơn của Flowerday. “Tôi còn một câu hỏi nữa cho ông, ông bác sĩ: ông đã lập gia đình chưa?”
“Chưa.”
“Xin cho phép tôi nói thế này nhé, tôi nghĩ ông nên lập gia đình.”
Tôi hít vào một hơi sâu.
“Ông là người độc thân, đúng không? Còn Margaret Ernst là góa phụ từ nhiều năm nay. Rõ ràng là ông yêu bà ấy rất nhiều, và tôi tin bà ấy cũng đáp lại tình cảm của ông. Tại sao ông không hỏi cưới bà ấy?”
Bác sĩ Flowerday có vẻ như cố xua đi sự ngạc nhiên, trông ông thật tội nghiệp. Cuối cùng, ông nói: “Margaret và tôi từ lâu đã thỏa thuận sẽ không lấy nhau. Việc đó không ổn. Sau những gì chúng tôi đã làm – dù cả hai đều cho là cần thiết – và sau những gì xảy ra với Charles tội nghiệp… Vâng, chúng tôi cảm thấy không ổn nếu cho phép mình được hưởng hạnh phúc qua hôn nhân… hạnh phúc như lẽ ra chúng tôi phải có được bên nhau. Có quá nhiều nỗi đau.”
Tôi quan sát bà Margaret, thấy mí mắt bà hấp háy.
“Đừng nói đến nỗi đau nữa,” bà yếu ớt nói.
Flowerday che miệng bằng nắm tay siết chặt. “Ồ, Margaret,” ông nói. “Không có bà thì tôi sống làm gì?”
Poirot đứng dậy. “Bác sĩ,” ông nghiêm nghị nói. “Bà Ernst tin rằng bà ấy sẽ sống sót. Sẽ rất là đáng tiếc nếu ông vẫn tiếp tục cái quyết định ngớ ngẩn của ông, né tránh khả năng tìm hạnh phúc thực sự. Hai người tốt yêu nhau thì không nên tách rời khi mà việc đó không phải là cần thiết.”
Nói xong ông bước ra khỏi phòng.
Tôi muốn tẩu thoát thật nhanh về London, nhưng Poirot nói trước hết ông phải thăm mộ Patrick và Frances Ive. “Tôi muốn đặt ít hoa ở đó, mon ami.”
“Đang là tháng 2, ông ơi. Ông tìm đâu ra hoa đây?”
Câu nói này dẫn đến một chuỗi càm ràm dai dẳng về thời tiết của nước Anh.
Bia mộ nằm ở một bên mồ, phủ đầy vết bùn. Nhiều dấu chân chồng lẫn nhau trên bùn gợi ý rằng hai gã cục súc Frederick và Tobias Clutton đã giẫm lên giẫm xuống tấm bia sau khi dùng thuổng đào nó lên khỏi mặt đất.
Poirot tháo găng tay ra. Ông cúi xuống, dùng ngón trỏ bàn tay phải vẽ hình một bông hoa lớn lên mặt đất, trông như một bức vẽ của trẻ em. “Voilà,” ông nói. “Một bông hoa tháng 2, bất chấp thời tiết kinh khủng của nước Anh.”
“Ông Poirot, ngón tay ông lấm bùn rồi kìa!”
“Oui! Tại sao anh có vẻ ngạc nhiên thế? Ngay cả Hercule Poirot lừng danh cũng chẳng thể vẽ được một bông hoa trên bùn mà ngón tay không lấm. Bùn đất sẽ rơi ra, anh đừng lo. Lát nữa cắt móng tay là xong chứ gì.”
“Dĩ nhiên phải xong chứ.” Tôi mỉm cười. “Tôi mừng khi thấy ông hào hứng với việc này.”
Poirot lấy ra chiếc khăn tay. Tôi thích thú nhìn ông dùng nó chùi các vết chân trên bia mộ, phì phò và hổn hển, nhảy tới rồi nhảy lui, đôi lúc loạng choạng.
“Thế chứ!” ông nói. “C’est mieux.”
“Vâng, khá hơn.”
Poirot tư lự khi đứng thẳng dậy. “Đây là một khung cảnh đau lòng mà không ai muốn thấy,” ông nhỏ nhẹ nói. “Chúng ta phải tin rằng Patrick và Frances Ive đã an nghỉ bên nhau.”
Chính từ bên nhau đã gây ra điều đó. Tôi chợt nghĩ đến một từ khác: tách lìa. Khuôn mặt tôi hẳn đã nói lên tâm trạng.
“Catchpool? Anh sao thế? Có chuyện gì vậy?”
Bên nhau. Tách lìa.
Patrick Ive yêu Nancy Ducane, nhưng khi chết, trong nấm mồ chung, ông ta lại ở bên người phụ nữ mà ông chính thức thuộc về khi còn sống: Frances người vợ của ông. Liệu tâm hồn ông có tìm được sự an bình, hay nó vẫn đau đáu hướng về Nancy? Liệu Nancy có tự hỏi điều đó? Yêu Patrick nhiều như thế, liệu bà có mong muốn trò chuyện với người đã khuất? Bất cứ ai từng yêu và mất đi người yêu quý của mình sẽ đều mong ước điều đó…
“Catchpool! Anh nghĩ gì lúc này vậy? Nói tôi biết đi.”
“Ông Poirot, tôi đã có một ý nghĩ rất phi lý. Tôi sẽ nói vắn tắt với ông, xin đừng mắng tôi là điên rồ.” Tôi lắp bắp trong xúc động cho đến khi thuật lại hết với ông. “Dĩ nhiên là tôi sai,” tôi kết luận.
“Ồ, không, không, không hề. Không đâu, mon ami.” Ông hổn hển nói. “Dĩ nhiên là vậy! Cớ sao tôi lại không thấy nhỉ? Mon Dieu! Anh có hiểu ý nghĩa điều này không? Giờ thì chúng ta phải kết luận sao đây?”
“Không, tôi e rằng tôi không kết luận gì cả.”
“Ah. Dommage.”
“Xin ông đấy, ông Poirot! Thật không công bằng khi ông buộc tôi nói ra suy nghĩ của tôi, trong khi ông lại giữ rịt suy nghĩ của ông.”
“Lúc này chưa phải lúc ta thảo luận. Ta phải về gấp London. Ở đó, anh sẽ gói ghém quần áo và đồ đạc cá nhân của Harriet Sippel và Ida Gransbury.”
“Sao cơ?” Tôi hoang mang chau mày, tự hỏi đôi tai có đánh lừa mình không.”
“Oui. Ông Negus đã lấy đồ đạc của anh ông ta, chắc anh còn nhớ.”
“Tôi nhớ chứ, nhưng…”
“Đừng cãi tôi, Catchpool. Anh không mất quá nhiều thời gian để gói ghém hành trang, y phục của hai phụ nữ ở khách sạn đâu. À, bây giờ thì tôi đã hiểu rồi. Cuối cùng tôi đã hiểu tất cả rồi. Toàn bộ giải đáp cho rất nhiều bài toán ghép hình nho nhỏ! Anh biết đấy, nó cũng khá giống với trò chơi ô chữ của anh.”
“Ông đừng so sánh như thế,” tôi nói. “Ông sẽ làm tôi mất hứng với thú tiêu khiển yêu thích của mình nếu so sánh nó với vụ việc này.”
“Chỉ khi thấy được toàn bộ lời giải thì ta mới biết chắc là mình đúng,” Poirot phớt lờ tôi, nói tiếp. “Khi đó, dù có thiếu vài giải đáp, ta vẫn phát hiện được chi tiết nào đó có vẻ khớp nhưng thật ra lại chẳng khớp chút nào.”
“Vậy thì ông hãy coi tôi như một ô chữ trống lốc đi, một ô chữ chẳng có từ nào,” tôi nói.
“Không lâu nữa đâu, bạn tôi ạ, không lâu đâu. Poirot, ông ấy sẽ sớm yêu cầu tập hợp ở phòng ăn của khách sạn Bloxham một lần nữa!”
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt