Sometimes your joy is the source of your smile, but sometimes your smile can be the source of your joy.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Guillaume Musso
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Call From An Angel
Dịch giả: Bảo Linh
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3907 / 181
Cập nhật: 2015-07-21 19:58:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Cắt Ngang Đường Bạn Đi
hành công không phải lúc nào cũng là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển, thậm chí nó thường là lợi ích thứ phát của một nỗi đau sâu kín."
- Boris CYRULNIK
"Tôi đã tới Paris vào cuối giờ chiều ngày 31 tháng Mười hai. Năm đó, tiết trời mùa đông trên toàn nước Pháp lạnh căm. Tuyết đã rơi từ tuần trước và ở một vài nơi, thủ đô nước Pháp trông chẳng khác nào một khu trượt tuyêt…"
Paris
Hai năm trước
31 tháng Mười hai 2009
Tôi thuê xe ngay tại sân bay, một chiếc ô tô hòm tiện nghi của Đức được cho là vận hành tốt để đảm bảo hành trình suôn sẻ. Lẽ ra tôi có thể đáp một chuyến bay thẳng tới Toulouse nhưng vì vướng mấy ngày lễ nên lễ an táng của cha tôi bị hoãn lại tới mùng 2 tháng Một, và ý nghĩ sẽ trải qua đêm giao thừa tang tóc cùng chị gái và anh rể khiến tôi nhăn mặt.
Thế nên tôi quyết định lái xe tới Auch rồi tối ngày hôm sau mới khởi hành. Tôi vẫn còn hai mươi tư giờ trước mắt. Ba ngày nay tôi chưa chợp mắt nên định sẽ nhấn chìm cơn mất ngủ này trong một đêm thật dài. Bấy giờ tôi đang mơ đến một bộ sưu tập các loại thuốc ngủ có thể hạ gục cả một trung đoàn, nhưng tôi không mang đơn thuốc theo người và cũng không dễ tìm ra một vị bác sĩ vào giờ này. Trước hết tôi phải tìm được một khách sạn đã, bởi lẽ khách sạn nằm ở quận VI nơi tôi thường ghé đã không còn phòng trống.
- Chúng tôi đã kín phòng, tay nhân viên lễ tân sẵng giọng thông báo với tôi.
Thông thường, ngay cả khi tôi bất chợt ghé qua không thông báo trước thì quản lý khách sạn vẫn xoay xở để tiếp đón tôi hết sức trọng thị bởi lẽ tôi là Jonathan Lempereur, bởi lẽ việc tôi chọn nghỉ chân trong khách sạn của họ là niềm vinh dự đối với họ, bởi lẽ họ từng treo bức ảnh tôi ký tặng trong phòng khách nhỏ của khách sạn, cùng ảnh của những nhân vật quan trọng khác từng lưu lại nơi đây. Nhưng tin tức lan nhanh và các nhân viên hẳn đã biết về sự "thất sủng" của tôi, bởi không ai cố gắng động chân động tay giúp đỡ tôi. Tôi có quen một vài đồng nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn và nhà hàng cao cấp, nhưng sự đau đớn nơi tôi cũng có giới hạn và tôi đã quyết định dứt khoát không gói cảnh tán gia bại sản của mình thành quà tặng họ. Sau vài cuộc điện thoại, cuối cùng tôi cũng tìm ra phòng nghỉ qua đêm trong một khách sạn khiêm nhường tại quảng trường Château-Rouge, góc đại lộ Barbès giao với phố Poulet. Phòng của tôi quả là "khiêm nhường", thậm chí còn tuềnh toàng. Nhất là lạnh ngang Bắc Cực. Tôi đã thử tăng mức sưởi lên nhưng tình hình vẫn không khá hơn là mấy. Bây giờ là 17 giờ; trời đã sâm sẩm tối. Tôi đang ngồi trên giường, hai tay ôm lấy đầu. Tôi nhớ con trai, nhớ vợ, nhớ cuộc đời mình. Chỉ trong một tuần tôi đã mất tất cả. Vài ngày trước tôi vẫn sống cùng gia đình trong một căn hộ rộng thênh thang tại khu TriBeCa, tôi điều hành một đế chế, tôi có thẻ tín dụng Black Card và nhận chục lời mời phỏng vấn mỗi tuần… Tối nay, tôi bỗng muốn khóc và chuẩn bị đón năm mới trong không khí cô quạnh của một phòng khách sạn tồi tàn.
You’ll never walk alone…
Một sự thật hiển nhiên thảm thê bỗng đỗ ụp xuống tôi. Tôi rời phòng khách sạn để ngồi lên chiếc xe thuê. Tôi nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS, phố Maxime-Gorki ở Aulnay-sous-Bois rồi lái theo chỉ dẫn của giọng nữ cài sẵn trong thiết bị. Trên ghế cạnh lái là một chồng báo tạp chí của cả Pháp lẫn Mỹ mua tại sân bay. Báo chí Pháp, vốn thường xuyên lờ tôi đi suốt những năm gần đây, lần này đã tha hồ thòa mãn: Lempereur bị truất ngôi, Lempereur thoái trị, Sự sụp đổ của Lempereur…
Đó là trò chơi của giới truyền thông và tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nhận. Tuy nhiên, không phải vì thế mà những dòng tít này trở nên dễ nghe hơn, chúng chẳng khác nào cú đấm vào giữa mặt tôi. Thậm chí tôi không thể tự thuyết phục mình rằng mình sẽ gượng dậy được. Ngoại trừ việc sáng tạo những công thức chế biến mòn ăn thì tôi biết làm gì nào? Không gì cả hoặc rất ít ỏi… Mất Francesca, tôi mất luôn tình yêu nồng cháy vẫn luôn thúc đẩy tôi tiến tới, đòn bẩy đưa tôi từ một bếp trưởng "tầm thường" trở thành chủ nhà hàng hạng nhất thế giới. Tại Pháp có hai mươi lăm nhà hàng ba sao và tổng cộng gần tám mươi nhà hàng như thế trên toàn thế giới, nhưng trong đó chỉ duy nhất một nhà hàng có danh sách khách chờ hơn một năm mới đặt được bàn. Đó là nhà hàng của tôi và tôi biết mình làm nên kỳ tích ấy là nhờ Francesca. Bởi tôi chỉ được tiếp thêm lửa theo cách đó - tình yêu độc tôn, niềm đam mê, nhu cầu quyến rũ nàng không ngừng nghỉ. Phải tới năm ba mươi mốt tuổi tôi mới gặp Francesca, nhưng tôi đã tìm kiếm nàng từ thời còn học trung học. Suốt mười lăm năm nuôi hy vọng một người phụ nữ như nàng tồn tại đâu đó trên Trái đất này. Một phụ nữ đẹp như Catherine Zeta-Jonathanes được cấy ghép bộ não của Simone de Beauvoir. Một phụ nữ sở hữu mười đôi Stilettos trong tủ giày, nhưng lại có khả năng trò chuyện vời bạn bè về ảnh hưởng từ âm nhạc của Haydn lên toàn bộ tác phẩm của Beethoven hay về hiệu ứng tình cờ trong tranh của Pierre Soulages.
Khi Francesca bước vào một căn phòng, nàng thu hút hết thảy ánh nhìn. Phụ nữ muốn nàng trở thành bạn thân nhất của họ, nam giới khao khát được ngủ với nàng, trẻ con thích kiểu dí dỏm của nàng. Chuyện đó diễn ra như theo phản xạ, như một thông lệ, không thể tránh khỏi. Chúng tôi đã sống những năm tháng yêu đương mặn nồng trong vầng sáng nóng bỏng ấy và sự phân chia nhiệm vụ kỳ khôi: tôi có danh tiếng, nàng có sự thành điệu và lôi cuốn. Tình yêu của chúng tôi đã duy trì được thế cân bằng suốt mười năm liền trên sợi dây mỏng manh đó.
°
Lái theo xa lộ, chừng hai mươi phút sau tôi có mặt ở Aulnay. Tôi tìm thấy một chỗ đậu xe trên phố Gorki, cách tòa nhà nơi Chirstophe Salveyre đang sống không xa.
- Jonathan đây, tôi nói luôn khi nhấn vào chuông báo.
- Jonathan nào nhỉ?
- Jonathan Lempereur, em họ của anh đây.
Salveyre là con trai của chị gái mẹ tôi. Chúng tôi chưa từng gặp nhau cho tới khi anh liên lạc với tôi qua điện thoại tại New York cách đây bao năm. Khi tới nghỉ ở thành phố được mệnh danh là Quả Táo Lớn, anh bị cảnh sát bắt tạm giam sau một cuộc ẩu đả trong quán bar. Anh không quen biết ai ở Manhattan và không còn đồng xu dính túi. Nể tình máu mủ ruột ra, tôi đã trả tiền bão lãnh cho anh tại ngoại rồi để anh ở tạm khu nhà phụ của nhà hàng suốt nửa tháng trong lúc chờ vụ việc của anh được dàn xếp ổn thỏa. Anh chơi bài ngửa và không hề giấu tôi bản chất công việc anh làm tại Pháp: anh chuyên phân phối lẻ ma túy. Tôi nghe chuyện đó mà lạnh sống lưng, nhưng anh trấn an ngay rằng trên lãnh thổ Mỹ thì anh chẳng hề có tội tình gì.
- Cậu làm cái quái gì ở đây thế? Anh hỏi tôi khi ra mở cửa.
- Em cần anh giúp lại em một việc, tôi vừa nói vừa lẻn vào căn hộ.
- Mẹ kiếp, cậu đến không đúng lúc rồi. Tôi về để "sạc đầy bình" đấy, nhưng sẽ lại đi ngay bây giờ.
- Em có chuyện quan trọng.
- Cậu muốn gì?
- Em cần vũ khí.
- Vũ khí á?
- Một khẩu súng.
- Cẩu thấy trên cửa ra vào có đề "cửa hàng bán vũ khí" chắc? Cậu muốn tôi kiếm đâu ra một khẩu súng cho cậu bây giờ?
- Anh cố gắng đi!
Salveyre thở dài thườn thượt.
- Mẹ kiếp, hôm nay là giao thừa đấy! Mọi người đều tiệc tùng còn tôi thì đang có một mớ hàng khủng phải bán tống bán tháo đây. Mai quay lại gặp tôi nhé.
- Không, em cần thứ đó ngay tối nay!
- Tối nay thì tôi không thể rồi. Tôi phải đi giao hết hàng càng sớm càng tốt.
- Hãy nhớ rằng em đã giúp anh khi anh gặp rắc rối…
- Vậy ai sẽ trả cho tôi khoản lãi hụt kia?
- Cứ nói cho em biết anh cần bao nhiêu đi.
- Tôi sẽ giúp nếu cậu mua cho tôi 4.000 euro tiền hàng. Và thêm 3.000 nữa cho khẩu súng.
- Nhất trí, tôi đáp với vẻ không quan tâm. Anh không ngại cầm tiền đô chứ?
Khi rời New York, tôi đã vét sạch két sắt và có trong túi hơn 10.000 đô tiền mặt.
- Cho tôi một giờ đồng hồ, anh bảo tôi. Cậu có thể đợi luôn ở đây cũng được: tranh thủ nghỉ ngơi đi, mặt mũi cậu trông đến khiếp.
Tôi nghe theo lời khuyên của anh và ngã vật xuống trường kỷ. Trên bàn có một chai Cognac đã khui. Tôi rót cho mình một cốc to rồi thêm một cốc nữa trước khi thiu thiu ngủ.
Salveyre quay trở lại lúc quá tám giờ tối một chút.
- Cho cậu xem thứ tôi vừa tìm thấy này; anh nói rồi đưa tôi một khẩu súng lục mạ crom báng màu đen.
Khẩu súng nhỏ gọn nhưng vừa tay. Ổ đạn đủ năm viên.
- Đây là một khẩu Smith&Wesson mẫu 60 cỡ nòng 38 đặc biệt.
Thông tin ấy lọt vào qua tai này rồi lại ra ngoài qua tai kia.
Tôi đưa tiền cho anh, anh đưa lại một túi nhựa dẻo đáy tròn khóa kéo chứa chừng hai mươi liều ma túy. Tôi lưỡng lự định để lại cho anh, nhưng cuối cùng vẫn quyết định sẽ mang theo, tự nhủ mình sẽ hủy sau.
Như thế thì sẽ không có ai được tiêu thụ số hàng trắng này, tôi tự bào chữa.
Tôi biết, mình thật ngây thơ…
°
20 giờ
Tôi cất khẩu súng và chỗ cocain đó vào hộc đựng đồ trên xe rồi lái thẳng hướng khách sạn. Không cần phải bật GPS để lái hết quãng đường theo chiều ngược lại: xa lộ A1, lối ra cửa ô Chapelle…
Khỉ thật.
Tôi vừa ngớ ngẩn bỏ lỡ một lối rẽ vào đường nhánh. Rượu Cognac đã hạ tôi đo ván. Bỗng nhiên tôi không còn chắc lắm về tên phố nữa. Tôi lái tiếp trên chuỗi các đại lộ mang tên Thống chế khoảng năm trăm mét giữa cửa ô Clignancourt và cửa ô Clichy.
Nơi này không lấy gì làm hấp dẫn. Dưới ánh sáng nhờn nhợt hắt ra từ các biển quảng cáo, một nhóm gái điếm đang õng ẹo chèo kéo khách. Một vài chiếc ô tô đỗ lại chớp nhoáng: Cửa kính xe hạ xuống, những gả ngồi trong mặc cả giá tàu nhanh hoặc tàu chậm rồi tùy theo câu trả lời mà chọn mời cô gái lên xe. Hoặc không. Đèn giao thông đằng trước xe tôi vừa chuyển sang đỏ. Dù không muốn tôi vẫn mắc kẹt trước một trạm chờ xe buýt. Một cô gái Đông Âu trong trang phục váy ngắn và bốt da tới gõ lên cửa kính xe tôi để chào mời. Thoạt tiên tôi thử lờ cô ta đi, nhưng cô ta lại biểu diễn một màn khiêu vũ ngắn mang hơi hướm Cối xay gió Đỏ. Mắt cô ta buồn bã và trống rỗng. Cô ta khiến tôi mủi lòng và tôi quyết định hạ cửa kính xe để ít ra cũng có đôi lời khen ngợi màn nhảy múa vừa rồi.
Tôi biết, tôi thật ngây thơ…
°
Hai chiếc xe cảnh sát lao tới từ phía sau cách xe tôi chừng hai chục mét. Chưa đầy ba giây sau, cả con phố rung lên theo nhiệp điệu của tiếng còi kèm đèn pha phơn phớt xanh. Cảnh sát đã lôi băng đeo tay ra, kiên quyết làm nhiệm vụ thật hăng hái vào tối giao thừa, vây bắt đám gái mại dâm, xác minh danh tính các khách mua dâm.
Tôi đang nâng cửa kính xe lên thì một bóng phụ nữ bất thần mở cửa xe rồi ngồi vào cạnh ghế lái.
- Khởi động xe ngay kẻo bị tóm bây giờ! Cô ta thét lên giữa đám hỗn loạn.
Đó là một bé gái. Một thiếu niên chừng mười lăm tuổi.
Một gái bán hoa ư? Ở tuổi này ư?
- Lái đi chứ, khốn thật! Cô bé gào lên.
Tôi vừa chui vào tổ ong vò vẽ nào thế này? Trong máu tôi hẳn phải có đến hai gram cồn, ngoài ra còn có một khẩu súng, một túi đầy cocain trong hộc đựng đồ và một cô bé ở tuổi vị thành niên cùng ngồi trong xe.
Tôi sẽ ngồi tù và ở trong đó một thời gian dài mất thôi.
Thậm chí tôi còn không đợi đèn tín hiệu chuyển sang xanh mà đã rẽ ngay ở ngã tư đầu tiên.
Phóng hết tốc lực, tôi ngược lên đại lộ Porte-de-Saint-Ouen rồi hòa vào dòng xe cộ lưu thông ở vùng ngoại vi.
- Cháu chơi trò gì vậy? tôi hỏi người khách đi nhờ xe.
- ‘just wanna escape these fucking cops’ 1, cô bé đáp bằng thứ tiếng Anh lơ lớ.
Tôi bật đèn mui và tranh thủ lúc dòng xe lưu thông chậm để quan sát cô bé thật kỹ. Đó là một cô bé khoảng mười lăm tuổi, vóc dáng mảnh dẻ và khó đoán. Tóc cô bé nhuộm đen ngoại trừ vài lọn màu đỏ son. Một lọn tóc quá dài cứ không ngừng rủ xuống mắt cô bé. Cô bé mặc quần jean ống côn, đi đôi giày da hiệu Converse, áo phông kẻ sọc bị che khuất một phần dưới chiếc áo pull liền mũ màu hồng pha xám có khâu phù hiệu của đội bóng Manchester United. Một viên đá nhỏ xíu lấp lánh trên cánh mũi trái còn cổ cô bé đeo một chiếc vòng kiểu thời Trung đại bằng bạc và pha lê màu hồng lựu. Kiểu trang điểm gô tích – chì kẻ mày và viền mắt màu đen trên nền phấn trắng nhợt – khiến cô bé trông chẳng khác nào xác chết, nhưng lại cho thấy một phong cách được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Tôi quan sát đôi giày của cô bé: chúng gần như còn mới. Cô bé mặc quần áo hàng hiệu và đeo trang sức. Đây không phải một gái đứng đường mà là con nhà giàu thì đúng hơn.
Tôi không biết phải làm gì. Tôi không thể bỏ mặc cô bé giữa vùng ngoại ô này được. Tôi cần tìm hiểu thêm, nhưng cô bé có vẻ không hay chuyện lắm. Tôi lái vào đường nhánh đâu tiên dẫn tới trạm xăng ở cửa ô Montreuil rồi dừng trên bãi đỗ.
- Cháu tên gì? tôi hỏi cô bé bằng tiếng Anh.
- Chuyện đó thì có liên quan gì đến chú?
- Nghe này, chính CHÁU tự động lên xe của chú trong khi chú chẳng hề yêu cầu, vậy nên chớ có cao giọng như thế, OK?
Cô bé nhún vai, quay mặt đi chỗ khác.
- Cháu tên gì? tôi kiên quyết nhắc lại.
- Alice, cô bé rền rĩ. Alice Kowalski.
- Cháu sống ở đâu?
- Cháu chẳng thấy chuyện đó can hệ gì tới chú hết.
- Tại sao ban nãy cháu lại sợ cảnh sát đến thế?
- Thế còn chú? cô bé quay sang nhìn tôi.
Bị phản công bất ngờ, tôi chống chế:
- Chú uống hơi quá chén, thế thôi.
Đúng lúc ấy, nắp hộc đựng đồ tôi đóng không chặt bị bung ra, mở toang. Cô bé phát hoảng khi nhìn thấy khẩu súng và gói ma túy. Cô bé mở cửa xe chạy trốn, trong lòng chắc mẩm đã gặp phải một tên vô lại.
- Chờ đã, chuyện không phải như cháu nghĩ đâu! Tôi nói rồi chạy theo cô bé trên bãi đỗ xe.
- Để cháu đi, cô bé vặc lại rồi trốn trong trạm dừng nghỉ.
Tôi châm một điếu thuốc và quan sát cô bé qua lớp cửa kính. Cô bé đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu gần dãy máy bán nước tự động. Cô bé này là ai? Cô bé đang tìm cách chạy trốn khỏi cái gì? Vào khoảnh khắc ấy, tôi đã thoáng có ý định quay ra xe và bỏ đi mà không nài thêm nữa. Toàn bộ chuyện này chẳng can hệ gì đến tôi. Tôi chẳng được cóc khô gì khác ngoại trừ những phiền toái phải gánh thêm.
Tôi thở dài, nhưng vẫn quyết định tới gặp cô bé bất chấp mọi cân nhắc vừa xong. Trạm dừng nghỉ được tô điểm bằng những món đồ trang trí cho dịp lễ: tràng hoa điện buồn tẻ, cây thông trơ trụi với đám quà trang trí bằng nhựa. Radio phát một bài hit cũ rích của thập niên tám mươi.
- Cháu mời chú một cốc espresso chứ?
- Cháu không có tiền, cô bé lắc đầu từ chối.
Tôi rút ví ra tìm ít tiền lẻ.
- Cháu muốn thứ gì không? Tôi hỏi, nhét vài đồng vào máy.
- Muốn chú để cháu yên thân.
Tôi cố gắng thuyết phục cô bé.
- Nghe này, chúng ta đã có bước khởi đầu không mấy thuận lợi.
- Giờ thì chú lượn đi, cháu sẽ tự xoay xở một mình.
- Với gì đây? Cháu không có xu nào dính túi mà một chữ tiếng Pháp bẻ đôi cũng không biết. Chú sẽ không bỏ mặc cháu trong tình cảnh đó đâu. Đó là trách nhiệm của một người trưởng thành như chú.
Cô bé ngước mắt nhìn trời, nhưng rốt cuộc vẫn nhận chỗ tiền lẻ tôi đưa cho. Cô bé chọn trong máy bán đồ uống tự động một chai sữa nhỏ vị dâu và một gói bánh quy Oreo. Trong lúc cô bé ăn chỗ đồ ngọt đó, tôi nhặt tờ Metro đang nằm chỏng chơ trên bàn.
- Nhìn này, trong tờ báo này có ảnh chú đấy. Cháu có thể xem qua, không phải trong mục rao vặt đâu nhé.
Cô bé nhìn bài báo rồi ngẩng lên.
- Cháu đã thấy chú trên truyền hình! Trong chương trình mà chú phẫn nộ với những người theo chế độ ăn chay toàn phần!
Cô bé ám chỉ một cuộc đấu kỳ khôi đặt tôi ở thế đối lập với những phần tử cực đoan khá thế lực đang tìm cách khiến cho gan ngỗng béo bị cấm tại Mỹ.
- Nếu chú là một ngôi sao truyền hình, vậy thì chú làm quái gì ở những cô gái bán hoa giá 20 euro nhỉ, lại đúng vào đêm giao thừa, với hộc đựng đồ trên xe chất đầy ma túy? cô bé hỏi bằng giọng khiêu khích.
- Được rồi, đi theo chú nào, tôi yêu cầu cô be.
Chúa ban phúc lành cho truyền hình. Danh tiếng của tôi đã khôi phục chút ít lòng tin của cô bé, tuy vẫn giữ khoảng cách khá xa nhưng cô bé đã chấp nhận cùng tôi tới chỗ đậu chiếc BMW.
- Thứ nhất, chú không phải là khách làng chơi và cháu biết điều ấy rất rõ, nếu không cháu đã chẳng ngồi lên xe chú, dù là trốn cảnh sát đi nữa…
Cô bé không đáp, chứng tỏ tôi đã ghi một điểm.
- Thứ hai, chỗ ma túy này không thuộc về chú, tôi giải thích rồi cầm túi nhựa dẻo đó lên, quẳng vào một trong những thùng rác công cộng ở bãi đỗ xe. Chuyện này phức tạp, nhưng chú buộc phải giữ nó để có được khẩu súng này.
- Còn thứ vũ khí ấy dùng để làm gì?
- Chú chỉ dùng để tự vệ thôi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, cô bé là người Mỹ, bởi cô bé chấp nhận lời giải thích đó mà không thắc mắc gì thêm.
- Được rồi, giờ đến lượt cháu nhé. Nói chú biết cháu sống ở đâu, bằng không chú sẽ gọi cảnh sát.
- Cháu đã làm một việc ngu ngốc, cô bé mở lời. Cháu bỏ nhà ra đi, tất cả chỉ có thế. Cháu sống ở New York nhưng giờ đang đi nghỉ cùng bố mẹ. Gia đình cháu có một ngôi nhà ở Côte d’Azur.
- Ở đâu kia?
- Cap-d’Antibes.
Tôi biết rõ nơi đó. Chính tại đó tôi đã có nhà hàng "đúng nghĩa" đầu tiên.
- Cháu muốn về nhà nhưng lại bị mất trộm túi xách trên tàu TGV nên chẳng còn cả điện thoại lẫn ví tiền.
Cô bé có vẻ thành thực, ngay cả khi vẫn có điều gì đó khập khiễng mà tôi không rõ là vì đâu.
- Cứ việc gọi cho bố hoặc mẹ cháu nếu chú không tin lời cháu!
Cô bé đưa tôi một số điện thoại, tôi bấm gọi luôn. Chỉ sau một hồi chuông, tôi gặp một bà Kowalski nào đó đón nhận cuộc gọi của tôi như một sự giải thoát. Bà xác nhận toàn bộ câu chuyện: con gái bà đã bỏ nhà đi ngay sau buổi sáng hôm đó sau một trận cãi vã. Rõ ràng là bà đang lo sợ, ngay cả khi bà cố gắng không để lộ vẻ hốt hoảng ra bên ngoài.
Tôi chuyển máy để bà nói chuyện với Alice cho yên tâm. Không muốn trở thành kẻ tò mò thóc mách, tôi bỏ ra ngoài hút một điếu thuốc, tì khuỷu tay lên nắp ca pô xe, nhưng tôi vẫn nghe thấy phần lớn cuộc nói chuyện giữa hai người bọn họ. Họ nói chuyện điện thoại khá lâu. Alice xin lỗi và bật khóc thút thít. Khi cô bé chuyển máy lại cho tôi, tôi đề nghị với bà Kowalski sẽ đích thân đưa con gái về tận nhà cho bà. Tôi chỉ phải "xuống phía Nam" để dự lễ an táng cha tôi và nội trong buổi sáng tôi có thể có mặt tại Antibes.
Bà lưỡng lự hồi lâu nhưng rốt cuộc vẫn chấp nhận.
°
Chúng tôi lái xe đã được nửa tiếng đồng hồ.
Dưới bầu trời âm u và màn tuyết rơi, chúng tôi đi theo xa lộ Soleil và vừa ngang qua Évry. Alice mải miết đọc mấy tờ báo Mỹ miêu tả chi tiết thất bại của tôi trong sự nghiệp và hôn nhân.
- Vợ chú đẹp thật đấy…, cô bé nói sau khi quan sát chăm chú bức ảnh chụp Francesca.
- Ừ, mười năm qua ngày nào chú cũng nghe câu đó ít nhất là một lần…
- Và chú thấy bực sao?
- Cháu hiểu nhanh đấy.
- Tại sao thế?
- Nếu không đẹp đến thế, có lẽ cô ấy đã không phản bội chú.
- Cháu nghĩ chuyện chẳng có gì liên quan, cô bé phán với vẻ thạo đời ở tuổi mười lăm.
- Dĩ nhiên là có chứ. Càng xinh đẹp thì cháu càng có nhiều người theo đuổi, như vậy càng gặp nhiều cám dỗ. Điều đó tự nhiên thôi mà…
- Nhưng chú cũng thế mà, phải không? Trong các chương trình truyền hình, chú vẫn đóng vai ngài bếp trưởng gợi cảm luôn…
- Không! Tôi ngắt lời cô bé. Không giống nhau. Chú thì không như thế.
- Như thế nào?
- Cháu làm chú bực rồi đấy.
- Trả lời hay thật, cô bé nhận xét.
Thấy tôi làm thinh, cô bé bật radio và dò tần số. Tôi nghĩ Alice đang tìm cho ra một kênh "nhạc trẻ", thế nhưng cô bé lại dừng ở kênh France Musique. Alice lập tức bị hút vào bản nhạc đang phát: một bản viết cho đàn dương cầm tao nhã và tinh tế.
- Hay thật, tôi lên tiếng.
- Nhạc của Schumann, Davidsbundlertanze, nhạc phẩm số 6.
Tôi cứ ngỡ cô bé lòe mình cho đến khi bản nhạc kết thúc và người dẫn chương trình thông báo:
"Các bạn vừa nghe Maurizio Pollini trình diễn bản Davidsbundlertanze của Robert Schumann."
-Hoan hô!
Cô bé ra vẻ khiêm tốn:
- Dễ ấy mà.
- Chú không biết nhiều về Schumann lắm. Dù thế nào thì chú cũng chưa bao giờ nghe những bản này.
- Chúng được viết để tặng cho Clara Wieck, người phụ nữ trẻ mà Schumann yêu.
Cô bé ngừng lại trước khi nêu nhận xét:
- Đôi khi tình yêu hủy diệt, đôi khi nó lại kết tinh trong những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời…
- Cháu chơi dương cầm hả?
Cô bé im lặng một lúc trước khi trả lời. Đã nhiều lần cô bé thể hiện vẻ giữ kẻ như vậy trong đêm nay, như thể luôn e sợ mình sẽ mắc lỗi vụng về hoặc để lộ quá nhiều bí mật.
- Không, cháu chơi vĩ cầm. Cháu rất mê nhạc.
- Thế ở trường mọi chuyện đều ổn chứ? Cháu học lớp mấy rồi?
- Đủ rồi, đừng nghĩ chú ép được cháu phải nói chuyện đấy nhé.
- Vụ dạt nhà lần này là để chứng tỏ cái gì vậy?
- Lần này thì chú làm cháu bực mình rồi đấy, cô bé đáp rồi lại vùi đầu vào mấy tờ báo.
°
23 giờ
Alice đã ngủ thiếp đi được hai giờ đồng hồ, nhưng khi xe đi ngang qua Beaune thì cô bé tỉnh dậy, chúng tôi vẫn đang di chuyển trên xa lộ A6 thẳng hướng Lyon.
- Lễ an táng bố chú dự kiến vào ngày nào ạ?cô bé vừa hỏi vừa dụi mắt.
- Ngày kia.
- Làm sao mà bố chú mất?
- Chú không rõ.
Cô bé nhìn tôi vẻ lạ lẫm.
- Chú và ông ấy không nói chuyện với nhau mười lăm năm nay rồi, tôi nói lấp lửng.
Nhưng vì cảm thấy mình chẳng có lỗi gì trong chuyện này, tôi thổ lộ thêm chút ít:
- Bố chú có một nhà hàng mang tên Nữ kỵ sĩ, một nhà hàng hết sức tầm thường ở quảng trường Tự do vùng Auch. Cả đời mình ông hằng mơ có được một ngôi sao trong bảng xếp hạng của Cẩm nang Michelin, nhưng ước mơ đó chưa bao giờ thành hiện thực.
Tôi vượt một dãy xe trước khi kể tiếp:
- Mùa hè năm mười bốn tuổi, chú ra làm phụ bếp cho nhà hàng. Buổi tối, sau giờ phục vụ, chú ở lại trong bếp để thử nghiệm những ý tưởng riêng. Cứ như vậy chú tạo ra được ba món chính và hai món tráng miệng, bố chú nghe bếp phó của mình thuyết phục nên cũng muốn đưa thêm những món đó vào thực đơn nhà hàng. Rồi nhờ người nọ rỉ tai người kia mà người ta nhanh chóng kéo đến nhà hàng chỉ để thưởng thức các món mới. Các món do chú tạo ra. Bố chú không thích trở thành cái bóng của chú. Đến kỳ khai giảng, để đẩy chú đi xa, ông đăng ký cho chú học một trường nội trú ở Sophia-Antipolis tận miền Đông Nam nước Pháp.
- Tàn nhẫn quá…
- Ừ! Và trong những tháng tiếp theo, Michelin đã gắn một sao cho nhà hàng của gia đình chú, nêu đích danh các món mới của nhà hàng! Bố chú giận chú không để đâu cho hết, như thể chú đã phá hỏng cái ngày đẹp đẽ nhất đời ông vậy.
- Ngốc thật!
- Đấy là bước đầu tiên trong quá trình tuyệt giao giữa chú và ông ấy.
Cô bé nhặt tờ Time Out New York đang rơi dưới chân lên rồi chỉ cho tôi thấy một đoạn trong bài báo được cô bé khoanh tròn.
- Còn chuyện này là thật hay người ta thêu dệt nên?
- Cháu thấy chú còn mắt nào mà đọc báo trong khi đang cầm lái thế này à…
- Họ nói là chú đã quyến rũ được vợ mình nhờ món bánh hạnh nhân!
- Đó là lối nói đã rút gọn tối đa rồi, tôi mỉm cười giải thích.
- Kể cho cháu nghe đi!
- Thời đó, Francesca vừa kết hôn với một chủ ngân hàng. Cô ấy đang nghỉ tuần trăng mật tại Coote d’ Azur, đúng khách sạn nơi chú làm việc. Chú phải lòng cô ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên, giống như người ta nhiễm một loại virus vậy. Tối hôm đó, chú gặp lại cô ấy trên bãi biển, không đi cùng chồng. Cô ấy vừa dạo bước dọc triền sóng vừa hút thuốc. Chú hỏi cô ấy thích món tráng miệng nào nhất. Cô ấy bảo thích món cơm sữa vị va ni do bà cô ấy nấu cho…
- Rồi sau đó?
- Chú dành cả đêm để gọi điện sang Mỹ. Chú phải gặp bà cô ấy qua điện thoại để biết được công thức chính xác của món tráng miệng, đến hôm sau, chú miệt mài cả ngày trời để tạo ra món bánh tráng hạnh nhân vị cơm sữa. Chú làm khoảng chục cái rồi tặng cô ấy. Những lời thêu dệt làm nốt phấn việc còn lại.
- Khá đẳng cấp, cô bé thừa nhần.
- Cảm ơn cháu.
- Thực ra chú có nét giống Schumann đấy, cô bé đùa. Để làm đẹp lòng người mình yêu, ông viết cho nàng những bản concerto. Còn chú lại sáng tạo riêng cho người mình yêu một loại bánh hạnh nhân!
°
Chalon-sur-Saône, Tournus, Mâcon… đến nửa đêm thì một tấm biển chỉ dẫn hienj ra trước mắt chúng tôi: "Lyon: 60km".
- Happy New Year, Alice nói.
- Chúc mừng năm mới, tôi đáp.
- Cháu đói bụng quá…
- Chú cũng vậy. Gặp trạm dừng nào đó ta sẽ dừng lại để mua bánh sandwich.
- Bánh sandwich! cô bé thốt lên. Cháu ăn mừng năm mới cùng đầu bếp vĩ đại nhất thế giới vậy mà người ấy lại muốn cháu xơi mấy cái bánh sandwich khốn khổ gói trong màng bọc thực phẩm cơ đấy!
Lần đầu tiên kể từ một tuần qua, tôi cười phá lên. Cô bé này cũng biết đùa đấy chứ.
- Cháu muốn chúng ta làm gì bây giờ? Chú không thể nấu cho cháu món gì đó trong xe này được.
- Ta dừng lại đâu đó chăng?
Quả là cả hai chúng tôi đã mệt lử sau khi ngồi xe một mạch bốn trăm năm mươi cây số.
- Cháu có lý, chúng ta xứng đáng được nghỉ ngơi một chút.
Hai mươi phút sau, tôi rẽ ở lối ra "Ga Perrache" để lái tiếp về phía trung tâm thành phố rồi dừng trên một chỗ đỗ dành cho xe giao hàng.
- Đi theo chú.
Bất chấp cái lạnh tê tái, thành phố vẫn náo nhiệt: âm nhạc, pháo, các nhóm hề xiếc, những gã say gào rống lên mấy bài hát tục tĩu…
- Cháu chưa bao giờ thích ngày Tất niên, Alice nói rồi kéo phéc mơ tuya áo khoác lên kín cổ.
- Chú cũng không.
Đã lâu lắm rồi tôi không đặt chân đến Lyon. Năm mười bảy tuổi tôi đã có ba tháng làm phụ bếp trong một nhà hàng gần nhà hát Opéra, nằm ở góc giao giữa phố Longue và phố Pleney.
- Đóng cửa rồi, Alice nhận xét khi đi tới trước nhà hàng Nĩa bên trái.
- Nói cho đúng, đó chính là điều chú hi vọng. Từ thời chú còn làm việc tại đay, ông chủ đã bỏ qua các bữa tối Giáng sinh và năm mới rồi.
Đầu phố có một con ngõ nhỏ thông chéo ra phố Plâtre. Giữa con đường lát gạch, tôi biết có một cánh cửa con dẫn ra khoảng sân trong thông với bếp. Dĩ nhiên là cửa khóa, nhưng đêm đó, tôi đã phạm pháp nhiều lần, đủ để không quan tâm đến chi tiết này nữa.
°
Căn bếp của nhà hàng khá hiện đại, cực kỳ sạch sẽ và ngăn nắp.
- Chú chắc là không có chuông báo động đấy chứ? Alice hỏi sau khi quan sát với vẻ lo lắng ô kính cửa sổ tôi vừa đập vỡ.
- Nghe này, chú không chắc chắn được điều gì, nhưng nếu chuyện đó khiến cháu sợ quá thì cháu có thể quay ra xe. Cháu có quyền nhát gan mà.
- Không, cháu có sợ đâu! Cô bé chối phăng.
- Bởi lẽ dù thế nào thì chính cháu mới là người nằng nặc đòi chú nấu cho món gì đó…
Cô bé nhìn tôi thách thức.
- OK, cháu phụ trách món mì spaghetti còn chú chuẩn bị món bánh hạnh nhân, được chứ?
- Bánh hạnh nhân ư? Không, không thể được. Chú cần ít nhất hai mươi tư giờ để làm bánh hạnh nhân đúng nghĩa. Nếu không để trong tủ lạnh qua đêm thì bánh…
- Rồi, cháu đã hiểu: chú đang mất nhuệ khí.
Nhận xét của cô bé làm tôi chạm tự ái:
- Cháu muốn nghĩ sao cũng được. Cháu định làm spaghetti như thế nào?
- Sốt Pesto, cô bé đáp rồi mở một ngăn đá ra. Trong tủ đông có húng quế tươi.
Cô bé bắt đầu thu thập nguyên liệu và tôi cũng làm công việc đó trong lúc chờ lò nóng lên.
- Đưa cho chú cái thố đít gà nào! Tôi chỉ vào cái cát trộn xa lát bằng inox.
Cụm từ tôi dùng làm cô bé phì cười. Nụ cười của cô bé vừa hiếm hoi vừa xinh xắn.
Tôi rây đường, bột hạnh nhân và ca cao vào trong thố. Cô bé ngâm húng quế vào nước ấm rồi ngắt bỏ cành, lấy khăn thấm khô từng lá.
- Pho mát Grana Padano hay Parmigiano Reggiano nhỉ? cô bé phân vân.
- Parmigiano đi! Tại sao cháu bỏ nhà đi? Tôi bất ngờ hỏi trong lúc quan sát cô bé nạo pho mát.
- Cháu… Cháu có anh bạn trai người Paris quen trong một chuyến đi dã ngoại tới Pháp do nhà trường tổ chức. Cháu muốn gặp anh ấy mà bố mẹ cháu không đồng ý.
Vẻ không được tự nhiên, cô bé mất một lúc mới trả lời được vì còn phải cân nhắc từ ngữ, gãi mũi gãi cằm, tránh nhìn vào mắt tôi. Chừng ấy dấu hiệu khiến tôi ngờ rằng cô bé đang nói dối.
- Cả hai chú cháu mình đều biết sự thật không phải vậy, đúng không nào?
Ánh mắt cô bé bấu víu ánh mắt tôi như van xin tôi đừng tìm hiểu thêm.
Tôi quay lại với món mình đang làm dở, rắc hỗn hợp có ca cao xuống lòng trắng trứng đã đánh bông trong khi cô bé cho pho mát, húng quế, hạt thông, tỏi và dầu ô liu vào bát trộn.
Khi bột đã quyện sánh, tôi dùng đầu nặn chuyên dụng tạo ra những khoanh bột tròn.
Cô bé nếm thử hỗn hợp trong bát, nêm muối, tiêu, cho thêm dầu rồi tiếp tục trộn cho đến khi có được thứ nước sốt loãng vừa phải.
- Ai dạy cháu làm như vậy?
- Cháu tự học thôi, cô bé đáp như thể đó là lẽ hiển nhiên.
Trong khi chờ cho vỏ bánh cứng lại, tôi quay sang hỗn hợp sô cô la lỏng và kem tươi, còn cô bé thì chần mì spaghetti làm từ lúa mì nguyên cám vào nước sôi.
Tôi tìm thấy trong tủ tường một hộp sô cô la đen không đến nỗi nào. Trong lúc tôi thái vụn ba thanh để làm món kem trộn kia, Alice đã nhai rau ráu một khoanh vuông.
- Thứ này phải để nhiều giờ trong tủ lạnh thì mới sánh được.
Tôi nhìn đồng hồ. Bấy giờ đã gần hai giờ sáng. Tôi cho bánh hạnh nhân vào lò rồi chỉnh ngay nhiệt độ lò cho thấp xuống.
- Chú chưa kể cháu nghe tại sao chú vừa đóng cửa nhà hàng và tống khứ tất cả mọi người đâu nhé, cô bé đưa ra nhận xét trong lúc tự rót cho mình một cốc sữa.
- Chuyện phức tạp lắm, cháu không hiểu được đâu…
Tức khắc, tôi nghĩ đến lũ kền kền ở Win Entertainment. Tôi đã buộc phải bán toàn bộ cổ phiếu cho chúng để thoát cảnh phá sản và bị chúng truất quyền sở hữu đối với tên tuổi và tác phẩm của mình. Từ giờ trở đi, tất cả các nhà hàng thuộc tập đoàn đó đều có quyền đưa những món do tôi sáng tạo vào thực đơn. Cả một đời sáng tạo bị lũ con buôn đánh cắp không chút ngại ngần. Thất bại của một cuộc phiêu lưu mà tôi đã dồn toàn bộ tâm sức từ năm mười sáu tuổi…
--------------------------------
1 Tiếng Anh trong nguyên bản: Để trốn đám cảnh sát khốn kiếp ấy.
Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Cuộc Gọi Từ Thiên Thần - Guillaume Musso Cuộc Gọi Từ Thiên Thần