Số lần đọc/download: 178 / 17
Cập nhật: 2020-06-05 02:27:21 +0700
Chương 21
T
ùng tùng! Tùng... Tùng tùng! Tùng!
Tiếng trống đột ngột nổi lên, rồi kéo dài, tiếng trước chưa kịp âm vang, tiếng sau đã bật dậy, tiếp nối, đập vào vách đá, truyền lan suốt triền núi U Sung xanh mờ.
Ngồi trong căn nhà dài, những người họ Bàn nghe thấy quả tim mình đập cũng như tiếng trống, rộn rực và thiêng liêng quá. Bốn hồi trống vang vừa rồi là trống mời các chư vị thánh thần về chứng giám. Tiếng trống cuối cùng vừa dứt, ông cụ Tả liền đứng dậy, trịnh trọng thả bộ tranh Tam Thanh vẽ ba vị thánh thiêng vốn chỉ treo những ngày lễ trọng của dân tộc, dòng họ.
Thả xong tranh, đốt mấy nén hương cắm vào hồng lầu, ông cụ Tả mới quay lại nhìn đám người đang ngồi trên sạp, cặp mắt thật trang nghiêm, sắc lạnh:
- Các con cháu à! Ngày xưa, có một thời trên mặt đất có mười hai mặt trời tranh nhau rọi nắng xuống trần gian. Người trần gian sống khổ quá, cả ngày cả đêm nóng như nung trong lò. Cây cối muôn loài đều chết khô. Có một người Dao ta vô cùng tài giỏi thấy vậy liền đem nỏ lên núi cao nhắm bắn mặt trời. Bắn một ngày rơi mười một cái! Nay, đất nước ta cũng như hồi ấy. Tây đồn, lí trưởng, tổng đoàn, tri châu... là những mặt trời hung ác. Ta phải bắn rụng hết chúng đi. Bắn hết chúng đi để hạt thóc trên nương, củ mài ở trên rừng tự biết đường tìm về nhà. Bắn hết chúng đi, để đời ta sung sướng...
Ông cụ ngừng lại, chừng như để nén xúc động, rồi nắm lấy cây mác gác cạnh hồng lầu, giơ cao:
- Nào, các con cháu, sửa soạn xong chưa? Nhất hô phải bách ứng! Đi!
Căn nhà rùng rùng chuyển động. Một ngọn đuốc bật cháy. Nhiều ngọn đuốc bừng cháy theo. Bấy giờ trong ánh lửa rạng rỡ mới nhìn thấy những gương mặt phấn chấn, những cặp mắt hừng hực niềm vui tranh đấu. Ai cũng mặc quần áo mới và trên cổ áo người nào cũng đeo một lá bùa nhỏ. Riêng các bà, các chị còn có thêm những đồng tiền tròn bằng bạc lấp lánh đính trên khăn đỏ đội đầu. Đó là những vật đã được sầy tỉa Tả phù phép để yểm mệnh.
Sương đêm trắng đục phủ kín rừng vầu. Trời lạnh mà ông cụ Tả thấy người hầm hập như đứng cạnh bếp lửa. Cảm hứng chứa chan, ông cụ lên tiếng hát khe khẽ những câu hát cổ:
Nước ta hiện nay chưa được yên
Ta có công mà không được hưởng
Ta có nhà mà phải khổ sở
Ở trong rừng xanh không nên người
Phải đánh tan quân giặc
Bạc trắng của giặc phải hóa đá
Quân lính giặc phải thành tro, thành lá...
Tả đi sau ông nội, vai đeo một cây nỏ. Cậu lẩm nhẩm hát theo ông, thỉnh thoảng cậu ngoái đầu lại nhìn đoàn người bước âm thầm trong đêm, loang loáng nòng súng kíp, lưỡi dao, ngọn mác.
Đoàn người như mũi tên lao xuống dốc, qua khu ruộng mới gặt, chân chạm lạt sạt vào gốc rạ rồi tiến vào một khu rừng. Trăng đêm tãi ánh sáng lòa nhòa trên cây cỏ. Nghe đâu đây rì rầm rì rầm tiếng người nói và nhìn quanh thấy loáng thoáng bóng người đi lại. Ông cụ Tả trèo lên một tảng đá, đưa mắt lục tìm. Tả leo lên theo ông. Cái vòng cổ sáng một khoanh tròn trên cổ cậu bỗng nảy tung. Cậu nhảy lên, suýt buột miệng reo to. Luùng a! Đông người quá! Và, một bóng người nho nhỏ từ cái đám người đó vừa chạy vụt tới. Cậu ta nhìn cái vòng cổ của Tả. Tả cũng nhìn thấy cái mũ đen tròn tròn trên đầu cậu ta.
- Tả hả?
- Chào Tiển!
Hai người ôm choàng lấy nhau.
Một tốp các bà các chị khăn đội đầu kẽo kẹt gánh những sói mây trĩu nặng bước vào một căn lều dựng bên cạnh hai người. Đi đầu là chị Va, rồi chị Yên, bà cụ Va. Chị Va đặt gánh xuổng hỏi một em gái đang lúi húi cạnh hai cái thúng:
- Em Phin, đếm được bao nhiêu cái bánh rồi?
- Em đếm được năm mươi cái bánh ót, sáu mươi cái bánh tẻ, hơn bảy chục ống cơm lam ạ.
Bà cụ Va gác đòn gánh lên nóc lều, quay lại nhìn ra bãi gianh, reo thầm:
- Phạ ơi! Các con bộ đội! Các con bộ đội đã về!
Bộ đội! Các anh bộ đội! Từ lúc biết tin bộ đội đã vào U Sung, Tiển chỉ mong chóng đến ngày được gặp các anh. Tả thì quen các anh bộ đội rồi. U Sung là nơi giấu quân tốt nhất nên cách đây ba ngày, đã có cả một trung đội các anh vào đây. Thoáng cái, Tả đã quen thân với anh trung đội trưởng và dẫn anh đi xem xét đường đi lối lại trong thôn.
Nghe thấy tiếng chân người đạp rạp rạp trên cỏ, Tả chạy ra reo khe khẽ: “Anh Trần Hòa!” Người tên Trần Hòa cao lớn, mặc áo va- rơi, đeo cây kiếm dài, đầu đội mũ sắt, trông thật oai vệ. Mọi người ở trong lều dồn cả ra ngoài lều.
- Chào các đồng chí!
Giọng miền Trung, Trần Hòa niềm nở, bước tới bắt tay Cắm, Va, Yên và cúi đầu chào bà cụ. Khuôn mặt anh vuông vức, rắn rỏi, hàm răng trắng đều, lấm chấm hàng râu quai nón chạy dài trên đôi gò má cao. Thấy Tả, anh giơ tay lên vành mũ sắt:
- Chào em. Xuống hồi mô rứa đó, Tả?
- Em đi cùng ông em và mọi người!
Phin đứng cạnh cái cột lều, nghe tiếng anh Cắm gọi, vừa bước ra ngoài, liền sững lại. Từ trong đoàn bộ đội, một bóng người bé nhỏ loắt choắt bước ra. Phin rùng mình, em tưởng mình như đang nằm mơ. Mà đâu có phải là mơ. Cặp mắt bồ câu của em mâng mâng. Dưới vành mũ nan, khuôn mặt đen sắt của anh bộ đội đứng trước mắt em bỗng sáng bừng. Anh giơ đôi tay. Phin bổ choàng vào lòng anh, nức nở:
- Anh Lẳng! Anh Lẳng!
Lẳng ôm em gái, nước mắt giàn giụa, nghẹn ngào:
- Anh đây! Anh đã về với em đây, Phin à.
Mọi người vây tròn lấy hai anh em. Bà cụ Va mếu máo sụt sịt:
- Thôi, thế là anh em gặp nhau rồi. Ơn đức Cụ Hồ dày nặng thế đấy, các con ạ.
- Hồi ấy, phá xong hai cái cối ngàn của chúng rồi anh đi đâu? - Một người hỏi.
- Đừng bắt kể cái đoạn trước nhé. - Lẳng cười hềnh hệch. - Phá hai cái cối của chúng xong, tôi ra sông Hồng thả mảng qua châu Bảo Trang thì gặp bộ đội Trần Hòa.
- Trông phổng phao quá rồi đấy!
- Ha ha...
Giữa lúc ấy, một anh bộ đội đeo khẩu các bin[93] gạt cỏ gianh đi thẳng tới, đứng lại trước mặt Va. Một vạt tóc loăn xoăn xoã trên trán. Hai con mắt to quá cỡ có cái nhìn bạo dạn và tinh quái dưới vành mũ nan bọc vải dù của anh đọng lại trên mặt chị, trong khi miệng anh mủm mỉm cái cười bí hiểm và nghịch ngựm. Rồi bất ngờ, anh bỏ mũ, như để ánh trăng soi rõ khuôn mặt đẹp trai, láu lỉnh cùng vóc hình mảnh mai của mình trong cái áo bu dông Mĩ rộng thùng thình:
- Chị Va! Chị còn nhớ tôi không?
Như một tia chớp chợt lóe sáng trước mắt, Va ôm hai má, kêu to kinh ngạc:
- Anh Kim! Anh Kim!
- Tôi, chính mỗ là Kim đây, chị Va ơi!
o O o
Người từ các thôn như nước từ các khe dồn về, tụ lại mỗi lúc một đông trên bãi gianh.
Tố, Cắm và trung đội trưởng Trần Hòa ngồi họp trong một túp lều cạnh con suối. Ngoài kia, trong ánh trăng mờ, những khối người xanh đen màu chàm, lấm rầm chuyển động.
>
- Kế hoạch của chúng tôi là cử một tốp thanh niên, cùng cai Sẩu chiều nay cứu đồng chí Sào. Sau đó, anh em dõng ở bốt Cối Ngàn sẽ đem súng về với bà con tham gia võ trang tranh đấu. - Tố nhìn Trần Hòa, nói.
Vừa lúc ấy có tiếng Tiển nói ở ngoài lều: “Các anh ấy ở trong này.” Tố đứng dậy thì thấy cai Sẩu, theo sau là hơn chục người dõng đang hấp tấp bước vào, súng đeo vai, ngọn súng xuống đất. Nhận ra Tố, người cai dõng đứng lại, vẻ mặt bơ phờ, mệt mỏi:
- Chúng tôi về đây đủ cả, mười tám anh em...
Sẩu trân trân nhìn Tố, Tố chờ đợi. Một phút trôi qua. Bỗng người cai dõng đưa hai tay ấp vào mặt, ngồi thụp xuống, nức nở:
- Các anh ơi. Chúng nó giết anh Sào rồi!
- Trời!
- Chúng nó giết anh Sào rồi!
Tố như sụt xuống một cái hố sâu thẳm. Anh đứng lặng, hai gò má lạnh toát như băng.
- Tôi và anh Mòn tới thì chúng vừa đưa anh Sào đi. Những người dõng ở đấy nói: Bọn mật thám Tây đánh anh ấy dã man lắm. Anh ấy nhất định không khai một lời. Cuối cùng chúng cắt cả hai gân chân anh. Anh vẫn không khai. Chúng kéo anh ra cầu Cốc Lếu ở tỉnh lị bắn anh. Phạ ơi! - Sẩu gục đầu trên gối, thống thiết. - Tôi giác ngộ chậm quá! Tôi ngu si quá. Sao tôi lại cắn răng chịu đựng lầu thế! Tôi có mắt mà như mù. Tôi có óc mà óc tôi bằng đất, các anh ơi.
Tiển ôm cái cột lều, nấc lên từng hồi. Phin đứng cạnh Tiển, vừa chùi nước mắt vừa mếu máo.
o O o
Đã đến giờ khai mạc cuộc mít tinh. Tố bước tới trước khối quần chúng hơn nghìn con người đã chỉnh tề đội ngũ.
- Thưa đồng bào, thưa các đồng chí. - Đứng trên một mô đất cao, gió thổi tung mái tóc, giọng Tố lạc đi xa lắc. - Đồng chí Sào không còn nữa...
Nghẹn lời, anh dừng lại, cầm khăn tay lau nước mắt vừa tràn ra khỏi vành mi. Bao nhiêu kỉ niệm về người đồng chí trung kiên, cả một cuộc đời trai trẻ đã sống vì nghĩa lớn, vì tình yêu thương đồng loại lại hiện về trước mắt anh. Chớp chớp mắt, anh cố ghìm giữ nỗi đau. Cả một khối lớn đồng bào, đồng chí đang xôn xao trước mặt anh. Chao! Mới ngày nào anh vượt phòng tuyến địch về đây, cách mạng mới chỉ như một đốm lửa nhỏ, mới chỉ là vài đồng chí như Sào, mà nay cách mạng đã là một ngọn lửa lớn, là lực lượng đông đảo cả trăm, ngàn đồng chí đồng bào...
- Đồng chí Sào đã anh dũng hi sinh vì chúng ta! Đồng chí Sào tình nguyện ở lại trong ngục tù của địch để thu hút sự chú ý của chúng, để giữ bí mật đến cùng cho cuộc võ trang đấu tranh của chúng ta! - Giọng Tố vang lên uất nghẹn và hào hùng. - Gương sáng của đồng chí Sào, chúng ta nguyện noi theo. Đêm nay, chúng ta đồng lòng quật khởi, đứng dậy tranh đấu để giành lại quyền sống trong độc lập tự do, để trả thù cho tất cả đồng bào, đồng chí chúng ta, cho đồng chí Sào. Chúng ta quyết không lùi bước. Võ trang tranh đấu thì chỉ có tiến! Chỉ có tiến!
Cả khối người, nếu không phải giữ bí mật thì đã nhảy lên, thét vang một góc trời. Đứng ngoài cùng, bộ đội xếp thành một khối chữ nhật, loang loáng bóng mũ sắt, nòng súng thép. Đội du kích xã đứng giữa, đồng loạt chít khăn chàm, chăn đỏ quàng chéo ngực, vai đeo súng kíp hoặc mã tấu, đinh ba, tay cầm dao phát dao quắm, giần giật như ngọn lửa cháy. Khối các đoàn thể phụ lão, phụ nữ đứng ở cánh trái, gậy gộc tua tủa, tù và cầm tay, nôn nao vẻ sốt ruột.
Tố đã nói xong, Cắm nhanh nhẹn bước lên mô đất. Vai đeo khẩu mút- cơ- tông[94] ngắn, bụng thắt bao đạn da, trông anh hơi là lạ. Hai con mắt sáng lấp lánh trong hốc mắt sâu hút, trong tư thế đứng thật chững chạc, vung mạnh cánh tay trái, anh dằn từng câu:
- Thưa bại pì noọng! Thưa bà con. Đã yêu cách mạng thì nước đầy bờ, ngập bãi cũng bơi. Thưa bại pì noọng, từ cuộc quật khởi này, sông phải đổi dòng, núi phải vươn vai. Thưa bại pì noọng! Quê hương Cam Đồng ta đẹp và giàu lắm. Chúng ta có đồng lúa tốt. Có rừng gỗ quý. Có suối nhiều cá. Có những con người bất khuất kiên cường. Nếu không có những kẻ độc ác thống trị đè đầu cưỡi cổ chúng ta, thì quê hương ta còn tươi đẹp, còn đáng yêu đáng quý biết chừng nào. Vì vậy, tôi thay mặt cách mạng và kháng chiến, tuyên bố, từ nay, chính quyền đã thuộc về tay nhân dân các dân tộc chúng ta! Chúng tôi xin giới thiệu các vị trong ủy ban Kháng chiến Hành chính lâm thời xã Cam Đồng...
Cảm hứng từ những lời nói gan ruột của Cắm đã truyền đến con tim mỗi người. Rõ ràng là từ một hạt nhân đầu tiên của cách mạng, giờ đây, Cắm đã trưởng thành, trở thành một cán bộ chủ chốt của phong trào, kể từ phong cách đến lời ăn tiếng nói. Vừa reo hò, người ta vừa chen lấn, kiễng chân, nghển cổ, cố nhìn cho rõ mặt từng người trong chính quyền cách mạng: Anh Vương Văn Cắm, chủ tịch; ông cụ Bàn Lao Tả, ông Trần Văn Yểng, hai phó chủ tịch; anh Sầm Văn Mòn, xã đội trưởng; chị Hoàng Thị Va, bí thư phụ nữ...
Cuộc mít tinh kết thúc. Khối quần chúng tản về các lán bí mật họp theo từng đoàn thể. Ông Yểng ngồi trong lều gianh, nỗi đau đọng cứng trong lòng như băng giá. Ông cụ Tả nhìn người bạn già, xót xa:
- Anh à! Tôi cũng thương và quý Sào như anh. Chia buồn với anh mà lòng tôi cũng xót đau lắm anh à!
Vầng trán dô của ông Yểng im phăng phắc. Ông thoáng nghĩ tới câu chuyện Trần Chu - Quyền Vương bữa nào ông nói cho Sào nghe. Trên nấm mộ người đã mất, có cái cây nở trăm hoa, hoa nở thành gang, thành thép. Chuyện xưa sao linh ứng với hôm nay!
Ở một góc lán, Tố đang bàn bạc với các đồng chí trong ban chỉ huy:
- Trung đội Trần Hòa sẽ đánh đồn Brusex. Ta sẽ có một tiểu đội du kích phối hợp. Còn phần diệt tề thì như kế hoạch đã bàn: Tập trung diệt lí Tăm và tổng đoàn Ngao. Hai tên tề ác này, tỉnh đã quyết định cho bắt và đưa về Khu.
- Cho tôi diệt lí Tăm! - Mòn giơ tay.
Cắm lưỡng lự:
- Xã đội trưởng phải đi với tiểu đội du kích phối hợp đánh đồn chứ?
- Tôi quen địa thế làng Giềng. Bắt xong nó, tôi sẽ đi đánh đồn.
- Được đấy! - Tố tiếp. - Mũi diệt tổng đoàn Ngao thì…
- Tôi! - Cắm nhổm dậy.
Tố lắc đầu:
- Bí thư, chủ tịch phải phụ trách chung chứ.
- A rồi! Anh phụ trách chung hộ tôi.
- Không được. Để tôi và anh Sẩu cùng mấy anh em dõng mới về đảm nhiệm việc này.
Từ ngoài bãi gianh, có hai bóng người lom khom bước vào lều. Trung đội trưởng Trần Hòa đeo kiếm, nai nịt gọn gàng bước tới cạnh Tố. Lẳng đi sau Trần Hòa, bỏ mũ ôm trong lòng, ngồi xuống cạnh Mòn:
- Ông Hòa cho tớ về cùng cậu diệt lí Tăm.
- Hay quá!
Trần Hòa nhấc tay trái xem đồng hồ, đột ngột hỏi:
- Em Tiển là em nào đấy, anh Tố? Chú này làm bộ đội trinh sát được đấy. Cái bản đồ nó vẽ đúng như tài liệu trinh sát. Kiểu phòng ngự mới của chúng đấy!
Nghe thấy nói tới mình, Tiển quay lại.
- Tiển đấy hả? - Trần Hòa nắm tay em. - Anh có biết việc anh Sào của em hi sinh.
- Anh cho em đi bộ đội với nhé!
- Chuyện ấy khoan đã. Bây giờ em nói lại về cái đồn Tây cho các anh nghe. Đi lên chỗ các anh đi.
Trong lều, những người tham gia diệt tề đã đứng cả dậy, xách súng đi ra. Tố nghển lên gọi, giọng đầy yêu thương:
- Tiển! Em cầm khẩu xanh- tê- chiên[95] của anh mà dùng.