Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 21
T
rong mấy năm gần đây một số nhà mới đã được xây dựng dọc theo đường cái ở Durilgai, nơi gia đình Parker vẫn luôn sinh sống. Đó là một ít những ngôi nhà có lợp ván tấm độc đáo, mà cảnh quan đã chiếm lĩnh và dường như đã bị dồn về phía sau bởi những phát triển mới. Các căn nhà gỗ đứng đó, giữa đám cây lá mù mịt, giống như các ốc đảo trong sa mạc. Chúng đang trong quá trình bị lãng quên, sụp đổ, và cuối cùng sẽ bị quét sạch cùng với hài cốt những ai đã sống lay lắt trong đó, những người dẫu sao chẳng chút quan trọng, chẳng còn chút hy vọng hoặc đã già cỗi. Nếu linh hồn của các căn nhà tranh cũ kỹ này quấy rầy, đơn giản chỉ cần đóng cửa sổ lại và mở máy thu thanh là có thể xua đuổi cái cảm giác khó chịu đó ra khỏi các biệt thự bằng gạch ngói. Các ngôi nhà gạch cố nhiên đều có chủ. Màu đỏ tía, xanh xi măng, tiết bò, và hố xí công cộng. Ở đây các lễ tiết của gia đình được cử hành, không còn nhớ vì sao, với một sự chính thống nhiệt thành, quy củ, và có một lần vật hiến tế được dâng lên, bị điện giật, bằng máy hút bụi, vào một buổi mai nóng bức, khi các hàng cây hoa ngũ sắc sực mùi mèo.
Có những căn nhà gỗ cũ kỹ chẳng bõ công để ý, có những ngôi nhà gạch không thấm nước. Cũng còn có một loại nữa, khiến cho nhiều người căm giận, và người ta hy vọng Hội đồng quận sẽ xét lại chính sách này. Có những ngôi nhà làm bằng fibro-xi măng. Những nhà này được tìm thấy ở khu đất trồi lên, thuộc một tầng lớp khác. Dĩ nhiên họ kéo dài được tý nào thì hay tý ấy. Nhưng được bao lâu? Trong khi đó con người vẫn tiếp tục sống bên trong đấy. Những cặp vợ chồng trẻ khóa cửa lại và từ giã những ngôi nhà của họ, như thể chúng không mở. Một đứa trẻ đã đá thủng một lỗ ở tường, để nghịch. Và ban đêm các ngôi nhà bằng fibro-xi măng dậy lên âm thanh, thay hình đổi dạng dưới sức ép của tình yêu hay nỗ lực, biến đổi và trở lại, đứng chơi vơi dưới ánh trăng, hòa tan trong những giấc mơ.
Tất cả mọi ảnh hưởng của những điều đang diễn ra chung quanh họ không tác động gì đến vợ chồng Parker. Chúng không tác động đến họ bởi họ đã đến cái tuổi mà mọi sự xảy ra rõ ràng lại khó mà tin được. Những sự kiện của dĩ vãng trong sự hồi tưởng sẽ làm vỡ gạch và tung các mảnh ra. Cái gì vẫn còn xảy ra phải trôi song song, chứ không cùng một dòng. Cái mà chúng tác động rõ rệt hơn đối với những người già này là tài sản của họ đã bị phân tán và bán đi phần nhiều.
Điều này xảy ra không lâu sau khi ông Parker bị bệnh. Những con bò chẳng thể làm xiêu lòng ai đứng trong buổi chiều êm dịu hoặc những buổi sớm mai, cọ cổ vào các cột màu xám. Người đàn ông tiếp tục đi xuống như thường lệ, nhưng xơ cứng hơn trước, thỉnh thoảng thấy nhói dưới da khiến ông bất giác mỉm cười, còn người vợ, đôi chân gây phiền hà, cùng hai mông hơi phát tướng, đã già và hằn học; bà bám vào đàn bò như một động cơ để tồn tại, không dám thay cái khác. Giống như nhiều người già sắp kết thúc cuộc đời, họ không thể tự điều chỉnh bản thân, họ sợ phải ngã gục. Thế là họ tiếp tục lê bước. Cũng là chuyện vắt sữa bằng tay. Ông Parker một mực không chịu sắm máy vì theo ông biết, chúng không tốt cho núm vú bò. Cánh thanh niên cười nhạo lão Parker, người dù sao chỉ có một nhúm bò trong cái vùng trên thực tế đã trở thành ngoại ô. Đối với đa số người, việc họ không nghĩ đến chuyện đó chẳng quan trọng tí nào. Nhưng rõ ràng là phải làm một việc gì đấy.
Thế rồi bà Forsdyke, con gái của họ, lái xe riêng về thăm: vợ chồng Forsdyke có hai xe. Phần lớn mọi người không hề biết bà Forsdyke, hoặc giả có biết thì đã quên đó là Thelly Parker. Những kẻ có thể còn nhớ thì bà cũng không khuyến khích, vừa nheo mắt cho đến lúc làn da hầu như làm mờ lương tâm của bà. Những kẻ không hề quen biết, bà chẳng thiết, và lướt qua trong chiếc xe đen rất êm, nhanh chóng bỏ lại đằng sau tất cả những gì tầm thường hay không tao nhã.
Ông bố đang đợi con gái đến. Mí mắt và cổ tay ông hơi nhăn nheo, nhưng răng còn khỏe và tốt. Ông cụ mỉm cười với con gái.
- Có chuyện gì thế, Thel?
Bởi vì bà Forsdyke trước đó có gửi một lá thư nói là bà có điều mong muốn được bàn. Bà thích dùng động từ đó, vì nó kín đáo nhưng mạnh mẽ.
- Ồ, - bà cười vang, nhìn ông cụ, thích thú về mối quan hệ xa xôi với một ông già giản dị, đồng thời, một cách kín đáo, là bố bà. - Có một kế hoạch nhỏ thôi. Con hy vọng bố sẽ thích. Không phải vì đó là kế hoạch của con, hoặc giả con muốn ép buộc một điều gì, nhưng làm như thế rất có lý. Dudley đã tán thành.
Bà Forsdyke thuộc loại phụ nữ thường hay vin vào chồng mỗi khi họ ngại có sự chống đối.
- Nom bố hơi mệt đấy. - Bà vừa nói vừa bước ra khỏi xe và tiến đến cạnh bố.
Bà cũng hôn bố. Khi bản thân mệt lử, bà thường mong muốn người khác cũng thế. Nhưng làn da bố bà vẫn còn sức sống, bà nhận thấy rõ, bà đỏ mặt, hết mức máu bà có thể làm. Bà là một phụ nữ mảnh mai, song không đến nỗi yếu đuối, xách một chiếc túi da cá sấu.
- Bố không mệt hơn mọi khi, - Ông cụ nói.
- Không phải đâu, bố ạ, - Người con gái nói, vừa gỡ mấy con ốc sên ở bụi cây ra và dùng giày dí nát. - Nếu bố không mệt thì tức là bố không mệt.
Bà rúm người lại vì mấy con sên, nhưng vẫn quay lại nhìn vì tò mò.
- Bố quá yêu bò nên chẳng bao giờ mệt đâu. - Bà Forsdyke nói.
- Yêu bò thì chẳng thành vấn đề, - ông cụ nói. - Bò rất tốt. Nhưng bố có cưới chúng nó đâu, như người ta vẫn thường nói.
- Trước đây con vẫn thường nghĩ rằng một người đàn ông nhất thiết phải cưới những con bò của mình, - con gái ông nói.
Ông cụ gây ra một tiếng động.
- Nhưng nếu không phải, - Thelma Forsdyke nói, - thế thì dễ rồi.
- Sao, dễ gì?
- Dễ tống khứ chúng vào trong một cái… cái gì nhỉ? Một cái bè. Và ngày hôm sau cứ nằm muộn hơn trên giường, để xem bố có thích thế không, và nếu có thì nằm muộn trên giường ngày hôm sau nữa. Cho đến khi quen với việc ngồi không. Ồ, khi con nói ngồi không, con muốn nói là bố có thể làm theo sở thích riêng. Đấy cái nghề mộc mà bố vẫn làm đó. Hẳn là vui thú lắm. Mùi gỗ mới ngửi rất dễ chịu. Với lại bố xưa nay vẫn chưa hề đi đâu. Được rồi, bố có thể đi với mẹ, tội nghiệp mẹ. Bố mẹ thỉnh thoảng có thể đến với chúng con vào ngày Chủ nhật. Bình thường chúng con rất yên tĩnh. Ngày Chủ nhật mọi người thường ở nhà. Với gia đình họ. Bố không thích thế sao?
Stan Parker không nói là mình thích hay không. Chắc chắn là ông thích ngồi thật lâu ngắm nhìn vết bò của một con sên vừa thoát khỏi một bàn chân. Ông sẽ ngồi, trong thời gian rỗi của mình, nhìn lại con đường của chính ông, nhỏ hẹp và ánh bạc, qua lớp sương mù. Nhưng ông không nói.
Người già dễ tự ái, Thelma sốt ruột nghĩ. Nếu có một đứa trẻ, dĩ nhiên bà không có, bà đã có thể đặt tâm trí mình vào đứa bé, theo dõi nó lớn lên như một cây xoài vươn lên từ cát. Lãng quên thời thơ ấu của mình từ lúc bà thôi không sống nữa, bà chưa hề thất bại trong việc triển khai lý thuyết. Tuy nhiên đứa bé già khụ này có thể rất khó khăn.
Thực ra ông không thế. Ông suy nghĩ, ông đã suy nghĩ về những điều con gái nói. Ông có thể từ bỏ dù chẳng phải vì những lý do đó. Thelma ngốc nghếch, ông nghĩ thầm, bố không khờ dại như vậy, nhưng con bé cũng có lý. Ông có thể từ bỏ tất cả những gì con gái đã gợi ý, thậm chí hơn thế, cả đất đai, thậm chí cả cuộc sống của ông, chỉ đơn thuần vì một lẽ nó chẳng phải là của ông để mà phải giữ. Điều đó đã trở nên quá hiển nhiên.
Ông nom xanh mét, so với bình thường.
- Bố sẽ thấy, - Thelma vừa vỗ nhẹ vào bàn tay bố vừa nói, - những ngày cuối đời bố sẽ cảm thấy dễ chịu hơn biết chừng nào.
Bởi vì ông không kháng cự, lúc đó và sau này, vào cái buổi sáng thụ động kia, nên Thelma bỏ đi, lòng đầy thương xót và tự mãn, thương xót bởi vì ông lão tội nghiệp ngày càng suy yếu, còn tự mãn vì mình là người cố vấn cho cuộc đời của những con người bình dị. Cô vui vẻ lái xe đi, nhầm lẫn giữa phương tiện và quyền lực.
Sau khi Thelma ra về, Stan Parker bước thong thả quanh nhà, bề ngoài hoàn toàn không vì mục đích nào cả, đó là cái ấn tượng mà hoạt động tinh thần vẫn thường gây nên, trong khi sự hòa hợp giữa nội tâm và cảnh vật luôn diễn ra, cảnh quan xâm nhập vào người ông với sự ham mê và cường độ ngày càng tăng, cây cối vây quanh ông và mây vẩn vơ trên đầu ông với xiết bao âu yếm mà ông chưa hề trải nghiệm. Ông dường như có thể sờ được những làn mây. Lúc này, khi lẽ ra ông phải hoàn toàn vô tư thì ông lại cảm thấy bối rối, dùng chiếc gậy nhỏ quất vào ống quần. Bởi vì cảnh tượng này vốn là của ông, lại cũng không phải, thật quá đau lòng. Ông vội cúi xuống ngắm nhìn bầy kiến đang tha một chiếc cánh bướm qua sa mạc sỏi đá. Một hoạt động có ý thức của bầy kiến lao xao. Rồi đột nhiên ông giật chiếc cánh ra. Ông tung nó vào trong nắng, nó chấp chới và lung linh, hồi phục trong không khí, nhưng trong khi nó còn đang chơi vơi và sa xuống, ông bỏ đi, lòng xốn xang vì sự thô bạo của lẽ trời.
Thế rồi chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu bán trang trại của nhà Parker theo từng mảnh. Việc này thực hiện dễ dàng, bởi vì đó là mảnh đất lý tưởng, trong một khu đang được mở mang. Ông cụ không trực tiếp bắt tay vào công việc mua bán, vì đã có người con rể, và tích cực hơn là cô con gái. Ông để cho người khác vận hành cái bộ máy cần thiết nhưng vô nghĩa của giai đoạn này. Điều này khiến những người liên quan hài lòng, sự kính nể và ngoan ngoãn của ông làm nổi bật các năng khiếu ưu việt của họ, và ngay lập tức thái độ cảm tình họ phát triển thành một loại mà người ngoài trông vào sẽ thấy sự tầm thường của ông. Ông lão đáng thương, họ mỉm cười, chẳng có chút đầu óc kinh doanh nào cả. Vì thế họ tìm mọi cách giữ cho ông khỏi bị xem thường bởi bất cứ một ai, thậm chí bởi chính họ.
Khi đất đai đã bán xong, vợ chồng Parker còn lại ba hoặc bốn mẫu gì đó. Một con mương ở sau nhà và một đồng cỏ ở bên cạnh. Họ nuôi một con bò cái có đôi sừng không cân đối, và ông Parker trồng một ít bắp cải vào mùa đông, trong cái luống mà bà vợ ông vẫn đi dạo quanh, mặc một chiếc áo len đã cũ, trong những ngày ấm áp, và cúi xuống nhổ một lá cỏ mọc không đúng chỗ.
Một hôm khi Amy Parker đang đi giữa những luống cải, như thói quen của bà bây giờ, bà cố nhớ lại một điều gì đó. Sự bồn chồn của hồi tưởng bắt đầu xâm chiếm bà. Thế rồi thời thanh xuân của bà bỗng trở lại giữa cái thế giới bắp cải. Bà nghe thấy tiếng xe ngựa đầy ắp bắp cải xanh đi tới, tiếng đai loảng xoảng trong sương muối, khi thò vai ra ngoài cửa sổ nói chuyện với chồng, bà nhớ lại bao nhiêu buổi sáng. Và những hạt giống bắp cải nhỏ ông đã gieo vào đất, vào những lỗ mà ông đã chọc bằng cán mai. Bà nhớ lại hai cánh tay của chồng lao động trong nắng, những sợi lông nhỏ trên cẳng tay và những tĩnh mạch ở cổ tay. Bỗng nhiên bà cảm thấy như mình sẽ không còn nom thấy ông nữa.
Vì thế bà rảo bước dọc các luống cây. Đó là những cái bắp cải to, xanh lục và nổ toác, không giống những cây phù du lung linh trong miền ký ức; bà vội vã đến với chồng, người chẳng bao giờ xa bà, hai người chẳng thể thoát khỏi nhau dẫu có ước mong vậy.
- Tại sao ta không bán một ít bắp cải này đi? - Bà hỏi, giọng gắt gỏng, khi đến chỗ ông đang đào ít khoai tây để cho bữa trà. - Dùng làm sao hết được. Chúng ta đến phát ốm những bắp cải quý hóa này.
- Chẳng bõ, - Stan Parker nói. - Chỉ được vài ba đồng mà phải cất công mang ra chợ.
- Thế thì ta sẽ làm gì với chúng bây giờ? - Bà hỏi, đưa chân đá vào một cái bắp cải sáng và chắc.
Bà đứng lạc lõng giữa đám bắp cải, và có lẽ muốn ông cũng thế.
- Chúng ta sẽ ăn một ít, - ông nói, nhìn xuống đất, bởi vì ít ra bà cũng đã răn đe được ông, - và biếu một ít. Bò có thể ăn khá nhiều. Chúng ta sẽ tính xem còn cách gì khác không.
Thế là họ đứng đấy, những gì vốn là ngọc ngà ngời sáng trên cánh đồng của dĩ vãng hiện tại đã trở thành những tảng cao su vô sỉ lố lăng.
- Thật là công cốc, - ông nói giọng căng thẳng.
Lý giải chuyện ấy theo cách đó.
- Em thích biết lý do của mọi sự. - Bà nói, nhìn chiếc áo choàng len cũ bà đang mặc và tháo một mẩu len bị tung.
Nhưng ông không thể giải thích việc họ tiếp tục cùng tồn tại trên mảnh đất trồng bắp cải, rồi những con chim ác là, những con te te vui nhộn, những con chim nhỏ vô danh bay đến, sà xuống, mổ vào đám đất ẩm ướt, như thể người đàn ông và người đàn bà không có ở đó.
Những người khác, Thelma chẳng hạn, nói rằng khi chẳng biết làm gì thì ông phải làm nghề mộc, đan áo len hay đi chơi chỗ nào đó. Amy Parker, vốn dốt nát, không tin bản thân có một lối thoát khỏi cảnh hoang mang, ngoại trừ phải chung sống cùng nó, mặc dù bà đã từng thử cách khác, bà chế giễu nó, cười cợt cả hai người trong khi vẫn hy vọng, bà nói:
- Tại sao ta không đi đâu đó thử một lần? Ít ra cũng lên thành phố, em muốn nói là đi thăm thú đàng hoàng, trước khi chết. Làm một cái gi đó, ý em là vậy. Ngay cả có thất vọng thì đi mới biết.
Ông chồng thắc mắc không biết sẽ tốn kém bao nhiêu, chắc phải nhiều lắm. Tuy nhiên ông không phải là người bủn xỉn. Ông thận trọng thôi. Và vợ ông cười vang, xấu hổ vì đã gợi ý những chuyện ngớ ngẩn như thế, rồi vui mừng là họ sẽ không đi. Bao nhiêu chuyện rùng rợn đã được hình dung. Chỉ một ngày đi đường cũng đủ làm bà bị táo bón. Họ lo lắng nếu thịt không được đun kỹ. Họ ăn sữa đông của con bò họ nuôi. Do vậy họ không đi.
Rồi bỗng nhiên họ đi lên thành phố. Điều này được quyết định vào một buổi tối. Họ dự định sẽ ở một tuần trong khách sạn phải chăng, Jack Finlayson sẽ phải đến vắt sữa, cho gà ăn. Bàn tay của Stan Parker run lên với quyết định này. Vợ ông đỏ mặt. Máu bà dồn lên mặt, lúc này mồ hôi lấm tấm ở hai thái dương, và bên trên miệng.
- Em sẽ đi ra biển, - bà nói, cười sằng sặc, - và ngồi dưới những cây thông nhìn nước biển tràn vào.
- Làm thế thì lợi gì cho em? - Chồng bà hỏi, làm rơi vãi thuốc lá đang cuốn.
- Anh chẳng bao giờ biết được đâu. - Bà nói, như thể bà biết.
Vì bà chẳng bao giờ thành công trong việc yêu ông hết mức, nên đôi lúc bà làm ông tổn thương. Chỉ có điều là ông chẳng bị tổn thương nữa rồi.
Dẫu sao, hai ông bà già cũng đi. Họ sống một tuần ở một khách sạn bình thường, họ đủ tiền ở một khách sạn khá hơn, nhưng sợ thiên hạ nhìn vào quần áo của mình. Vì thế hai người chọn một khách sạn mà vải lót sàn đã hơi sờn. Họ xin lỗi người thiếu phụ khi mang gửi chìa khóa. Thực ra cũng không hẳn bằng lời nói, chỉ thái độ của họ thôi.
Nhưng cả hai đều hài lòng.
Họ hài lòng là mình vẫn còn sống sót, và đang sống sót. Cặp vợ chồng lịch thiệp đang đi ngoài phố không đi xuống trước những làn sóng vô danh. Họ phát hiện ra là mình vẫn khỏe. Cuộc sống cô đơn của họ có lẽ đã tạo cho họ những chỗ tựa.
Một lần đôi vợ chồng già đang đi ngoài phố vào ban đêm, lắng nghe một máy thu thanh phát ra cái giọng vàng - đỏ hát về cảnh hoàng hôn và sự hy sinh.
- Cô ấy đang hát gì đấy, anh Stan? - Amy Parker hỏi.
- Anh không biết, - ông nói, - nghe như tiếng Tàu.
Rồi họ cười vang. Họ ở tầm cao hơn thế. Một điều huyền bí chẳng còn huyền bí đối với một tâm hồn cự tuyệt, cứ thế còn hơn phơi bày nó ra. Thế là họ đi tiếp.
Thành phố không tĩnh được lâu, họ cũng vậy, nó giống những giấc mơ, chỉ có điều là ít riêng tư hơn. Các động thủy tinh mà hai ông bà già nhìn vào, đặc biệt trong cái đêm màu đỏ tía, đang mở ra cho những người khác. Họ đang mơ giấc mơ của một người nào khác. Bao giờ thì chúng mình sẽ lại nằm xuống? Gương mặt họ hỏi nhau. Giấc mơ đơn sắc của họ, tuy lắm lúc ngột ngạt bởi hận thù hoặc nghẹt thở vì yêu đương, thường đòi hỏi ít hơn.
Một buổi tối Stan bảo sẽ đi xem kịch.
- Vở Hamlet, - ông nói. - Đó là một vở kịch của Shakespeare.
- Thế à? - Vợ ông nói, đối với bà sự táo bạo như thế có phần khả nghi.
Hình như nó cũng soi sáng phần nào con người ẩn kín của chồng bà. Đây là cái điều trong Stan mà mình không thích, bà tự nhủ, mình không thích những điều bí mật. Bởi vì tuy ông sẽ đưa bà đi xem vở kịch ông chọn, bà vẫn cảm thấy mình sẽ không thể chia sẻ được.
Dẫu sao họ vẫn đi. Thỉnh thoảng dừng lại để thở, họ leo lên cao, đến chỗ họ sẽ ít bị chú ý đến, và từ đó họ có thể nhìn xuống qua quả đấm cửa và những bức tượng thiên thần, vào cái sân khấu vàng kim đang sục sôi bởi sự chờ đợi. Tất cả mùi hương và bụi, tiếng cười và không khí nóng dâng lên từ sân khấu như đáy bát, khiến người đàn bà ngồi bên vành ngây ngất. Bà không nhìn được rõ, càng khiến quang cảnh trầm trọng hơn, hoặc huyền diệu hơn. Bà nom thấy một người đàn bà khỏa thân, đúng thế không nhỉ? Trên ngực có một bó hoa violet. Sương mù màu xám bốc lên từ da thịt người ấy, trước khi đọng thành vật thể. Hai người như bị chôn chặt. Thời gian trôi qua và âm nhạc bắt đầu nổi lên từ cái góc nhỏ nơi các nhạc công ngồi, rất nhiều thứ đã trở nên rắn chắc quá không thể bay lên cao được. Ghế ngồi cũng rắn. Có mùi caramen nóng và thuốc sát trùng.
- Đàn bà ăn mặc như thế mà cảm thấy có quần áo trên người ư? - Amy Parker hỏi.
- Nếu họ không cảm thấy có quần áo trên người thì chắc chắn đó là ý định của họ. - Người chồng nói. - Nhưng sắp bắt đầu rồi kìa.
Tấm màn bốc lửa, và khi nó đã cháy trụi, thời thơ ấu của ông hiện ra, duy chỉ các ngôn từ đã mang một hình hài, đang đi đi chạy chạy trong đôi bít tất lụa. Mẹ ông ở đấy, đeo một chiếc nhẫn trên ngón tay thấp khớp, đang chỉ trỏ giải thích. Nhưng vở kịch đôi lúc thoát khỏi những lời giải thích. Nó đi tiếp con đường của mình, như cuộc sống hoặc như những giấc mơ. Ông ngửi thấy được mùi ẩm trong cuốn sách cũ với những miếng vá màu nâu, từ cơn đại hồng thủy nào đó mà bà mẹ đã kể cho ông nghe nhưng ông đã quên. Ông nhớ về Horatio, một người bạn. Một người bạn đồng điệu và cũng nam tính, lớn tuổi hơn ông, điều ông hằng mong ước, nhưng ông đã trải qua suốt thời thơ ấu hầu như chẳng bạn bè, đi qua đám cỏ cao và nằm vắt người trên các cành cây, chờ đợi già đi.
Ông cũng đã từng mặt đối mặt với điều ma quái ở một vài chặng đường đời, tuy chẳng có ai đưa ông ra khỏi đó. Họ không nhìn thấy ông mấp máy đôi môi. Nói với màu xanh lục. Rất nhạt. Chẳng hạn. Thứ đó lướt qua bầu trời cũng chậm chạp và mang nặng tai ương như cái bóng ma vật chất hơn, dành cho Horatio và các bạn của ông. Và lặng lẽ. Đó là điều khiến đàn ông hò hét, nếu họ là loại người hò hét, những Horatio, những người đàn ông tốt mà ông đã quen biết sau này và đã tử trận, hò hét trước nỗi sợ sệt của họ.
- Ô kìa, một con ma. Hơi gượng gạo một tí. - Amy Parker nói.
Bà cười vang, nhưng thích thú.
Con ma duy nhất bà nhìn thấy là lương tâm bà trong những tấm gương. Nó có một bộ mặt màu xám, bị tống khứ rất nhanh, bằng cách không nhìn nó nữa. Nhưng con ma màu xanh lục này lại đội vương miện. Làm diễn viên lạ lùng thật. Đó không phải là công việc của con người mà chỉ là nói huyên thuyên. Cuộc sống không phải là nói năng, mà là sống. Thế là bà già này, tay nắm chặt cái lan can bằng đồng mà bà đang bám vào, băn khoăn không rõ mình đã sống cảnh đời gì. Bà ngồi trên ghế ở hiên và lắng nghe tiếng những cây hoa vân anh. Bà cũng muốn nhìn thấy, nghĩ đến, những minh chứng rõ rệt của cuộc sống. Người đàn ông kia. Leo. Nhưng đang phai mờ. Đó là cả nhà hát đang đứng lên quanh bà, cái cảnh mà bà chưa quen thuộc. Đó là những ngôn từ vô nghĩa.
- Chưa bao giờ em nghe nói chuyện nhiều như thế, - bà nói giọng cáu gắt, gần như thóa mạ.
Ông bảo bà im, và bà quay đầu sang chỗ khác.
Phải chăng đây là Hamlet, ông tự hỏi, đến rồi lại đi suốt vở kịch, một người đàn ông trắng trẻo, hơi gầy, mặc y phục màu đen? Mà chúng ta trước giờ vẫn chờ đợi? Đây là Hamlet của chúng ta ư? Với hai đầu gối yếu mềm. Những lời mà anh ta đã đọc, và đang nhớ, cố sức thuyết phục ông già. Một lần, ông biết một con ngựa già tên là Hamlet, một con ngựa hồng, không, một con ngựa thiến già màu nâu, một con ngựa kéo xe, thuộc về một lão già, tên là Furneval… hay Furness? Người này thường hay đánh xe vào làng mua tạp hóa, quất roi xua ruồi trên mình con Hamlet. Đó là một Hamlet. Hoặc đứng trong lán cỏ, trong chiếc áo bạt mà ông mặc mãi cho tới sau chiến tranh hàng bao nhiêu năm, đến khi nó ngả màu xanh lục, cúc đã rơi hết, và chẳng còn như ban đầu nữa; nhưng sáng hôm ấy, hay thực tế là nhiều buổi sáng, khi ông trộn lẫn cám và trấu, Hamlet thực sự trôi đến như một điều lý giải, hay đây là một nỗi hoang mang mới mẻ? Những buổi sáng màu xám này không khí toàn mạng nhện, mặt trời hiện lên qua những đám mây lớn, những hạt cỏ màu trắng rơi xuống kêu lách tách. Hamlet cảm thấy hoang mang, sau trận oanh tạc, phải chứng kiến màn kịch cưa cây kế.
Ông già ngồi trên khu ghế chót của nhà hát tiếp tục bị những lời kịch tấn công tới tấp đến suýt bất tỉnh, song nó cũng làm ông phấn chấn. Rốt cục, chẳng có gì phức tạp bằng vở kịch này, ông tự nhủ. Ông ngẩng đầu lên từ chỗ ông tựa vào lan can bằng đồng. Ông cứ bám chặt lấy bùa phép của sự bình dị. Nhưng chúng ta cũng là những con người bình dị, ông kinh hãi nhủ thầm, Amy bình dị, ta cũng bình dị, và không biết rõ mình. Thế là ông lại bị đợt sóng cồn của ngôn từ nuốt chửng, và đang đi lang thang trên sân khấu, nhìn vào mắt các diễn viên.
Bởi vì họ là như thế đó. Hamlet là một diễn viên. Phụ nữ đọc về anh ta trên báo chí và nghĩ đến anh trên giường. Họ run lên khi gió lùa xoáy mạnh từ bên dưới tấm màn và đậu lên đôi vai trần của họ. Một vài người đính hoa lên khe ngực. Nhưng chính là Stan Parker đang nói chuyện với các cô gái dịu dàng bằng những câu đố, nghe chẳng khác gì những điều đã nói. Giá ông nhớ lại được những gì ông đã nói khi họ đứng ở đầu cầu thang, nhưng ông chẳng nhớ được lời nào. Nét thơ của ngôi nhà bốc cháy không làm bằng từ ngữ. Đúng ra, ông có thể nhớ lại bộ tóc đỏ của cô gái đã cháy thế nào, bộ tóc xém của họ đã xoăn lại thế nào, mỗi cái đầu víu vào cái kia bằng những cái móc. Nhưng chẳng hề nói. Người ta không nói khi trao đổi tâm hồn.
- Thế thì ai điên? - Amy Parker hỏi.
Nhưng ông suỵt bà im.
Không phải là mình, bà tự nhủ. Xì, xì! Rõ vớ vẩn. Tuy đôi lúc nó cũng có ý nghĩa.
Ôi trời, bà nhủ. Rồi bà bắt đầu nhìn theo con đường mà bà đã nhìn theo suốt cả đời, và đằng xa có một phụ nữ cưỡi ngựa, ngực cài hoa violet. Thơ không phải lời nói. Đó là tiếng leng keng của đinh thúc ngựa, hay của những sợi cương, hàm thiếc, có thể thế, mà nàng đeo, điều có người nói là tàn nhẫn. Người phụ nữ này chẳng chịu nhìn xuống. Nàng đã nhận ra khoảng cách. Thế là những lời thơ tàn nhẫn khác phi nhanh từ quá khứ vào bầu trời màu tím violet. Ngày ấy mình quá xoàng xĩnh, bà già tự nhủ. Mình không biết một điều, mình có thể đã được yêu dưới bất cứ dạng hình thức nào.
Rồi Amy Parker đang từ trên hàng ghế nhìn xuống cái vòng tròn, tay bám vào lan can của ký ức, chợt quả quyết đó là Madeleine. Đấy là những bông hoa violet Madeleine chẳng bao giờ đeo, mà đáng lẽ thế, trong cái đám lá. Do vậy bà già nhìn đăm đăm qua bóng tối, tới hai vai ánh lên, và Madeleine đưa tay lên vuốt một sợi tóc hoặc phủi nỗi chán chường ra khỏi đầu óc trong lúc diễn.
Khi đèn bật sáng nghỉ giải lao, người phụ nữ tan biến như bong bóng xà phòng.
- Em thề rằng người đàn bà cài hoa violet kia là Madeleine, - Amy Parker nói, ngả người xuống.
- Madeleine nào? - Chồng bà hỏi.
- Người trước đây suýt lấy Tom Armstrong. Người mà anh đã cứu sống trong ngôi nhà bốc cháy ấy.
Bà già tưởng chừng có thể cúi xuống nhặt những bông hoa violet, ký ức của bà thật tươi mát, và đẫm sương.
Rồi chồng bà chậm rãi nhìn bà và nói với sự thô bạo của các ông chồng:
- Nhưng Madeleine lúc này đã là một bà lão rồi. Bà ta lớn tuổi hơn em, Amy. Mà em thì đã già rồi.
Và lẩm cẩm nữa, ông thấy rõ. Ông có thể thấy rõ điều này không có chút ác tâm. Rõ là có thể yêu những bà già lẩm cẩm và đáng ghét.
- Có lẽ vậy, - bà nói. - Ừ. Em không nghĩ ra.
Các bà lão mà xưa nay vốn tinh tế, lắm lúc tinh tế ghê gớm, thì trở nên lẩm cẩm hơn khi họ bắt đầu lẩm cẩm, như thể sự tinh tế đã làm cho họ kiệt quệ.
Thực tế Amy Parker mệt mỏi rồi. Bà chậm rãi ăn chocolate và để cho cái khoái cảm ngọt ngào ấy tràn ngập người bà khi không còn những thứ khác. Chắc hẳn Madeleine đã chết. Điều ấy dẫu sao cũng không quan trọng.
Nhưng bà bỗng cảm thấy buồn, hoặc cảm được vị chocolate. Chocolate có cái u sầu của nó, ở nơi cao vút và tăm tối. Bởi giờ đây nơi này rất tối. Cái khu ghế chót tai ác của ký ức, trong đó bà lão bị đẩy vào để hưởng thụ, sột soạt hơi thở và giấy, trong khi những người khác để cho những con rối của họ nhảy múa. Những kẻ đang ở trong khung vàng của sân khấu ít sức thuyết phục hơn, vì họ đang lặp lại những lời trong sách. Mà sách thì không thể tha thứ được. Anh không thể làm theo những điều được ghi chép.
Thế là Amy Parker, người bắt đầu hơi gật gù khi ngồi trong bóng tối từ trên cao nhìn xuống, tràn ngập những ngôn từ hoặc những châm ngôn kia. Cũng như bà đang tràn ngập trong lòng. Lúc này bà bước đi, mặc toàn xa tanh và có thể bị vướng vào bụi hương thảo hay bất kỳ loại cây sắc nhọn nào khác trong vườn, đương khi nói chuyện với Hamlet. Đồ của bà màu đỏ. Thật là kỳ quặc khi nghĩ rằng chàng Hamlet bạch diện, lại là con trai của bà hoàng hậu kia, một người phụ nữ to lớn, thậm chí đẫy đà, xiêm áo bằng xa tanh cho thấy rõ. Ngay cả các hoàng hậu cũng oằn mình và lúng túng. Hamlet có ghét mẹ mình không? A, Ray, Ray, bà tự nhủ, cho mẹ cái miệng của con một lần, để mẹ có thể nói được điều đó qua cái hôn. Nhưng căn phòng ấy, gian bếp cũ, cũng trống trải như một sân khấu, theo bà nhớ thì cũng chẳng mang những câu trả lời thực sự như Hamlet, nó đã biến mất trong đêm tối, cái đêm đầy tia chớp và lá cây.
- Hừ, - bà nói, mồm bà ngậm một mẩu nhân cưng cứng, caramen hay thứ gì đó, dính vào răng. - Những người này nom ngộ nghĩnh thật. Họ ăn diện như thế để làm gì nhỉ?
- Họ là những người diễn kịch, - Stan Parker nói, lúc này ông đang đọc lại vở kịch, trước giờ ông luôn thắc mắc về đoạn này. - Họ đang diễn một vở kịch hoàng hậu phụ tình cha của Hamlet. Hoàng hậu đã lấy vị vua hiện nay, kia kìa.
- Tttt - Amy Parker chậc lưỡi.
Ngay sau đó các diễn viên diễn xuất chính xác tới mức cứng nhắc.
Stan Parker nhớ lại cái vở kịch nhỏ ấy, mà trong đó bản thân ông đã bị đầu độc, và tổn thương. Song lúc này ông không đau đớn. Nom thấy diễn viên lẻn ra và phóng chiếc ô tô màu xanh đi mất. Nom thấy cái thân hình to lớn của gã thương nhân lao nhanh qua cửa vào trong ô tô. Mọi đau đớn đều nguôi dần. Ông cụ bắt đầu xát xát lớp da của hai bàn tay già nua trong bóng tối. Nỗi trống trải làm ông kinh ngạc. Ông đã đọc ở đâu đó: con thuyền vắng bóng người. Đêm hôm ấy, khi ông nằm nôn mửa trên đường phố, khi ông đứng trên đường phố và khạc nhổ vào Chúa, vào mọi thứ, ông trở nên trống rỗng. Nhiều năm trong cuộc đời nhẹ tênh và dễ chịu nhưng rỗng tuếch đã làm ông hài lòng, nếu như không có cái ký ức nhỏ bằng hạt đỗ kia cứ lọc cọc bên trong. Bây giờ nó bắt đầu làm ông cáu tiết. Vở kịch này định nhằm cái gì đây? Ông tự hỏi, xoa hai bàn tay già cỗi vào nhau, hai bàn tay vẫn chai sạn mặc dù ông đã thôi không lao động nữa.
- Cứ tiếp tục như thế thì thật buồn cười, - Amy Parker nói.
- Sao, ngoại tình ư?
- Không, - bà lầm bầm nói tiếp. - Đổ thuốc độc vào tai người đàn ông.
Bà không chịu nổi glycerin, hay dầu nóng, mà thỉnh thoảng người ta dùng để chữa viêm tai với một cái thìa kêu rồ rồ. Bà rùng mình. Những dòng suy nghĩ cứ tuôn ra từ những khe trong bộ não…
Chính những buổi xế trưa đã dần đầu độc bà. Bà rất có thể đã dập đầu vào tường, chờ đợi. Người đàn ông ấy, gã ấy. Đóng kịch như thể mình không muốn. Rõ là đóng kịch.
Bà rạo rực khát khao được ngồi kề bên chồng trong bóng tối.
Đúng thế, mình đã chế ngự được nó. Mình không muốn cái ấy. Có thời mình không muốn gì cả, bà suy tư. Hay trong một cơn kinh hoàng, nó ập đến với bà, theo luồng ánh sáng và tiếng động từ sân khấu sáng trưng, có một thời mình muốn mọi thứ và không biết đó là gì. Ta muốn Stan, ta muốn Ray, hoàng hậu nói, và ta không chắc rằng ta đã có cái gì, rằng ta có biết mình có gì hay không.
Trên sân khấu bỗng ầm ầm dữ dội khi hoàng hậu và hình bóng của bà vụt chạy vào bóng tối, khỏi cái màn kịch nhỏ thô cứng. Hình như bà bị đánh bại, bởi cơn sợ hãi.
Bà lão trong khu ghế chót vẫn ngồi lại, vô cùng đau khổ. Bà đang cố giành lại thằng bé con. Bà đang ngồi trên giường sắt, đầu gối bà chạm vào đầu gối người chồng trẻ.
Nhưng vở kịch vẫn tiếp diễn, vở kịch lớn Hamlet, điên loạn và đủ thứ.
Felia không gây xúc động bằng, vì thiếu cá tính riêng. Cô ấy không làm mình sợ hãi như Bub, vì mình đã quen với mọi thứ. Trong khi vẫn còn học hỏi. Mình có lẽ sẽ kịp hiểu về Stan. Nhưng tất cả sự điên loạn này. Vở kịch này lắm điều vớ vẩn. Người điên nói ngôn ngữ riêng của họ, giống như người có học.
Dẫu vậy, chết chóc và mai táng, anh phải đương đầu với nó, khá giản đơn và chẳng điên rồ. Họ đang chôn bà. Đất đang rơi xuống.
Những dấu nhấn lớn của số phận đang tràn ngập nhà hát, nên mọi người quên mất sự gò bó và các nếp nhăn trên áo quần cùng sức ép không chịu đựng được của thi ca. Đã gần đến kết thúc. Mọi người đều cầm dao găm kề tim, hay kề hoa violet, tùy từng trường hợp.
Ngay sau đó, các diễn viên uyển chuyển đâm chém nhau bằng kiếm và lời nói. Bản thân Hamlet, người cho đến lúc này vẫn đóng vai Con Ma Thứ Hai, con ma của ký ức, rạng rỡ lao vào sự hiện diện của cái chết, mà cũng là thực tại, còn mọi thứ khác đều là dĩ vãng và tương lai, những câu chuyện và niềm hy vọng, nếu ta đem so sánh. Trong một lúc các diễn viên đều im lặng, ngoài việc thở hổn hển và vung vũ khí loảng xoảng, khi không thể thốt ra được những từ ngữ tôn kính. Một ngọn đèn chói sáng trong chiếc sơ mi ướt của chàng Hamlet đang đứng dậy.
Nhiều người trong đám khán giả đang ngồi trong bóng tối theo dõi cũng toát mồ hôi, bởi vì kết thúc của Hamlet quá phức tạp không theo dõi nổi, trừ phi họ đã sống qua. Song Stan Parker, ông già ngồi ở khu ghế chót, cảm thấy lạnh ngắt và trơ như đá khi những người chết chồng chất lên nhau. Sau khi lang thang qua sân khấu qua hàng thước ngôn từ phun ra, thở từng hơi thở với các diễn viên, và trải nghiệm những ảo mộng giống nhau suốt cả buổi tối, ông lùi lại một khoảng vào cuối vở kịch. Ông ngồi đó. Một ánh sáng màu xám bao trùm, vô tình hay cố ý, giống thứ ánh sáng nhìn thấy trong buồng ngủ vào buổi sáng. Đây là thứ ánh sáng mà ở đó con người nhận thức được rằng mình sẽ chết.
Vậy là mình sắp chết, ông tự nhủ. Hình như điều ấy là bất khả.
Sau khi các xác chết đứng lên và cúi chào như thể họ chịu trách nhiệm về sự thăng cao của họ, chiếc màn đỏ hạ xuống, Stan Parker ngồi nán lại và tự suy xét mình.
- Áo của anh đâu rồi? Không đánh mất chứ? - Bà vợ hỏi, bà cảm thấy buộc phải đóng góp cái gì đó vào cuộc sống.
- Đâu dưới ghế ngồi thì phải. Anh để ở đây mà. - Ông già nói.
- A, - bà nói, - toàn bụi là bụi. Nom kìa! Nhăn nhúm cả. Cái áo đẹp của anh đấy!
Vậy mình phải chết. Nhưng vì điều này quá mênh mông không nắm được, ông đứng lên, như một diễn viên rời sân khấu, và hỏi:
- Em có thích không?
- Em muốn có một tách trà ngon, nhưng đừng mong ta sẽ có được, - Amy Parker nói. - Cái áo của anh hỏng mất rồi.
Bà cũng chải chải và đập đập mãi. Để khôi phục một cái gì đó. Nhưng ông để mặc bà.
Và bà mừng là ông không hỏi bà nữa khi hai người đi xuống theo cầu thang, bởi có nhiều điều bà nhìn và nghe làm bà phiền lòng. Điều họ đã nói về vị hoàng hậu. Thế đấy, da thịt bà trần trụi. Cũng có những điều bà không hiểu được nhưng cảm thức lờ mờ trong khu rừng từ ngữ được hồi tưởng lại.
Thế là vở kịch đã kết thúc, và sau đó không lâu họ trở về nơi của họ.
Sự trở về của họ là sự trở về cái tập quán quá quen đến nỗi chẳng bao lâu Stan Parker sớm có thể gạt bỏ được linh cảm về cái chết. Không cố tình. Thật ra sự cố ấy đã tuột khỏi ông. Tập quán thay thế cho suy tư, hoặc rút cái nọc khỏi nó. Nay ông mỉm cười thường xuyên hơn, không phải với những công việc cần thiết, hay những việc ông phải làm và tuy nụ cười có phần nào trừu tượng nhưng mọi người vẫn coi đó như một dấu hiệu của sự hài lòng và khả ái. Ông đã nổi tiếng là một ông lão tốt bụng, và là người láng giềng trông mặt mà bắt hình dong?
Tuy nhiên ông cụ rõ ràng rất bình thản. Ông đã học nghề đan lưới, làm được vài cái lưới bẫy cùng đôi chồn sương ông mua. Sau đó không lâu ông đi lang thang, xuống cái rãnh ở sau nhà, quanh vùng chưa xây dựng xong, mang theo đôi chồn sương trong một cái hộp nhỏ đeo giữa lưng, một khẩu súng cũ khá nặng, theo sau là một con chó đen bẩn thỉu bị viêm loét một tai.
Đêm hôm ấy, cái đêm mà Stan Parker sẽ nhớ mãi vì cái sự cố đã xảy ra, một trong những đêm mùa đông yên tĩnh, khi gió đã ngừng, nhưng vẫn có luồng không khí lạnh thổi qua, như tiếng nước chảy dưới lòng khe khô cạn. Những cành khô kêu răng rắc, tiếng ho vang lên dưới bầu trời mang màu sắc hai kim loại, chì và đồng, bên dưới là một cụ già đang bước cùng một con chó già. Có thể tin rằng con người ta cô độc trên cõi đời này. Những chiếc lá cứng nhọn của bụi cây không tiết ra chút nhựa ưu ái nào. Mà người ta cũng không cầu xin lòng tốt. Đá tảng và sự im lặng tự bản thân chúng đã đủ rồi.
Thế rồi ông lão đang bước ngoan cường trên đôi bàn chân run rẩy bỗng nhiên trượt ngã. Ông là một con bù nhìn già với hai cánh tay gỗ, khẩu súng huơ huơ ở cuối một cánh tay, và cái hộp nhỏ ngộ nghĩnh đựng chồn sương có nhiều lỗ thông hơi nhún nhảy trên xương vai. Khi bầu trời nghiêng ngả, ông cụ bấm cò. Mọi việc diễn ra quá nhanh, đến nỗi nó cứ chầm chậm day dứt trong trí óc ông. Sao chổi vẫn vụt qua chậm rãi trước mắt, vừa nóng vừa lạnh, vừa thực chất vừa hãi hùng, trong khi ông nằm dưới đất và nhận thấy rằng ông suýt bắn trúng mình. Con chó đen chạy quanh hít hít và phát ra những tiếng khịt khịt.
Rồi ông cụ đứng lên và tiếp tục đi, sau khi đóng chốt an toàn. Ông rắn rỏi, đương nhiên. Ông đã từng lao động vất vả và có thể chịu đựng một chút va đập. Nhưng bây giờ ông đi run run tuy người vẫn thẳng đứng. Đôi mắt ông nhức nhối. Dưới mắt là những vành đỏ, giống như những vành có thể nhìn thấy dưới mắt vài con chó già.
Con chó đen đang chạy khập khiễng đằng trước chủ, bỗng tru lên ở cửa một cái hang.
- Tốt lắm. - Ông cụ thở dài tán đồng.
Ông đi vòng quanh, nhìn xuống đất, rõ ràng là tìm những lối khác vào hang để cắm bẫy lưới. Nhưng ông lùng sục vô định. Một lát sau ông cụ ngồi xuống một tổ kiến. Ông chỉ ngồi thôi. Trong khi đó con chó đen vẫy đuôi và tru lên. Mấy con chồn sương cũng quay đi quay lại và lục cục trong bóng tối của cái hộp quen thuộc treo lơ lửng.
Chẳng mấy chốc, ông cụ nghĩ.
Trong lúc đó ông vẫn ngồi. Và kiến bò ra xuyên qua lớp đất.
- Ôi Chúa ơi, - Stan Parker nói.
Ông như treo lơ lửng.
Rồi cuộc đời dễ chịu của ông, đã trở nên trống rỗng hàng bao năm nay, bắt đầu đầy dần. Không phải tự nhiên mà sự trống rỗng sẽ chiếm lĩnh, cuối cùng đầy ứ, hoặc với nước, hoặc trẻ con, hoặc bụi bặm, hoặc tinh thần. Thế là ông già ngồi nuốt vào. Miệng ông khô và đóng bánh, cái miệng cũng đã từng nôn ra cuộc đời của ông đêm hôm ấy ở ngoài đường phố, ông vẫn còn nhớ. Ông nghĩ đến điều ấy khôn nguôi.
Cái gì đã được định trước bởi ta và cho ta? Ông băn khoăn. Ta chẳng biết gì cả.
Dẫu vậy chẳng ai trả lời ông.
Một lát sau ông cụ gọi con chó già vẫn cứ ngồi trước cửa hang, hếch cái mõm xám, lắc lư cái tai lở loét, rồi cả hai bước đi. Ông cụ bước thận trọng, lòng khuây khỏa bởi cảm thấy mình vẫn tiếp tục tồn tại dưới bầu trời đêm.
Đêm hôm ấy khi trở về nhà ông gặp con gái đang ở đó. Nàng đang đứng trong bếp, ngỡ ngàng nhìn mẹ nhúng một miếng thịt bò vào xoong súp đang sôi, như thể chưa từng nom thấy cái điều kỳ diệu ấy bao giờ. Tất cả các cuộc viếng thăm của Thelma Forsdyke đến nhà bố mẹ đều nhuốm một vẻ kỳ diệu hài hước cùng với sự thành đạt, để thay thế cho cảm giác hổ thẹn trước đây. Những cuộc viếng thăm khá thường xuyên, hầu như vào đầu giờ chiều, để nàng có thể về nhà, và nghỉ ngơi trước khi mặc quần áo xuống ăn tối. Nàng cũng thích tắm, và sau đó có thể chịu đựng hầu hết mọi thứ. Sau khi đeo mấy chiếc nhẫn vào bàn tay không chút tì vết của nàng. Tuy nhiên lần này bà Forsdyke mang vinh dự đến cho bố mẹ vào dịp cuối tuần, một điều hoàn toàn bất thường. Nàng nợ điều gì hay chờ đợi điều gì có lẽ? Không rõ lắm. Nhưng nàng đã đến, bảo đảm không bị thiếu thoải mái bằng thịt hun khói, một lọ muối tắm, và một chiếc gối con xinh xắn độn lông trong chiếc áo gối màu hồng, để kê đầu khi mất ngủ, đặt trên các chiếc gối thô xấu nhà bố mẹ.
Nàng cũng mang theo nhiều trào lộng hơn mọi khi đến cho đôi vợ chồng già hóm hỉnh này, những người khá hiền lành và kỳ quặc.
Khi bố nàng bước vào bếp, nàng đi về phía bố, ngẩng mặt lên cho bố hôn, và sau đó nói:
- Kìa bố, da bố lạnh quá. Bố ở đâu về đấy?
- Đi loanh quanh trong khe nước. - Stan Parker nói.
Song nàng không lắng nghe câu trả lời của ông, cái mà nàng đoán là chẳng quan trọng gì. Nàng đang nghĩ mình thích hôn bố biết chừng nào khi giờ đây bố đã trở thành một ông già lạnh buốt.
- Bố con có hai con chồn sương tuyệt vời, - bà mẹ nói.
Mà có một thời hẳn bà mẹ đã oán giận.
Ta sẽ không nói cho họ biết là ta suýt tự giết mình, Stan Parker nhủ thầm.
Đó là một sự cố rất riêng tư, không thể giải thích một cách thuyết phục. Đó là một bộ phận của nửa con người bị nhấn chìm của ông. Thế là ông ngồi thái miếng thịt, cách xa, và nghe loáng thoáng tiếng vợ đang kể lại với cô con gái câu chuyện của những mẩu đời khác.
- Mẹ chưa bao giờ kể với con, Thelma ạ, - Amy Parker nói. - Ray đã bỏ Elsie rồi. Cách đây ít lâu. Có lẽ con biết rồi nhỉ?
- Con làm sao biết được? - Thelma nói, mắt nhìn xuống.
Món thịt bò thật kinh khủng.
- À, đằng nào nó cũng bỏ rồi và ít lâu nay đang sống ở Darlinghurst với một vài người đàn bà khác, hình như thế. Chắc hẳn chẳng ra gì.
- Người đàn bà chẳng ra gì là kẻ thua cuộc. - Thelma nói.
Thelma đang mải tò mò dò xét thớ thịt và lớp sụn xám.
- Đó là một cách nói, - bà mẹ nói. - Thật tội nghiệp Elsie.
- À, vâng, khổ thân Elsie. - Bà Forsdyke thở dài. - Hay đúng hơn Elsie đáng thương đã thoát nợ.
- Thelma, con nhẫn tâm quá. - Amy Parker nói.
Bà mẹ quên bẵng bản thân mình.
- Con thế đấy. - Thelma nói. - Đó là cái tội lỗi lớn của con. Con đã cầu nguyện để thoát khỏi nó nhưng vô hiệu.
Nàng đã từng nom ướt át như lúc này. Biết rõ bản thân là thứ xa xỉ đáng buồn nhất. Nhưng qua kinh nghiệm và học tập nàng đã đạt được điều này, cùng với tiếng Pháp và những chiếc áo lông.
- Nhưng Ray không hoàn toàn có lỗi. - Bà mẹ bây giờ mới nói.
- Chẳng ai hoàn toàn có lỗi cả. Nếu có một vài người như thế thì đơn giản biết bao. Có thể tống khứ họ.
- Mẹ không biết chuyện ấy. - Amy Parker nói. - Mẹ mới là người có lỗi.
- Kìa, mẹ. - Thelma nói.
Nàng ước gì mình đừng tới đây.
- Nhưng mẹ yêu anh con. - Bà mẹ nói.
Lúc này Thelma co lại. Khi nghe từ “yêu”. Xưa kia đọc về khát vọng tình yêu, nàng vẫn thường thích được tắm mình trong dòng nước ấm áp của tình thương. Những anh chàng mặt đỏ, béo ị, những anh chàng hay cáu, mà Ray là một trong số đó, nhìn nàng từ mọi ngóc ngách.
- Thật đáng tiếc là người hàng thịt đời thứ hai không sinh sống ở Durilgai. Có cạnh tranh thì sẽ có khác biệt. - Nàng nói.
- Miếng thịt này khá đấy. - Người bố nói.
Bởi vì đã đến lúc ông phải nói.
Ông đã nghĩ đến thằng cháu nội, cảm thấy được an ủi phần nào, và cảm thấy có lỗi.
- Đây là miếng ngon nhất ta tìm được rồi. - Ông nói với vẻ thù hằn, khẽ đập vào miếng thịt.
- Trong chuyện thịt cũng như trong mọi chuyện, nó tùy thuộc ở cái tiêu chuẩn mà ta chấp nhận. Hay phải chấp nhận. - Thelma vui mừng nói.
- Nó cũng đã bỏ việc, - bà cụ nói, - và đang làm ở đâu có trời mới biết được. Nó đang bị con mụ đàn bà này xỏ mũi. Hồi còn trẻ ả lăng nhăng lắm, có vẻ thế, giờ thì chẳng còn trẻ mà cũng chẳng tốt đẹp gì.
- Mẹ, con thét lên bây giờ đây. - Bà Forsdyke nói, đưa hai tay bịt tai.
Nhưng nàng không thể nhắm mắt.
- Ta không ăn pudding sao, bà nó? - Stan Parker hỏi.
Rồi Amy Parker đi vào và mang ra một chiếc pudding nho khô mà bà rất tự hào. Thelma yên lặng ngồi ăn.
Đến khuya, khi đã khôi phục lại được cái không khí thuận hòa, khi các dạ dày đã sôi ùng ục, và có mùi thuốc lá, Stan nói:
- Tôi đang nghĩ đến chuyện sáng mai đi lễ đây.
- Thế thì hay quá, - bà mẹ trả lời. - Thelma cũng có thể đi luôn. Mẹ sẽ chuẩn bị bữa trưa hai bố con về ăn cho nóng sốt.
- Tôi muốn đi lễ thật sớm kia, lễ Ban thánh thể ấy. - Ông lão nói.
- À, thế đấy. - Amy Parker nói. - Đã lâu lắm ông chưa đi lễ Ban thánh thể, cho nên tôi không biết là ông định đi lễ đó. Tôi chả thích lễ Ban thánh thể tí nào. Chẳng có thánh ca.
- Chẳng ai cần đến chỗ mình không thích, - ông cụ nói, - và ý thích là một vấn đề của lương tâm.
- Con sẽ đi với bố, bố thân yêu. - Thelma nói, khẽ cúi đầu, mỉm cười nghiêm nghị dịu dàng.
Ông không muốn thế.
- Con sẽ lái xe đưa bố đi. - Nàng nói.
- Thôi. - Ông cụ nói.
Ông không thích chiếc xe ấy.
- Chiếc xe cũ chẳng làm sao cả. - Ông nói. - Nó còn tốt chán.
Họ sẽ ngồi đàng hoàng trong đó.
Nhưng Amy lặng thinh.
Mình chẳng hiểu điều này, bà tự nhủ. Đôi khi bà nghi ngờ những ai có quan hệ với Chúa. Dĩ nhiên bà cũng đã cầu nguyện, và sẽ tiếp tục làm như thế; nhưng bà không ý thức nhiều về lời lẽ như về đôi bàn tay mà bà hít thở ở phía sau, cùng bao nhiêu thứ quen thuộc bà nhìn thấy trong bóng tối kia. Chỉ khi bà ngờ rằng chồng bà đã nhận được ân phúc của Chúa, và ngay cả ông, một người khá bình dị, cũng đang bao bọc nó trong bí mật, thì bà mới bực dọc.
- Lễ sớm như thế rét lắm, - bà thở dài. - Ngồi không duỗi chân khó chịu lắm. Tôi lấy làm lạ là sao không đợi trời ấm lên rồi hẵng làm. Chẳng ai đến để thấy tồi tệ hơn cả, tôi quả quyết vậy. Tội lỗi cũng như phần lớn những thứ khác vẫn cứ diễn ra.
Thế nhưng sáng hôm sau, khi Stan đã đi vắt sữa con bò có đôi sừng xấu xí, bà vỗ nước vào mặt. Bà đang run rẩy trong phòng. Bà có thể làm cái gì khác ngoài việc trăn trở trên giường? Người run bắn, bà cài khuy, kéo áo xuống. Sau đó, thu thập để ra đi, Thelma mang găng tay, mặc quần áo giản dị nhất nhưng rất đắt tiền, và Stan, với những nét hiền hòa từ mũi đến mồm, mọi người đều trầm lặng hơn vì ngày Chủ nhật lạnh lẽo, yên tĩnh. Song Amy Parker có thể nghe rõ cơn run của mình. Liệu mình có khá hơn không? Bà bồi hồi tự hỏi trước nhà thờ. Bà lẽ ra cảm thấy xấu hổ mà thừa nhận rằng mình đang tìm kiếm những điều thần kỳ như các cô gái trẻ.
- Em cũng đi à, Amy? - Stan hỏi.
- À vâng, - bà nói, tức giận về điều hiển nhiên, chiếc mũ đội trên đầu. - Em biết làm gì ở đây sau khi hai bố con đi rồi? Anh không nghe thấy tiếng ô tô rồ máy ngoài sân, anh lúc nào cũng ở trong ấy.
Bà đỏ mặt giận dữ vì sự ngốc nghếch của Stan. Nhưng chẳng ai để ý. Và họ vừa đi ra vừa đếm tiền.
Sáng hôm ấy sương giá đọng trên nền đất đen.
Liệu ta sẽ được đề cao hay bị hủy hoại? Bà Forsdyke tự hỏi khi bà ngồi trong chiếc xe cũ của bố, nước mắt lưng tròng.
Ông cụ đưa họ đi rất thận trọng giữa hai hàng cây bạc trắng, tiến về phía cái chuông duy nhất đang vang trong tháp chuông. Nhà thờ ở Durilgai vẫn là cái nhà thờ thẳng tắp, trong đó các linh hồn đã lơ mơ ngủ, chim chóc đã chết, và tội lỗi đã thoát khỏi bọn trẻ đang kêu đinh tai khi chạm vào nước, luôn luôn thế. Nhà thờ đứng giữa các bến tàu và những cây kế sữa. Một số bia đá dành cho người chết đã vỡ vụn. Mà chính những tảng mới kiên cố, bằng granit và cẩm thạch mới bộc lộ sự bất lực tồi tệ của chúng. Khi ô tô của ông Parker đến, một số người khác đang đi vào, các bà già, các cô gái lạnh lẽo, mặc màu đen hay màu ghi, những người đàn ông lịch sự mặc áo cổ cứng hơi vàng ở chỗ sát cổ. Cũng có một con chó vàng, tạm thời vô chủ, đang đứng trơ xương sườn và chõ chiếc mũi ướt vào cái lạnh chung quanh.
Thelma Forsdyke, giờ đây không còn là một người nhà Parker nữa trừ về mặt lý thuyết, nghiến chặt răng sẵn sàng đương đầu với những gì nàng sắp phải chịu đựng. Nàng thích sắc đỏ tía thắm đượm của tôn giáo. Và tâm hồn nàng hưởng ứng như sắc màu đỏ tía. Hoặc trong khi đàm luận về niềm tin riêng tư với các cha cố đáng kính. Đôi khi nàng vươn lên đỉnh cao vời vợi, nhưng không đứng vững ở đấy, bởi vì chẳng có ai nâng giữ nàng, trừ đức Chúa, và nàng run sợ trước sự thân mật kéo dài đến mức độ ấy.
- Bà Westlake kìa. - Amy Parker nói. - Bà vừa cắt một khối u đấy.
Mọi người ngắm nhìn con gái nhà Parker, ngắm nhìn quần áo. Những người già nhớ lại khi nàng còn thò lò mũi, nhưng họ giấu sự hiểu biết của mình đi. Các cô gái trẻ tròn xoe mắt kinh ngạc.
Lướt qua sự xao lãng đó, họ đi vào. Gian phòng vẫn còn vang tiếng chuông chưa đầy người. Quá ít người có đủ can đảm. Những ai có đủ thì chưa vươn lên khỏi thân xác của họ. Họ mở sách ra và đọc những lời dành cho các dịp khác, cứ như là họ có thể tìm ra đầu mối cho hiện tại. Mọi người đều cứng như gỗ, hình như thế, trong cái nhà thờ bé nhỏ phảng phất mùi gỗ lạnh này. Những gương mặt bâng khuâng đang mong đợi ân huệ từ trên ban xuống. Trong khi đó lớp cước trên chân tay than khóc.
Khi cha xứ bước vào, đóng sầm cánh cửa, vì ông là một người quyết đoán, mang đôi ủng rất bền, bà Forsdyke liền thấy ngờ vực, có thể ông không kính trọng sự giàu có của nàng đúng mức, rồi hối hận, mọi người đều đứng dậy với cử chỉ vô cùng lúng túng, hầu như quên hẳn mục đích họ đến đây. Cha xứ không giúp được gì. Ông đã cọ xát bộ mặt của tôn giáo cho đến khi mọi nuối tiếc riêng tư phải bật ra khỏi nó. Ông là người khá khỏe. Bản thân những cơ bắp của ông không cho phép ông ngờ vực, dẫu sao cũng đã mấy năm nay, khi ông vật lộn với bằng chứng của sự dửng dưng. Các lỗ chân lông của vị cha xứ ít lời này thường xuyên toát ra mồ hôi, đôi khi ngời sáng, đôi khi chỉ là mồ hôi.
Bà Forsdyke rùng mình.
Cái lạnh lẽo của lòng tin đã xâm chiếm con người, nàng tự nhủ: thế là ta không tin. Nàng sẵn sàng từ bỏ hết quần áo lông với tốc độ đáng xấu hổ, trốn chạy. Mẹ nàng đang cầm một cuốn sách với dáng điệu không tự nhiên, giở các trang với cung cách người già, không để ý đến nàng. Chẳng ai để ý tới bà Forsdyke. Thật là kỳ lạ, thật là kinh khủng, thậm chí bi thảm nữa. Vì thế trong tâm trạng không có ý định cầu nguyện nhiều khi nàng thật sự có lúc vươn tới Chúa, tay nắm chặt các đơn thỉnh cầu như thể chúng có thể vỡ tan, nàng buộc phải đi lang thang giữa những tấm bia, bài vị dùng cho người chết, lòng buồn rầu, khiến cho tâm hồn khô cằn của nàng mang thêm vẻ xấu xí đang ngự trị kia.
Buổi lễ diễn ra trong cái giá lạnh đã ấm lên đúng lúc. Những từ ngữ tựa cẩm thạch leo cao dần, nối tiếp nhau, được chà xát bởi lòng nhiệt tình hay hơi thở của giáo đoàn, khi họ quỳ xuống hay tạm đặt đít ngồi bên rìa các ghế nhà thờ. Máu bắt đầu lưu thông. Thịt da của từ ngữ sinh sôi từ cẩm thạch. Do vậy Amy Parker như được đưa tới sát kề lòng thành tín. Bà cảm thức được từ ngữ. Bà nghe như có lúc chúng rít lên. Và chập chờn lắng nghe chúng. Hoặc hôn chúng. Từ ngữ cũng hôn. Và lúc ấy những cơn ngáp làm bà nứt toác, và một suy nghĩ tục tĩu đến mức khiến bà nhìn khắp mọi người để xem họ có nhận ra trong bà già họ quen biết, một người nào khác không. Nhưng họ không nhận ra.
Mỗi một con người đều bị thu hút vào những bí ẩn của bản thân. Họ cúi đầu dưới cái mũ cầu kinh, tạm thời xóa bỏ cá tính của họ. Ngay cả những khuôn mặt của trẻ con cũng bị rút sạch, cổ của chúng mảnh mai và không thể nhận ra được, khi quỳ ở đấy, cào cấu nhau và đâm chọc nhau.
Amy Parker, bà cụ già mặc váy sẫm màu, hoặc không phải thực sự là một bà cụ, có làn da đôi khi hồi sinh, lắng nghe những lời vị mục sư khỏe mạnh phát ra với sức mạnh đến dường ấy. Dĩ nhiên những lời này dành cho người khác, và vì lẽ đó bà có thể chịu đựng những điều tệ hại nhất. Chúng rơi xuống cái đầu đang cúi của bà mà không xuyên qua cái khiên sẫm đen là chiếc mũ, để cho bà cuối cùng có thể đứng lên khỏi cái tư thế bất tiện, chân bà cũng đang đau, và tuyên bố lòng tin với cả lòng yêu thương cùng sự sôi nổi; nó lộn xộn trong bà trên những sợi dây của ký ức, qua đôi môi ướt, và bà đang xoa mạnh hai tay phía trước mặt, cả hai cổ tay, qua lần áo, hai cánh tay biết thưởng thức của bà, làm cho chúng hồi sinh.
Mình không nghĩ rằng mình có thể thưởng thức buổi lễ này, không bao giờ, Amy Parker tự nhủ. Nhưng nó chạy ngoằn ngoèo phía trước bà, với giọng đàn ông của nó, và bà lắng nghe, nó phát sáng, ngay cả trong những điều bí ẩn đen tối hơn của nó, bà đã có thể làm dứt cơn đau bằng cách đặt hai bàn tay ấm áp của bà lên.
Thế thì mình sai chăng? Bà tự hỏi, đưa mắt liếc nhìn chồng, người tạm thời lúc này không quen biết bà, và nom có vẻ gầy gò, khốn khổ, với cái cổ cong cong, khẳng khiu.
Bà cụ già những muốn tận hưởng ánh sáng đỏ thắm rơi từ cái viền thủy tinh của Chúa xuống sàn nhà, nằm đó, trong từng ô quân cờ nho nhỏ, nằm trong bụi, nhưng đỏ thắm. Châu báu óng ánh trong đôi mắt bà khi bà theo dõi những ngôn từ của người đàn ông trong buổi lễ với chuyển động khe khẽ của cái đầu do thói quen. Bà cũng đã có thể theo một tôn giáo mà bản thân bà cần đến và leo cao. Nhưng ông chồng chẳng để cho bà làm như thế. Đối với Stan thì Chúa là cái gì? Bà băn khoăn, tựa vào vai chồng, ta không biết Chúa, Stan chẳng để ta làm thế. Bà thích đổ tội cho người khác thay vì bản thân, và gần như thấy thuyết phục. Lúc này bà lầm bầm, càu nhàu ra tiếng. Ông ấy đã biến mình ra thế này đây, thư giãn trên chiếc nệm của sự tầm thường của bà. Bỗng bà sực nhớ đến cái bánh pudding mà mình làm ngày hôm ấy, lần đầu tiên, với mộc qua đóng lọ và cùi bánh mỡ cứng.
Song Stan Parker thì không nghĩ đến vợ sáng hôm ấy sau khi bước lên xe. Đứng đấy, đầu óc ông thực ra trống rỗng, có thể đó là tình trạng thất bại, hoặc giả là một sự hiến dâng. Ta không thể cầu kinh được, ông tự nhủ, không muốn cố, vì ông biết rõ cái vô vọng của nó. Thế là ông cứ đứng, hoặc quỳ, một tù nhân trong bộ xương sườn của mình.
Cha xứ đã bắt đầu nhồi lòng tin vào tâm hồn của mọi người trong giáo xứ của ông. Ông sẽ dùng búa nếu cần để đóng nó xuống. Hãy nghe những lời an ủi biết bao, cái giọng trai trẻ, khiêm nhường nhưng lanh lảnh của cha xứ vang lên, và cũng hãy nghe những gì Thánh Paul nói… Và cũng hãy nghe những gì Thánh John nói… Nếu người nào đó phạm tội…
A, giá như điều này đúng, Thelma Forsdyke tự nhủ, mình không có ý định báng bổ, nhưng mình không thể tin điều đó là đúng được. Nàng run rẩy trong tấm áo lông. Có gió lùa, vì họ không đóng cửa, và chỉ có nàng cảm thấy lạnh. Người run bắn, nàng cố gắng để tin rằng điều đó chẳng quan trọng. Tin. Tiếng ấy sao mà đáng thèm thế. Chẳng phải là nàng không có lòng tin, có điều là cảm hứng có nhiều cao độ khác nhau. Thế rồi lòng dạ băn khoăn, nàng đưa mắt nhìn quanh để xem khuôn mặt nào trong số này sẽ được cứu rỗi bởi niềm tin ẩn kín, bà cụ già có khối u, hay người đàn ông tóc chải gom xuống thành từng dải, người vừa học được sự rèn luyện của lễ nghi, hay mấy người xấu xí vừa vùng dậy khỏi giường do ngẫu hứng, hoặc do lò xo, có phải thế không, có lẽ phải có một cơ chế cần thiết sẵn sàng hiến dâng, để bắn lên thiên đường.
Tôi tin kia mà, tôi tin, tôi tin, Thelma Forsdyke khẩn khoản.
Và vị mục sư của Chúa, người đang dùng đầu ngón tay lấy bánh mì, cái mồm lóng ngóng vụng về đang nếm rượu, cũng cố gắng đến tuyệt vọng vượt lên bánh mì và rượu. Nhưng hành động cao cả này quá khó khăn. Đôi má khốn khổ của ông tiếp tục trệu trạo. Một mẩu bột dính vào lợi ông.
Mọi người bắt đầu đi lên, quỳ xuống bên tay vịn lễ Ban thánh thể. Thân hình họ thật là khủng khiếp. Đế giày của họ, bày trước gian giữa của giáo đường, đã hai lần hối lỗi.
Đây là cái phần khủng khiếp, Thelma Forsdyke tự nhủ, mình sợ lắm.
Vứt bỏ chiếc mùi soa đắt tiền mà nàng đã vo thành một viên tròn mềm mại, ẩm ướt và thơm thoang thoảng, nàng cũng bước lên, lo lắng cho bố mẹ mình, những người mà lúc này nàng đã biến thành những kẻ tàn phế.
Tất cả mọi người đều bước lên. Tất cả đều quỳ xuống. Xương của ai đó kêu răng rắc.
Chờ mong quả là rùng rợn. Một số người mà trong cuộc đời vẫn được coi là đứng tuổi đã đi quá tuổi già và đến bên cái chết. Những chiếc mặt nạ của họ đã vượt qua niềm vui và nỗi khổ. Họ hoàn toàn trong trắng khi hồi hộp đợi chờ. Những kẻ khác đang đói, dạ dày của họ sôi ùng ục, không chỉ riêng buổi sáng hôm ấy mà suốt cuộc đời họ, đến nỗi khi đến lượt, họ ăn ngấu nghiến, vụng trộm, và sau đấy liếm sạch vụn bánh, ngay cả khi chẳng còn tí gì nữa, trong lòng bàn tay của họ mà trên đó cuộc đời của họ được trải ra. Điều đó đã làm cho một số run rẩy. Sự táo bạo của bàn tay họ.
Mặc dù trọng lượng đôi bốt vững chắc đang cố ghìm ông xuống chiếc thảm, nhưng cuối cùng vị mục sư trẻ vẫn bước lên. Song cuộc vật lộn đã bị kéo dài. Ông lớn lên về tầm vóc nhưng bị kìm hãm. Trong khi ông di chuyển dọc theo dòng người, một luồng ánh sáng đỏ tía của thủy tinh trên cao chảy qua chiếc áo choàng cẩm thạch của ông. Cái đầu ông, ở tận cùng thân hình, phát ra giọng nói của ông, cuối cùng đã chạm tới thành tựu. Những khối vuông bánh mì là thực bởi chính thực chất của chúng.
Như vậy mọi người đều lần lượt được ăn bánh thánh. Một số cảm thấy tội lỗi thoát khỏi người họ một cách thiêng liêng. Tuy thế những người khác thấy chúng dính với họ mãi mãi, trừ việc họ nhận được ân huệ là biết rõ những tội lỗi kia hơn.
Muốn được tha thứ, cần phải rất giản dị, rất tốt, như bố mẹ mình, Thelma Forsdyke tự nhủ khi nàng nhận và ăn bánh thánh, với một cử chỉ thoáng qua, khiến cho đối với những người quan sát cứ như là hành động đó chưa hề diễn ra. Dĩ nhiên, nàng đã học được tính thận trọng trong mọi chuyện. Trừ bố mình và mẹ mình, nàng tự nhủ. Sự có mặt của bố mẹ quỳ bên cạnh đã làm nàng khuây khỏa hơn là bánh thánh. Cuộc đời của bố mẹ trong suốt và đáng yêu trong làn ánh sáng buổi sớm ấy. Thelma Forsdyke quỳ xuống, sùng bái trạng thái ngây thơ ban đầu, vốn là sự chuộc tội duy nhất, và vì nàng không thể khôi phục điều này được, chẳng hơn gì ngoài quay lại thể xác của Thelly Parker, tội lỗi sẽ ở lại.
Vào lúc này nàng đang chuẩn bị lau mép với cái mùi soa, nhưng vì còn băn khoăn không biết làm thế có thỏa đáng không, và dẫu sao chiếc khăn cũng đã bị bỏ lại ở chiếc ghế cầu kinh, nàng ho. Ho sù sụ. Có lẽ nàng sẽ bị lên cơn.
Stan Parker, lúc này tạm thời ngây thơ như con gái ông mong muốn bốc bánh mì ăn. Bàn tay của ông cứng. Nếu ông biết cầu kinh thì ông đã cầu rồi. Song cổ họng ông khô. Về mọi phương diện ông rất đúng đắn song khô khan.
Tại sao ta đến đây hỡi Chúa? Ông tự hỏi.
Cái từ đó, cuối cùng ông đã thốt ra, không phải tự nhiên mà đến, mặc dù ông có thể cảm thấy nó. Ông biết rõ điều ấy. Giờ đây ông nhắm mắt lại, hoặc giả để che giấu sự trống rỗng, hoặc để chống đỡ một luồng ánh sáng quá mạnh. Trong cả hai trường hợp mí mắt ông không hề bảo vệ mình. Ông quỳ ở đấy nom vẻ bị phơi bày.
Ánh sáng chiếu lên bụi bặm của tấm thảm mà họa tiết đã sờn. Mòn mỏi gần như là hạnh phúc. Hoa trong các lọ đã quá căng, quá chặt, đến nỗi chỉ có quy luật thiên nhiên mới ngăn chúng bay biến bằng sức mạnh của sự bất động ở chúng.
Ngôn từ cứ tuôn ra như máu quý khi cha xứ mang cái chén tới cho mỗi người. Giữa họ với nhau lúc này chẳng có gì trừ hai cổ tay to lớn của ông. Cái chén và lời nói hòa tan vào nhau một cách từ bi đến nỗi đối với một vài người, mà đặc biệt nhớ ơn và xấu hổ về mình, cảm thấy chất rượu òng ọc nóng ran trong cuống họng.
Amy Parker, người mà thời điểm khoan dung đã đến, cầm lấy chén, đưa lên khá cao, chỉ hơi nghiêng một tí, để có thể cảm thấy giọt rượu nhỏ vô cùng trên đôi môi, thêm nữa bà không dám, và cứ thế dòng máu từ cổ bà chảy xuống như điện giật, mang theo thứ thuốc độc của những ý nghĩ xưa cũ. Thế đấy, vị hoàng hậu đã cầm cái chén khác, cái chén bằng gỗ, hay có vẻ như thế, trước khi nàng ngã gục, chết trên sân khấu. Chúng đã đầu độc hoàng hậu, người cũng có lương tâm, thứ đôi lúc chảy trong người bà. Rượu rất hiệu nghiệm. Ta đã căm ghét, bà già tự nhủ. Ta yêu hay ghét? Bà bối rối dưới chiếc mũ đẹp nhất của bà, một cái mũ nhung. Tại rượu. Tại Stan, bà nhủ thầm, lại với tình yêu và căm thù, a, hãy nhìn em nào, anh Stan ơi, nhưng dĩ nhiên anh không thể làm thế lúc này. Thế rồi bà nhận thức rằng, giữa bà và Chúa cuối cùng đã kết thúc, rất có khả năng bà sẽ không bao giờ cậy được miệng chồng bà, nhìn vào bên trong, rằng ông đang bị giữ chặt vì những mục đích khác.
Đoạn cha xứ cầm lấy một cái chén nơi bà cụ, người hình như cố bám lấy nó vì một lý do nào đó.
Giả sử mình đánh rơi cái chén này như hoàng hậu đã bị đầu độc làm, Amy Parker rùng mình nhủ thầm, thì họ sẽ nghe thấy như một tiếng sấm.
Rượu vang đỏ thắm nghe chừng và nom chừng bất trị khi nó cuộn chảy khắp người bà.
Nhưng cha cố cầm lấy cái chén và đưa cho người chồng đứng thẳng của bà, như thể bà không tồn tại.
Khi đón nhận chén rượu ông già dẩu môi một cách ngập ngừng để uống, nhô chiếc cằm đờm dãi đã chảy xuống ban nãy, hiện vẫn còn, và mật đắng hòa lẫn với vang nóng trong miệng ông. Song ông vẫn nuốt. Rồi ông hy vọng ở Chúa.
Thật là yên bình biết bao được quỳ trên tấm thảm một khi ta đã chạm xuống, tựa người vào tay vịn vec-ni, mà cái nóng từng mùa đã làm nứt nẻ. Yên bình tự bản thân nó là điều đáng mong muốn, ông tự nhủ, vì thế trong khi còn thiếu bằng chứng, mà ông sẽ nhận được thêm, ông chấp nhận điều này với thái độ khiêm tốn và hàm ân.
Thế thì tại sao ông lại chờ đợi, như nhiều người trên thực tế đang làm, sau khi cha xứ đã quay lưng lại với họ, sau khi mọi chuyện đều xong xuôi? Một con ruồi bò trên tay vịn, băng ngang qua bàn tay mà ông lão không hề hay biết. Ông đang chờ đợi, lắng nghe, nhìn vào một điểm cố định, lòng dạ bồn chồn. Không thể nào, ông lão suy tính, cuối cùng ta lại không nhận được một cái nhìn. Điều này khiến ông cười rạng rỡ. Hoặc giả đó là sự ấm áp bắt đầu tràn ngập người ông vào buổi sớm mai lạnh lẽo, hoặc giả đây là lòng nhân từ đối với đồng loại mà một vài cụ già đạt được vào cuối đời mình.
Song con gái ông nhủ thầm: Việc này thế là đủ rồi, vì bao giờ nàng cũng muốn dọn dẹp sạch mọi thứ.
Nàng đặt bàn tay dưới khuỷu tay của ông bố, để chứng tỏ một tình trạng bình phục, hay sự trở về thời thơ ấu, và lôi bố mẹ xuống với thể xác của nhà thờ, như thể họ đang mang những dây cương nhỏ buộc vào cánh tay, còn nàng đang dẫn dắt họ đi.
Vẫn thật đáng cảm động, Thelma Forsdyke tự nhủ, rằng những người già lại thuyết phục được, và khiến người ta ganh tị vì sự thiếu nỗ lực. Nàng nghĩ thế trong khi đi phía sau họ. Trong giây lát tâm hồn nàng cố vươn lên trong một niềm yêu thương và khoan dung, nhưng nó yếu ớt quá và tụt xuống rất nhanh. Sau đó, quỳ trên ghế nhà thờ, nàng vừa xì mũi vừa lắng nghe những lời kinh cuối cùng chẳng liên quan gì đến bản thân, vì nàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, và tin chắc rằng mình đã bị cảm lạnh như đã dự tính và sợ hãi, nó chẳng được bà mẹ tán thưởng, người đang đội chiếc mũ màu sẫm không một người nào khác có thể tìm thấy được, kể cả cha nàng, con người mang nặng mùi của các ông già.
Khi họ đi ra, Stan Parker dẫn đầu. Ông đã lấy lại phần nào uy thế của mình, mà vẫn giữ khoảng cách trong bố cục của sự vật và trình tự của sự kiện. Ông đi giữa đám người quen biết trên các bậc thang, mỉm cười từ cái khoảng cách và bình diện kỳ quái ấy, ông nói chuyện với họ về đàn gia súc và rau cỏ. Một vài người nhận thấy giọng nói trống rỗng của ông mà không hề tìm hiểu sâu xa, bởi tất cả đều đang bập bềnh trên những chiếc dạ dày rỗng tuếch của họ, trong buổi sáng tuyệt trần đó, đầy ác là và cỏ ướt.
Họ bắt đầu lướt đi, thiện chí có những biểu hiện do dự trên gương mặt tỉnh táo của họ. Gia đình Parker đang đi. Hai người đàn bà đang bảo ông lão phải làm cái gì, vì hình như ông hơi mơ hồ. Ông đang suy tính và chỉ trỏ, ông đang suy ngẫm về sự không thỏa đáng của mình, điều này, trong ý nghĩa nào đó cũng có thể là một phần thưởng.