Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Chương 21
N
àng lùi đần về phía khung cửa sổ sát đất, nơi nàng vừa đứng lúc nãy. Nàng không còn mặc bộ đồng phục y tá mà là một chiếc áo đầm xanh cắt thật khéo, ôm sát người, và với khuôn mặt đỏ ửng, trông nàng thật quyến rũ. Tuy vậy, trong ánh mắt của nàng có một điều gì đó thật kinh khiếp và phiền muộn.
- Ông điên rồi! nàng liếm môi và nói. Ông không có gì làm chứng cứ!
- Khoan đã, Brennan nói và nặng nề bước một bước về phía nàng. Cô có nhận tên thật của cô là Jeannette White chứ? Không, cô chớ có trả lời. Ở đây có một người có thể cho chúng tôi biết điều này. Có phải thế không bác sĩ Partington?
Vị bác sĩ, mà nãy giờ mắt vẫn nhìn xuống sàn nhà, ngửng đầu lên:
- Vâng, ông nói, cô ta là Jeannette White. Ngày hôm qua tôi có hứa với cô là sẽ không tiết lộ điều gì, nhưng nếu cô ta đã làm những chuyện như thế này...
- Bác sĩ biết không, Brennan nói với một giọng dịu dàng, ngày hôm qua khi lần đầu tiên gặp bác sĩ, tôi trông bác sĩ có vẻ bối rối, tưởng chừng như sắp sửa chết giấc.
- Vâng, đúng thế, Partington đáp, úp mặt vào lòng tay.
Brennan quay sang cô Corbett:
- Tôi hỏi cô thêm một câu nữa. Cô có công nhận là cách đây một năm, cô gặp lại ông Despard và tái hợp với ông ấy?
- Đúng, tôi cần gì phải chối chứ? Tôi thấy hãnh diện là đằng khác! Anh ấy yêu tôi hơn bất cứ một người đàn bà nào, kể cả những người có mặt ở nơi đây. Nhưng giữa điều đó và tội ác còn có một bến bờ!
Vẻ mệt mỏi và phẫn nộ in hằn trên khuôn mặt của Brennan:
- Cũng nên nói cho cô biết ngay rằng, chứng cứ vắng mặt trong đêm thứ tư 12 tháng tư của cô đã tiêu tan thành mây khói. Có điều là ngày hôm qua, tôi sai lầm khi điều tra bà Stevens, - ông ta quay sang Marie trong khi nàng đang sửng sốt nhìn cô y tá, - bởi vì chứng cứ vắng mặt của bà trong đêm hôm đó chỉ dựa trên một nhân chứng duy nhất là người chồng cùng ngủ chung phòng với bà. Tất cả chúng tôi đều không nghĩ rằng còn có một người nữa mà chứng cứ vắng mặt cứ mong manh dựa trên một nhân chứng duy nhất... đó chính là cô cô y tá. Cô ta chỉ có duy nhất người bạn gái trọ cùng phòng để làm chứng rằng cô không hề rời khỏi nhà kể từ mười giờ tối. Những người khác trong khi đó lại có gần cả chục nhân chứng, kể cả chị bồi phòng cũng thế, mặc dù hò hẹn với tình nhân... Này Jeannette White, cô đã đến đây, có phải thế không?
Người đàn bà hầu như không còn giữ bình tĩnh được nữa:
- Đúng, tôi đến đây để gặp Mark, nàng hổn hển nói, nhưng tôi không tiếp xúc với ông già, tôi không muốn trông thấy ông ấy, ngay cả tôi cũng chẳng lên lầu nữa! Tối đó anh ấy không đến! Có lẽ anh ấy sợ bà... Mark đâu rồi? Mark sẽ xác minh những điều tôi vừa kể... Nhưng anh ấy không có mặt ở đây và ông...
- Đúng, dẫu sao ông Mark cũng không có đây. - Brennan đáp với một vẻ chua chát, - và tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ mất không ít thời gian để kiếm cho được ông ấy. Ông ta đánh hơi thấy tình hình thay đổi. Cô và Mark Despard thông đồng nhúng tay vào tội ác này. Chính cô là người hạ thủ một cách dơ bẩn và Mark thì bao che cho cô, đúng thế không?
Trong suốt hai mười giây đồng hồ, mọi người đều im tiếng. Stevens quay về phía Ogden Despard đang đứng khuất trong bóng tối và chàng tưởng như đang trông thấy một nụ cười trên đôi môi sưng phù đó.
Lucy nói với giọng bình thản:
- Tôi chẳng thể nào tin. Dẫu người đàn bà này có thể nào chăng nữa, thì tôi cũng không nghĩ rằng Mark có thể hành động như vậy. Thưa ông Cross, theo ý ông thì sao?
Vẫn tì tay trên máy thu thanh, Cross thích thú quan sát tình hình:
- Tôi đang tự hỏi liệu có ai trong nhóm này quyết định phải cần nhờ đến một đầu óc trầm tĩnh và một sự phán đoán sáng suốt hơn! Thưa bà Despard, bà yêu cầu đến tôi như thể đó là thói quen. Tiếc thay, sự thật là chồng của bà thông đồng với cô Corbettt để gây ra án mạng này và sau đó tìm cách đánh lạc hướng. Trước và sau khi sự việc xảy ra, ông ấy vẫn là kẻ đồng lõa, nhưng có điều cũng châm chước cho ông: ông ta không dự phần vào những mưu toan nhằm đổ tội cho bà. Mãi sau này ông ấy mới biết chuyện đó và vì thế ông cố minh oan cho bà. Khi hành động như thế, ông Mark làm cho vụ án này, vốn dĩ thật tầm thường, trở nên rối bời và vô nghĩa.
Bà thấy đó, điều đáng ngạc nhiên trong vụ này, là hai ý chí, hai tội ác hình như thường xuyên va chạm một cách thật lạ lùng.
Thoạt đầu, kế hoạch thật là giản đơn. Mark Despard và cô Corbett dứt khoát giết cụ Miles, bởi Mark đang cần tiền. Nhưng, điều cốt yếu là cái chết của nạn nhân phải được dàn xếp sao cho có vẻ tự nhiên. Ông cụ sẽ chết vì chứng bệnh ruột, như thế vị bác sĩ của gia đình sẽ chẳng có một lý do nào để nghi ngờ. Sẽ chẳng có cái tách bạc chứa asenic vứt bỏ cạnh xác con mèo, cũng như - sau này - sách viết về ma thuật.
Đó là kế hoạch rất đơn giản được Mark Despard hoạch định. Nhưng nó không làm cho cô Corbett hài lòng. Cô ta chẳng những muốn cho ông Miles Despard chết mà còn mong sao cho Lucy Despard không còn ở trên con đường của cô ta. Vậy thì, ông Miles Despard phải chết nhưng án mạng này phải trút lên đầu Lucy Despard.
Tiến hành một kế hoạch như thế mà không để Mark hay biết là một điều chẳng mấy khó khăn. Hiển nhiên, ngay từ đầu ai cũng biết rằng người đàn bà xuất hiện trong bộ y phục tương tự như nữ hầu tước de Brinvilliers là một người sống trong ngôi nhà này. Tôi có nói với ông bạn Stevens rằng tôi không mấy quan tâm đến những chứng cứ vắng mặt, nhưng để có thể tin là bà Despard hoặc cô Edith là thủ phạm, tôi phải bác bỏ một loạt những chứng cớ mà tôi rất quan tâm. Người khách lạ không phải là một trong hai người này. Vậy là ai chứ? Như người ta nhận xét một cách rất chí lý, có ai đó nhái kiểu chiếc áo. Và, kẻ đó hẳn nhiên là người sống trong ngôi nhà này. Dẫu sao, bà Despard không hề tiết lộ ra bên ngoài ý định bắt chước kiểu áo trong bức tranh đó; vả lại người ngoài không thể nào có dịp thường xuyên xem xét bức tranh để có thể hoàn chỉnh chiếc áo đến nổi bà Henderson phải nhận ra ngay. Nhưng nếu việc nhái kiểu chiếc áo diễn ra ngay trong nhà này, thì tác giả của nó cần phải...
- Phải gì? Stevens không ngăn được phải hỏi.
- Ngăn không cho bất cứ ai bước vào căn phòng nơi đang hoàn thành chiếc áo thứ hai, Cross nhã nhặn đáp. Cái lý lẽ dùng để che đậy chuyện này xảy đến như một phép lạ. Số là trong đêm thứ bảy, bà Stevens có lấy cắp lọ thuốc móc phin trong phòng cô y tá rồi trả lại vào ngày hôm sau. Như chúng tôi được biết, chỉ đến ngày thứ hai Lucy Despard mới có ý định bắt chước kiểu áo của nữ hầu tước de Brinvilliers để tham dự dạ vũ hóa trang. Vào lúc này, Myra Corbett mặc một chiếc áo y hệt như bà Despard, cô ta cũng đeo một mặt nạ và có thể, một mái tóc giả. Như thế, cô chẳng những không lo sợ mà còn mong được người khác trông thấy nữa là đằng khác.
Dẫu sao, phải dự phòng thêm một trường hợp nữa. Phải gọi điện thoại cho bà Despard để chẳng những buộc bà rời khỏi buổi dạ vũ, mà còn nhằm lôi kéo bà về đây. Như thế, bà không thể nào tránh khỏi bị buộc tội.
Hung thủ của chúng ta ngay sau đó trở về ngôi nhà này và khoác lên mình lớp áo hóa trang. Cô ta biết rằng bà Henderson sẽ có mặt ngoài hàng ba vào lúc mười một giờ, để theo dõi chương trình phát thanh mà bà thích. Lúc này, cô còn rộng giờ để chuẩn bị món trứng hòa với rượu tại nhà bếp, bởi bà Henderson vẫn còn ở ngôi nhà gần hầm mộ của bà. Thứ trứng hòa với rượu này là một vị thuốc mà cô y tá có nhiệm vụ mang đến cho bệnh nhân. Ông này chẳng ngạc nhiên khi trông thấy cô ta hóa trang như thế. Ông biết rằng một buổi dạ vũ được tổ chức vào đêm hôm đó và nghĩ cô ta cũng được mời tham dự.
Nhưng Myra có ý định để cho người ta trông thấy... Căn cứ theo cái khấc nơi bức màn. Tôi xin quí vị lưu ý đến một điểm mà lúc đầu chẳng hề làm ai thắc mắc. Bà Henderson đứng nơi đây, ngay chỗ tôi, cạnh máy thu thanh, ở đầu bên kia, sau cánh cửa buông màn đóng kín, là phòng của ông Miles. Mặc dầu vậy, nhân chứng nghe có tiếng đàn bà ở trong ấy. Ta vẫn nghĩ rằng thủ phạm nói nhỏ tiếng; hoặc cô ấy nói bằng giọng bình thường, nhưng đằng này cô ta lại nói hơi lớn tiếng để ở bên ngoài người ta có thể nghe rõ mặc dầu cửa đóng. Điều này diễn ra trong khi cô trao cốc thuốc độc cho bệnh nhân. Chỉ có thể giải thích sự nghịch lý này bởi một điều duy nhất: cô muốn cho người khác biết sự hiện diện của mình.
Dĩ nhiên, trong sự tính toán này có một sự nhầm lẫn. Cái khấc ở phía bên kia bức màn đã khiến cho người ta có thể trông thấy cô ở trong tấm gương. Nhưng vào lúc đó, công việc đầu độc của cô ta đã hoàn tất. Bệnh nhân không uống cạn cốc thuốc - điều này chẳng mấy quan trọng bởi liều lượng asenic ở trong cốc khá cao - và sau đó, cô ta cho chú mèo, bằng cách ngang nhiên để chiếc cốc ở bên dưới tủ áo. Đó là những hành vi của một phụ nữ muốn phô trần tội ác bởi nếu âm thầm đầu độc ông Miles Despard, người ta không dại gì mà bỏ một liều lượng asenic nhiều như thế vào cốc.
Mọi việc xong xuôi, ông Miles Despard không ngờ rằng mình bị đầu độc. Ông kéo chiếc bàn về chỗ cũ, treo tác phẩm của Greuze vào giữa hai khung cửa sổ và đặt chiếc ghế cổ ở bên dưới. Những cố gắng này làm tăng nhanh độ ngấm của thuốc và vì thế, ông Despard không thể đi ra ngoài để kêu cứu, bởi ông chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà.
Đã hơn hai giờ khuya, Mark Despard trở về nhà và trông thấy ông bác đang hấp hối, đúng như anh ta dự tính. Nhưng có điều anh ta kinh hoảng khi biết rằng những chứng cứ của án mạng đang rành rành ra đó. Tôi cũng xin lưu ý là những lời lẽ khó hiểu, cái thái độ kỳ cục của ông Miles, sự khẩn thiết được chôn cất trong một quan tài bằng gỗ và ngay cả sợi thừng... tất cả những điều đó được truyền lại với chúng ta qua sự vẽ vời của Mark Despard.
Mark Despard có lý khi thu giấu chiếc ly và cái cốc cũng như chôn xác con mèo. Nhưng mọi việc không xuôi thuận. Sáng hôm sau, qua lời kể của bà Henderson, anh ta được biết có một người đàn bà mặc một chiếc áo như vợ anh ta trao cốc thuốc độc cho ông Miles. Thế là không nghi ngờ gì nữa, anh ta biết phải xử sự ra sao. Việc đầu tiên của anh ta là yêu cầu bà Henderson giữ kín chuyện. Sau đó, anh ta cần có đủ bằng chứng để xem đây có phải là một âm mưu dàn cảnh và có vết tích asenic ở trong chiếc ly hoặc cái cốc hay không. Kết luận của phòng thí nghiệm xác định điều này. Nhưng tình hình lại diễn biến một cách tồi tệ hơn.
Như chúng ta đã biết, ngay từ lúc khởi đầu vụ án, có tiếng đồn xa gần rằng cái chết của ông Miles là kết quả của một âm mưu ám hại. Mark không tài nào ngăn được tiếng đồn lan rộng đó và như thế, sớm hay muộn (vào thứ năm, ngày hôm sau cái chết, anh chàng mới vỡ lẽ điều này) cũng có lệnh khám nghiệm tử thi. Tôi nghĩ không cần thiết để nói cho quí vị biết ai là tác giả của những tin đồn này.
Để ngăn ngừa nguy cơ mới mẻ trên, cần phải thủ tiêu cái xác mà phần dạ dày chứa đầy asenic. Đám tang cử hành vào ngày thứ bảy. Nhưng cho đến lúc này - kể cả trong khi chôn cất - Mark không thể nào đụng chạm đến cái xác, thứ nhất bởi vì đội mai táng đã lo liệu việc đó, thứ hai (và đây là điều quan trọng hơn cả) là vì cô tình nhân đồng lõa theo sát và cản ngăn không cho anh thi hành ý định này. Như thế thì phải đánh lừa.
Tôi hoàn toàn công nhận rằng thái độ cư xử của cô Corbett trong vụ này quả thật là khôn khéo. Dĩ nhiên, cô ta có thể, ngay sau khi người bệnh qua đời, tuyên bố rằng cô nghi ngờ có sự đầu độc; cô có thể kiến nghị với bác sĩ và yêu cầu ông cho khám nghiệm tử thi ngay. Nhưng, như thế thì quá bất trắc, bất trắc vô cùng. Cô không thể tự mình nêu lên những chứng cứ rành rẽ, bởi vì như thế thì có thể - và ngay cả khó tránh - bị phát hiện là có những quan hệ trước đây với Mark. Điều này cũng có thể xảy ra nếu ai đó thấy cô lăng xăng bên cái xác của ông Miles. Tốt hơn là cô vẫn giữ vai trò của một người y tá chỉ biết chu toàn nhiệm vụ của mình và không hề thắc mắc gì để không ai có thể nghi ngờ và sau đó, bằng một lối bất ngờ nhất, cô thu xếp đế cho những chứng cứ mà cô gieo rắc phát huy tác dụng của nó.
Và lúc này, như thể bị phù phép, mọi việc đều rối bung dưới sự can thiệp của Mark. Rất có thể là, vào buổi sáng thứ năm sau khi nghe bà Henderson, điều này chúng ta chỉ có thể biết sau khi tìm thấy anh, nhưng cái câu chuyện này cùng với cuốn sách ma thuật mà ông Miles đã đọc và hình như khiến cho ông quan tâm lắm thì phải - đặc biệt là chương viết về những người không-chết, đã khởi động trí tưởng tượng của Mark. Và như thế, khi tìm cách đánh lạc hướng, Mark mạo nhận là tìm thấy một sợi thừng có chín gút ở dưới gối của ông bác và đem chuyện người đàn bà đi xuyên tường để phỉnh phờ người bạn của anh là Edward Stevens.. Sở dĩ Mark tung hỏa mù như thế là chỉ vì muốn che đậy phần quan trọng và cốt yếu nhất trong kế hoạch của anh: một điều mà do chính anh ta thuật lại thì ông Miles khẩn thiết yêu cầu được khâm liệm trong một cỗ quan tài bằng gỗ.
Đây là một lời thỉnh cầu khá lạ lùng và có thể gây ra thắc mắc nếu chúng ta không có lời xác nhận của vua James đệ nhất cho rằng tất cả những kẻ sử dụng bùa phép để làm điều quấy đều lựa chọn gỗ và đá trong khi chúng rất sợ sắt thép. Vậy, đây là một cách che đậy tuyệt hảo...
Partington đột ngột đứng dậy:
- Che đậy cái gì chứ? ông hỏi. Làm sao Mark có thể đưa cái xác ra khỏi hầm mộ? Quan tài bằng gỗ hay thép thì có gì là khác biệt?
- Nhưng bác sĩ hãy nghĩ xem, một quan tài bằng gỗ thì dễ chuyển dịch hơn! Cross nóng nảy đáp. Ngay cả một người có thể lực như Mark thì cũng khó mà di chuyển một quan tài bằng thép.
- Di chuyển? Partington hỏi.
- Ông cho phép tôi được nêu lên một vài sự kiên liên quan tới cái xác và hầm mộ: 1) có quan tài, mặc dầu có hai then cài, có thể mở ra một cách nhanh chóng: 2) Miles Despard là một người gầy ốm, chỉ cân nặng một trăm lẻ chín cân Anh 3) ở phía dưới những bậc thang dẫn xuống hầm mộ, ngăn không cho nhìn vào bên trong, là một cánh cửa gỗ mà trong đêm thứ sáu quí vị thấy đóng kín: 4) bên trong hầm mộ có hai cái chậu rất lớn bằng cẩm thạch...
Stevens nói xen vào:
- Nếu ông muốn nói là cái xác được giấu ở một trong hai cái chậu thì ông chỉ mất giờ thôi, bởi chúng tôi xem xét cả rồi!
- Tôi mong tất cả những ai có nhã ý mời tôi đến đây nên giữ im lặng để nghe tôi giải thích, Cross lạnh lùng nói rồi ông tiếp: Và sau cùng là điểm thứ năm, một điểm sẽ làm cho quí vị giật mình. Số là, trong đêm thứ sáu, khi quí vị xuống hầm mộ, quí vị trông thấy những đóa hoa vương vãi trên đất. Tại sao lại như thế? Hẳn nhiên đó là những đóa hoa cắm trong chậu và tang lễ diễn ra thật trang nghiêm nên không có lý do nào để cho những đóa hoa phải tung tóe trên mặt đất.
Chính vì thế, chúng ta hãy xét đến những sự việc xảy ra vào chiều thứ bảy 15 tháng tư, hôm cử hành lễ an táng. Mark thuật lại cho các bạn thật chính xác và đầy đủ về buổi lễ. Anh ta không thể làm khác hơn bởi các nhân chứng vô tư nhất cũng xác nhận những chi tiết đó. Vậy thì, các bạn hãy nhớ lại một vài chi tiết.
Mark Despard công nhận rằng chính anh là người sau cùng rời khỏi hầm mộ. Ngoại trừ vị mục sư, tất cả mọi người đều trở về. Nhưng, vị mục sư có ở dưới bầm mộ hay không? Không, bởi theo như lời kể của Mark, chẳng ai muốn hít thở không khí ngột ngạt của hầm mộ vì thế vị mục sư chờ Mark ở đầu bậc thang, nơi ông có thể thở không khí trong lành hơn. Ngăn cách giữa anh ta và ông là một cánh cửa bằng gỗ. Mark ở lại bên dưới, với lý do là thu gom những giá nến bằng sắt. Anh nói rằng công việc không kéo dài hơn một phút và tôi nghĩ chẳng có lý do nào để nghi ngờ lời quả quyết đó bởi sáu mươi giây là quá đủ cho hành động của anh, như chúng ta biết: kéo cỗ quan tài ra khỏi hộc, mở then cài, lôi cái xác ra và gấp đôi lại để nhét vào trong hai cái chậu. Xong xuôi đâu đó. Mark đậy nắp quan tài lại và trả về chỗ cũ. Vị mục sư, dẫu có nghe một tiếng động nào chăng nữa, cũng nghĩ là Mark đang thu dọn những chiếc giá nến. Vậy là cái xác được giấu kín ở trong chậu, dưới những bó hoa. Dấu tích duy nhất để lại là đám hoa thừa mà Mark buộc phải vung vãi trên đất.
Nhưng, tất cả những chuyện đó chỉ là phần đầu. Phần còn lại như chờ đợi một phép lạ.
Cái phép lạ này nhằm vào hai mục đích, nếu Mark tài tình tạo nên một không khí bí ẩn và lạ lùng, thì mục tiêu của trò bịp bợm đó là cố tạo ra một vẻ siêu nhiên quanh chuyện cái xác đột nhiên biến mất. Nhưng, cho đến khi không còn cái xác, khi mà phép lạ xảy ra, Mark cũng không thể mạnh dạn dựa vào yếu tố siêu nhiên bởi nếu thế, mọi người sẽ nghĩ rằng anh là kẻ mất trí và từ chối tiếp tay anh. Vả lại, anh rất cần đến họ bởi hầm mộ phải được kín đáo khai quật trong đêm, tránh xa cặp mắt tò mò của cảnh sát, trong khi vẫn giữ được không khí kỳ bí mà anh ta khéo léo dàn dựng.
Trước tiên, tôi sẽ nói vắn tắt tại sao Mark Despard lại gạt gẫm quí vị. Tôi xin ngả nón bái phục anh ta về cái vai trò quá xuất sắc đó. Mark biết chắc là các bạn sẽ bị chấn động khi phát hiện cỗ quan tài trống.
Trong khi các bạn xuống hầm mộ thì Mark là người duy nhất sử dụng đèn bấm. Anh ngăn cản, không để các bạn mang theo đèn lồng, với lý do là không khí dưới hầm mộ rất ngột ngạt. Thế rồi các bạn mở nắp quan tài... và thấy trống trơn. Chuyện đủ để cho mọi người phải kinh hoàng. Sau những giây phút sững sờ đó, cảm nghĩ đầu tiên của quí vị ra sao, và nếu tôi không lầm thì đó cũng chính là điều mà Mark đã gợi ý, có phải thế? Vậy quí vị còn nhớ những lời nói đầu tiên đó của anh ta?
- Vâng, Stevens đáp, tôi nhớ ra rồi. Anh ta đã nói: Phải chăng chúng ta nhầm quan tài?
- Đúng thế, Cross tán đồng. Mark muốn cho các bạn tin rằng nếu cái xác không ở trong quan tài thì đương nhiên nó phải ở một nơi nào đó, và quả đúng thế, bởi trong lúc này cái xác đang nằm trong chậu, dưới những bó hoa. Nhưng anh có điều kiện thuận lợi hơn các bạn nhiều: Chính anh là người sử dụng cây đèn bấm. Anh ta có thể hướng ánh đèn theo ý mình để quyết định hướng tìm kiếm và tất cả các bạn đều nghĩ rằng cái xác đang ở trong một quan tài khác. Thế thì điều gì xảy ra? Trước tiên, các bạn xem xét hàng quan tài ở phía dưới, rồi sau đó được gợi ý rằng có thể cái xác nằm trong một quan tài ở bên trên... Và đến đây, chúng ta bước sang phần đơn giản nhất của toàn bộ câu chuyện. Mục đích duy nhất của Mard Despard là kiếm một cái cớ để cho tất cả, ngoại trừ anh, phải ra khỏi hầm mộ trong vòng ít phút. Henderson và Stevens phải trở lại nhà để lấy ghế đẩu trong khi Partington thì bị khuyến dụ đi làm vài cốc rượu. Một nhân viên công an theo dõi hành động của các bạn, đã ghi nhận rằng vào lúc mười hai giờ hai mươi tám phút, Stevens, Partington và Henderson đều vắng mặt ở hầm mộ. Stevens và Henderson chỉ quay trở lại đó vào mười hai giờ ba mươi hai, và Partington mười hai giờ ba mươi lăm. Nếu nhân viên công an cứ tiếp tục theo dõi hầm mộ thì toàn bộ kế hoạch coi như hỏng bét, nhưng có điều là gã theo họ về nhà. Như thế là từ mười hai giờ hai mươi tám phút đến mười hai giờ ba mươi hai, nghĩa là trong vòng bốn phút, hoàn toàn chẳng có ai ở bên cạnh Mark Despard.
Hẳn tôi cần phải nói cho quí vị về chuyện mà Mark làm trong bốn phút đó? Anh ta lôi cái xác từ trong chậu ra, mang đến nhà lão Henderson và giấu nó ở trong phòng ngủ. Vậy là, sau khi mọi người trở lại, Mark có thể gợi ý rằng tất cả nên thử nghiêng hai cái chậu để xem sao. Và điều này được thi hành, dĩ nhiên, không có kết quả.
Nghe đến đây, Joe Henderson bỗng nói, giọng run rẩy:
- Thưa ông, theo như ông thì trong đêm hôm đó khi tôi trông thấy cố Miles ngồi trên chiếc ghế xích đu...
- À! đúng rồi, tôi quên mất chi tiết này. Nè ông bạn của tôi, không phải ông trông thấy bóng ma ông Miles, mà đích thực là ông ta đấy. Điều hiển nhiên là sau khi cái xác bị lấy cắp khỏi hầm mộ, Mark có thể dựa vào những yếu tố siêu nhiên. Anh ta đề cập đến chuyện người đàn bà đi xuyên tường, rồi bỏ cuốn sách viết về ma thuật vào tủ của ông Miles. Tôi tự hỏi phải chăng khúc dây tìm thấy trong quan tài là do con của lão Atkinson bỏ lại. Nếu đúng như thế, Mark ắt hẳn mất hồn, tựa như ngày hôm qua khi anh biết rằng bà Stevens có thể bị cáo buộc!
Về chuyện liên quan đến những viên mócphin, quí vị nên nhớ rằng bà Stevens chỉ lấy một viên mà thôi. Hai viên mất kia là do Mark đánh cắp, chẳng hiểu có được sự thỏa thuận hay không của kẻ đồng lõa với anh.
Mark có ý định đánh thuốc lão Henderson nhằm đưa cái xác ra khỏi phòng để tiêu hủy...
- Tiêu hủy cái xác? Edith kêu lên.
- Bằng cách đốt, chắc là như thế. Hình như từ hai hôm nay, hệ thống sưởi tại đây bị đun quá mức... Nhưng xảy ra trở ngại bởi cô Edith và bà Despard bất ngờ nhận được những bức điện tín lạ lùng. Dẫu sao, sự cố này cũng chỉ làm trễ kế hoạch do Mark trù tính. Tối hôm đó, trong khi mọi người đi nghỉ, anh ta dàn xếp để lão Henderson phải một mình đi kiếm tấm bạt phủ lối vào hầm mộ. Anh ta biết rằng, để làm việc này, Henderson phải vượt qua hàng trăm thước băng ngang khu nhà, một khoảng thời gian đủ để Mark lôi cái xác ra khỏi phòng Henderson. Rủi thay, ngay sau đó, lão Henderson chợt nhớ rằng mình để tấm bạt tại nhà. Chính vì thế mà trong cùng một lúc, Mark và lão xuất hiện tại nơi đây. Nhưng Mark bỏ móc phin trong ly rượu mà trước đó anh ta và lão cùng nâng ly và lúc này thì thuốc bắt đầu ngấm. Bóng đèn bị tháo ra khỏi chuôi... Một cái xác ngồi đu đưa trong ghế xích đu thậm chí còn đưa cao tay... Thế là quá đủ để gây kinh hoàng cho một người vốn đã bị hù dọa và ngấm thuốc móc phin. Sau đó, Mark có rộng thời gian để thanh toán cái xác.
Cross lặng im một lúc rồi mỉm cười lịch thiệp:
- Tôi muốn nói thêm một vài điều. Hẳn quí vị cũng nhận thấy là ngày hôm nay, không khí ở trong nhà giảm xuống một cách bất thường. Như thế là vì, trong lúc chúng ta đang ngồi đây, những nhân viên của đại úy Brennan đang xem xét hệ thống sưởi. Rất có thể là họ chẳng tìm thấy gì, nhưng...
Myra Corbett bước hai bước về phía trước, người lảo đảo. Một vẻ vô cùng kinh khiếp hiện trên nét mặt của cô:
- Tôi không tin ông! Không! Mark không hề làm những chuyện đó! Nếu có, anh ấy đã nói với tôi!
- À! Cross nhấn giọng, thế thì cô công nhận là có đầu độc ông Miles Despard. Ở điểm này, thưa các bạn, chúng ta chỉ còn một điều cần làm sáng tỏ, trong trường hợp của cô Corbett White. Quả đúng là ngày hôm qua cô ta có kể một câu chuyện khiến bà Stevens có thể bị kết án. Điều làm cho cô ta và mọi người ngạc nhiên là bà Stevens thực sự có dò hỏi nơi bán asenic, cũng như cô Edith Despard có mua thứ thuốc độc này. Nhưng các bạn hãy nhớ là lúc đó cô Corbett không đồng ý khi các bạn cho rằng có lẽ bà Stevens là người gợi ý về chuyện thuốc độc. Cô ta cứ một mực quả quyết rằng chính là Lucy Despard! Cô vẫn đeo đuổi mục tiêu ban đầu và chỉ ngưng buộc tội bà Despard sau khi nhận thấy rằng bà này có một chứng cứ vắng mặt quá vững chắc. Như vậy, nếu cô công nhận là đầu độc...
- Tôi không giết ông ấy! Myra Corbett gào lên. Ngay cả nghĩ đến chuyện đó tôi cũng chẳng hề. Mark là tất cả những gì mà tôi ao ước. Không phải vì phạm tội mà anh bỏ trốn, nhưng chỉ vì... Người vợ của ảnh! Ông không thể chứng minh rằng tôi đã giết ông Miles Despard! Ông không thể tìm thấy cái xác! Ông muốn đối xử với tôi ra sao thì tùy ý, nhưng ông không thể buộc tôi phải chấp nhận một điều như thế!
Nàng im bặt, gần đứt hơi. Rồi nàng nói tiếp, giọng van nài:
- Chẳng ai tin tôi cả sao?
Ogden Despard đưa tay ra:
- Có chứ. Hình như tôi đang bắt đầu tin cô đây! Gã nói. Rồi quay sang những người khác: Dẫu những hành vi của tôi ở trong quá khứ có như thế nào, thì giờ đây tôi nghĩ rằng chúng được minh chứng và còn một điểm mà tôi muốn quí vị lưu ý: trong đêm xảy ra án mạng, người gọi điên thoại là tôi. Tôi muốn xem phản ứng của Lucy thế nào khi nghe tin Mark nối lại tình xưa.
Brennan chăm chăm nhìn Ogden trong khi Cross nâng cao ly rượu, hơi nghiêng mình về phía gã.
- Uống mừng sức khỏe của cậu, ông nói, bởi vì ít ra có một lần trong cuộc đời khá vô tích sự của cậu, cậu đã giúp đỡ một người. Tuy chưa hề nhầm lẫn trong những xét đoán, tôi có một tinh thần khá cởi mở để sẵn sàng xem xét về cậu...
Ông im bặt. Những người khác đang nhìn cô y tá chợt bước một bước về phía trước khi họ nghe một tiếng động mạnh ở phía sau. Quay lại nhìn, họ trông thấy Cross ngã sụm trên chiếc máy thu thanh. Ông đang thoi thóp. Rồi tất cả đều chết cứng vì kinh ngạc khi thấy ông té nhào xuống đất và nằm bất động. Partington quì gối bên cạnh ông:
- Ông ta đã chết, vị bác sĩ nói.
- Bộ anh điên rồi hay sao! Brennan thốt lên. Ông ấy chỉ ngất xỉu... Có thể vì trượt chân... Nhưng đâu thế nào...
- Ông ta đã chết, Partington nhắc lại. Ông hãy xem đi. Và cái mùi này thì tôi quả quyết rằng ông Cross chết vì uống phải xianuya. Thuốc độc tác dụng cực nhanh. Tốt hơn, ông nên để cái ly này sang một bên...
Brennan bước đến bên xác và sau khi xem xét, ông nói:
- Đúng, ông ấy chết thật. Này Myra Corbett, ông tiếp khi quay sang cô y tá, chính cô mang đến cho ông Cross ly rượu này và chỉ có cô là người pha chế nó. Sau khi nhận ly rượu, ông Cross để nó trên máy thu thanh. Không ai ở cạnh ông ta. Chẳng ai có thể đầu độc ông, ngoại trừ cô. Nhưng, trái với điều cô mong muốn, ông ấy không uống ngay ly rượu. Là một người say mê với câu chuyện của mình, ông đợi đến lúc sẽ nâng ly. Nếu trước đây chúng tôi không có đủ chứng cứ để đưa cô lên ghế điện thì giờ đây, mọi việc đã khác rồi!
Cô ta mỉm cười với vẻ chẳng tin, như người đột nhiên mất trí. Nhưng các nhân viên của Brennan, khi áp giải cô, thậm chí phải xốc hẳn cô lên.