Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.11
“T
ôi không biết là ông ấy đã cố liên lạc.” Tom ngồi cạnh Isabel trên hiên nhà sau. Anh lật đi lật lại chiếc phong thư đã cũ mèm, sờn nát, gởi cho anh “nhờ chuyển qua Tiểu đoàn 13, AIF”. Trên mặt phong thư biết chi chít các địa chỉ nhờ chuyển và chỉ dẫn kèm theo, cuối cùng là một dòng chữ lạnh lùng viết bằng bút chì xanh yêu cầu “trả về cho người gởi” – tức Ngài Edward Sherbourne, cha của Tom. Lá thư báo tin ông cụ đã qua đời được chuyển đến cùng với một gói bưu phẩm ba ngày trước, theo chuyến tiếp tế tháng Sáu.
Thư của nhà thờ và hãng luật Hattersley & Parfitt theo đúng thủ tục, chỉ liệt kê thông tin. Ung thư vòm họng, ngày 18 tháng Giêng năm 1929. Mất vài tháng họ mới tìm ra Tom. Anh trai Cecil là người thừa kế tài sản duy nhất, phần Tom chỉ có mỗi mặt dây chuyền hình trái tim bằng vàng, bên trong lồng ảnh của mẹ anh, gởi kèm theo lá thư đã từng cố đuổi theo dấu vết của Tom khắp nơi.
Đêm đó, anh mở gói bưu kiện sau khi đã châm đèn. Anh ngồi trong buồng đèn, bắt đầu đọc những dòng chữ viết tay cứng cỏi, nhọn sắc, thấy lạnh lùng như không.
“Merrivale”
Sydney
Ngày 16 tháng Mười năm 1915
Thomas yêu quý,
Tôi viết thư này vì biết tin anh đã tòng quân. Tôi không phải là người văn hoa lắm chữ. Nhưng giờ anh đã ở xa quá, mà chiến tranh rồi không biết sẽ ra sao, có khi không còn gặp nhau được nữa, thành thử tôi viết cho anh.
Có rất nhiều chuyện tôi không thể giải thích với anh mà không nói gì phương hại đến mẹ anh, mà tôi thì không muốn gây thêm trở ngại gì nữa, sau những chuyện đã rồi. Do đó, có những chuyện tốt nhất không bao giờ nói đến. Tôi có lỗi một phần, và giờ đây tôi muốn sửa sai lầm đó. Kèm thư này là món đồ trang sức mà mẹ anh muốn để lại cho anh, khi bà ấy rời nhà. Trong này có hình của bà ấy. Khi đó tôi nghĩ rằng tốt nhất không nên nhắc gì đến mẹ anh nữa, nên đã không đưa cho anh. Quyết định tách bà ấy khỏi cuộc sống của anh là chuyện không hề dễ dàng với tôi.
Giờ đây mẹ anh đã tạ thế, tôi thấy cần làm đúng yêu cầu của bà ấy, cho dù đã muộn.
Tôi đã nuôi dạy anh thành người ngoan đạo. Tôi đã đảm bảo cho anh được học hành tử tế. Tôi hy vọng đã giúp anh biết phải trái đúng sai: không có sự thành đạt hay lạc thú nào ở đời có thể bù đắp cho một tâm hồn không trong sạch.
Tôi tự hào vì anh đã nhập ngũ. Anh đã trở thành một thanh niên hữu trách. Khi chiến tranh kết thúc, tôi sẽ rất sẵn lòng tìm cho anh một vị trí trong công ty. Cecil có thiên hướng làm nhà quản lý tốt, tôi biết anh ấy sẽ điều hành nhà máy suôn sẻ sau khi tôi nghỉ hưu. Nhưng tôi cũng chắc sẽ luôn có chỗ cho anh.
Tôi thấy đau lòng khi phải biết tin anh lên đường qua người khác. Tôi cũng muốn được nhìn thấy anh mặc quân phục, được tiễn anh lên đường, nhưng tôi đoán biết rằng sau khi tìm ra mẹ anh và biết rằng bà ấy đã mất có lẽ anh chẳng thiết gặp tôi nữa.
Do đó, tôi để sự vụ tùy anh. Nếu anh hồi âm lá thư này, tôi sẽ rất vui lòng. Dù sao đi nữa anh cũng là con trai tôi. Đến khi có con, anh sẽ hiểu.
Tuy nhiên nếu anh không muốn hồi âm, tôi cũng sẽ tôn trọng lựa chọn của anh và sẽ không phiền anh nữa. Dù sao tôi vẫn sẽ cầu nguyện cho anh được an toàn nơi chiến trận để khải hoàn trở về quê hương.
Người cha yêu thương của anh,
Edward Sherbourne.
Tom không còn nhớ lần cuối cùng anh nói chuyện với cha là khi nào. Viết một lá thư như vậy hẳn rất khó khăn với ông. Chuyện ông cố liên lạc với anh sau cuộc chia tay khá cay đắng không chỉ làm Tom ngạc nhiên, mà còn thấy sốc. Chẳng có gì là chắc chắn. Tom tự hỏi sự lạnh lùng của ông phải chăng là để bảo bọc lấy vết thương lòng qua ngần ấy năm. Lần đầu tiên anh thoáng nhận ra, dưới vẻ ngoài sắt đá đó, chỉ trong thoáng chốc thôi, anh mường tượng một người đàn ông sống nguyên tắc, bị người đàn bà mình yêu làm tổn thương nhưng không thể bộc lộ được nỗi lòng.
Tom đi tìm mẹ vì một lý do rất cụ thể. Khi anh đứng bên ngoài cánh cửa căn phòng trọ, giày đánh sáng bóng, móng tay cắt sạch sẽ, trong đầu anh nhẩm lại những lời đó một lần cuối. “Con xin lỗi đã khiến mẹ phải chịu khổ.” Lúc đó anh cảm thấy run rẩy như đứa trẻ đã đợi mười ba năm, chỉ để nói những lời đó. Anh thấy dợn cả người. “Con chỉ nói rằng con có thấy một chiếc xe. Rằng có xe đậu ở ngoài nhả. Con không biết…”
Phải nhiều năm sau Tom mới hiểu hết được hậu quả của những lời nói ngây thơ ngày trước. Mẹ anh bị cho là không đủ tư cách làm mẹ, rồi bị cấm liên lạc với anh. Nhưng hành trình sám hối của Tom đã quá muộn, anh sẽ không bao giờ được nghe mẹ tha thứ cho tội phản bội, mặc dù chỉ là sự ngây thơ con trẻ. Lời nói có khi thật trớ trêu không lường được. Tốt hết cứ giữ kín trong lòng, cuộc đời đã dạy Tom như thế.
Anh nhìn lại hình mẹ trong món đồ trang sức. Có lẽ cả cha lẫn mẹ đều yêu thương anh, mặc dù tình yêu đó vô cùng trắc trở. Anh thấy mình đột nhiên giận sôi lên trước chuyện cha anh tự cho mình cái quyền tách anh ra khỏi người mẹ: vừa chân thành, vừa tàn nhẫn.
Chỉ khi giọt nước mắt khiến dòng chữ nhòe đi Tom mới biết mình đang khóc. “Đến khi có con, anh sẽ hiểu.”
Anh ngồi ngoài hiên với Isabel. Cô an ủi anh “Mặc dù đã không gặp nhau chừng đó năm, ông ấy vẫn là cha mình. Trên đời chỉ có một thôi. Đương nhiên mình sẽ thấy đau đớn chứ.”
Tom tự hòi liệu Isabel có nhận ra sự trớ trêu trong lời cô vừa nói không.
“Thôi mà, Lucy, uống ca cao đi.” Isabel cất tiếng gọi con gái ngay sau đó.
Con bé chạy đến, hai tay chụp lấy tách ca cao. Nó quẹt cánh tay qua miệng, thay vì chùi bằng bàn tay lấm lem, rồi đưa cái tách lại cho Isabel. “Cảm ơn má,” con bé hớn hở nói. “Lulu cưỡi ngựa về Pataterz thăm ông ngoại bà ngoại đây,” nói rồi con bé chạy về phía con ngựa gỗ.
Tom nhìn món trang sức trong bàn tay. “Hàng năm trời tôi cứ nghĩ mẹ ghét bỏ tôi vì đã làm lộ bí mật của mẹ. Tôi chẳng biết gì về món đồ này…” Môi dưới anh bặm lại, miệng anh mím chặt. “Nếu biết thì đã khác.”
“Em biết em sẽ không nói được gì lúc này. Em ước gì em có thể… em cũng không biết nữa, làm được gì đó cho mình.”
“Má ơi con đói,” Lucy chạy trở lại, la lên.
“Chạy nhảy kiểu đó thì hỏi sao không đói!” Isabel vừa nói vừa bế xốc con lên tay. “Lại đây đi. Lại đây ôm ba một cái. Hôm nay ba buồn lắm đó.” Rồi đặt con bé vào lòng anh, rồi hai má con ôm anh thật chặt.
“Cười đi ba,” con bé nói, “cười như Lulu nè,” con bé nhe răng ra làm mẫu.
***
Ánh sáng chiếu xuyên qua đám mây, như tìm cách né những cơn mưa còn ở xa. Lucy ngồi trên vai Tom, mỉm cười nhìn quanh.
“Chỗ này!” nó reo lên, chỉ ngón tay về bên trái. Tom đổi hướng, hai cha con đi xuống đồng cỏ. Một con dê vừa gặm đứt chuồng tạm rồi bỏ đi đâu mất, Lucy nài nỉ để được đi tìm với anh.
Dưới chỗ vịnh cũng không có. Chắc hẳn nó không thể đi xa được. “Mình đi tìm chỗ khác đi,” Tom nói. Anh bước ra phần đất phẳng một lần nữa, đi đủ một vòng. “Đi đâu bây giờ hả Lulu? Con chọn đi.”
“Dưới kia!” Con bé chỉ một lần nữa, về hía bên kia hòn đảo, rồi hai cha con lại tiếp tục đi.
“Từ nào có vần ‘ê’ như ‘con dê’ hả Lulu?”
“Búp bê!”
“Đúng rồi. Còn từ nào khác nữa?”
Con bé cố lần nữa. “Búp bê?”
Tom bật cười. “Mùa thu có trái gì hả Lulu?”
“Trái táo.”
“Đúng rồi, nhưng trái gì gần với trái táo mà cùng vần với con dê nhỉ? Bắt đầu bằng âm ‘lờ’.”
“Trái lê!”
Anh cù vào bụng con bé. “Trái lê, búp bê, con dê. Mà nhìn kìa… Lucy con nhìn dưới kia kìa, gần bãi biển đó.”
“Nó kìa ba ơi! Chạy tới đi ba!”
“Đừng chạy, thỏ con à. Mình mà chạy thì nó sẽ hoảng sợ, sẽ chạy mất. Mình phải thật nhẹ nhàng.”
Tom mải suy nghĩ nên ban đầu không nhận ra con dê vừa tìm ra chỗ gặm cỏ mới.
“Con nhảy xuống đi.” Anh đỡ Lucy qua vai mình rồi xuống bãi cỏ. “Con ở đây ngoan, để ba đi bắt con Flossie về. Ba sẽ thắt dây qua cổ rồi dắt nó về đây dễ như không.
“Được rồi, Flossie. Thôi nào, không làm trò nữa nào.” Con dê ngẩng lên nhìn anh rồi lùi lại vài bước ra xa. “Đủ rồi. Đứng im.” Tom chộp lấy cổ nó, thắt dây quanh đó. “Được rồi, xong rồi. Đi nào, Lulu…” Anh quay người lại, thấy hai cánh tay nhói lên, một giây sau anh nhận ra vì sao. Lucy đang ngồi trên một mỏm đất nơi cỏ mọc dày hơn những chỗ chung quanh. Thông thường anh tránh phần này trên đảo, với anh, nơi đó – chỗ người quá cố nằm, lúc nào cũng có vẻ phủ bóng ảm đảm, mặc cho trời nắng đẹp tới đâu chăng nữa.
“Nhìn nè ba nè, con tìm được cái ghế nè ba,” con bé vừa nói vừa mỉm cười.
“Lucy! Leo xuống ngay!” Anh hét lên mà không kịp suy nghĩ.
Lucy xịu mặt xuống, nước mắt chảy ra vì hoảng hốt – chưa bao giờ bị la mắng, con bé bắt đầu khóc.
Anh chạy lại bế nó lên. “Ba xin lỗi Lulu. Ba không có ý làm con sợ,” anh nói, thấy xấu hổ với chính mình. Cố che đi nỗi hoảng hốt, anh vội vã đi ra mấy bước. “Chỗ đó không ngồi được đâu con à.”
“Tại sao không?” con bé gào lên. “Ghế đặc biệt của Lulu mà. Ghế thần đó ba.”
“Chỉ là…” anh ôm con bé, dụi đầu nó vào cổ mình. “Chỗ đó không ngồi được, cưng à.” Anh hôn lên đầu con.
“Lulu có hư không ba?” con bé hỏi, vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra.
“Không. Không hề hư. Lulu của ba không hư.” Anh hôn lên má con rồi vuốt mấy sợi tóc vàng khỏi mắt nó.
Nhưng khi ôm con, lần đầu tiên trong hàng năm trời anh nhận ra cũng chính đôi bàn tay đó đã đẩy người cha của con bé xuống huyệt mộ. Anh nhắm mắt, nhớ lại cảm giác trong từng thớ thịt, sức nặng của con người đó, rồi nghĩ đến sức nặng của Lucy trong tay anh. Dường như Lucy còn nặng hơn.
Anh thấy có bàn tay đập vào má mình. “Ba ơi! Ba nhìn con đi!” con bé nói.
Anh mở mắt ra, nhìn con trong im lặng. Cuối cùng, anh hít một hơi sâu rồi nói. “Giờ mình đưa Flossie về nhà. Con giữ sợi dây cho ba được không?”
Con bé gật đầu, anh buộc sợi dây quanh cổ tay nó, bế nó ngang hông suốt quãng đường dốc về nhà.
Buổi chiều hôm đó trong bếp Lucy vừa định leo lên ghế thì quay sang hỏi Tom. “Chỗ này có ngồi được không ba?”
Anh không ngẩng lên nhìn, tiếp tục sửa tay nắm cửa bị hư. “Ừ ngồi được Lulu à,” anh nói mà không nghĩ gì.
Khi Isabel đến ngồi gần nó, Lucy hét lên “Không được đâu má, không được ngồi đó! Chỗ đó không ngồi được.”
Isabel bật cười. “Lúc nào má cũng ngồi đây mà cưng. Má nghĩ chỗ này ngồi rất thích.”
“Không được ngồi chỗ đó. Ba nói vậy!”
“Ba ơi, Lulu nó nói gì vậy hả?”
“Rồi tôi sẽ kể với mình sau,” anh nói, với tay lấy chiếc chìa vít, hy vọng Isabel sẽ quên bẵng di.
Nhưng cô không quên.
Sau khi đã cho Lucy đi ngủ, Isabel hỏi lại lần nữa. “Chuyện gì vậy hả mình? Con bé rất lo lắng khi em ngồi lên giường nó đọc truyện cho nó nghe. Nói là ngồi chỗ đó sẽ làm ba giận.”
“À, chỉ là một trò chơi nó nghĩ ra vậy thôi. Chắc tới mai nó sẽ quên mất.”
Nhưng trong buổi chiều hôm đó Lucy đã khiến bóng ma của Frank Roennfeldt quay về. Ký ức về gương mặt của Frank cứ ám ảnh Tom mỗi khi anh nhìn về hướng những ngôi mộ.
“Đến khi có con…” Tom từng nghĩ đến mẹ ruột của Lucy rất nhiều lần, nhưng giờ đây anh mới nhận ra tội lỗi của mình với người cha của con bé. Vì anh mà Frank không có đến một vị linh mục làm lễ khi qua đời; không thể sống mãi trong ký ức của Lucy, như cái quyền của một người cha quá cố. Trong giây lát, Lucy chỉ cách gốc gác của mình mấy tấc đất – dưới kia là Roennfeldt, là sợi dây nối ruột thịt. Tom thấy lạnh toát người khi nhận ra biết đâu chính tay anh đã giết những người bà con của Frank – cũng có thể lắm, chính anh đã giết máu mủ ruột rà của con người tạo ra Lucy. Đột nhiên, những gương mặt của kẻ thù, sống động và giận dữ, giờ đây lại bước ra từ hầm mộ chôn sâu trong mớ ký ức của anh, có lúc đã tưởng không bao giờ khơi đến.
Sáng hôm sau khi Isabel và Lucy đi nhặt trứng, Tom quyết định sẽ dọn dẹp lại phòng khách. Anh bỏ hết đám bút chì của Lucy vào hộp bánh qui, sắp lại mấy cuốn sách của con bé. Anh tìm thấy cuốn sách cầu nguyện mà Ralph tặng con bé. Nhân dịp lễ rửa tội, Isabel vẫn thường hay đọc cho nó nghe. Anh lật qua những trang giấy mỏng tang, viền ánh vàng. Những lời cầu nguyện buổi sáng, nghi thức thánh thể… Lật qua những bài thánh thi, mắt anh dừng lại ở thánh thi số 37, Noli aemulari. “Chớ phiền lòng vì những kẻ làm ác, cũng đừng ganh tức những kẻ làm chuyện gian tà. Rồi chúng cũng bị phát sạch như cỏ dại, và héo úa như đám rau vừa xanh.”
Isabel cõng Lucy vào nhà, hai mẹ con đang cười chuyện gì đó. “Trời đất, sạch gọn quá đi thôi! Có cô tiên nào vừa mới ghé qua chăng?” Isabel hỏi.
Tom đóng cuốn sách lại, đặt nó ngay ngắn trên chồng sách. “Tôi chỉ dọn lại cho đúng chỗ thôi mà,” anh nói.
***
Mấy tuần sau Ralph và Tom ngồi dựa lưng vào bức tường đá nơi nhà kho, sau khi đã dỡ hết hàng tiếp tế tháng Chín. Bluey còn ở dưới thuyền, đang sửa lại sợi dây xích neo thuyền còn Isabel ở trong bếp với Lucy, làm bánh gừng hình người. Sáng hôm đó khá vất vả, hai người đàn ông giờ đây ngồi uống chung một chai bia, trong ánh nắng mùa xuân còn dè dặt.
Đã hàng tuần nay Tom cứ chờ đợi khoảng khắc này, nghĩ đến việc anh sẽ khơi chuyện ra sao khi thuyền đến. Anh hắng giọng rồi hỏi, “Bác đã bao giờ… làm chuyện gì sai chưa hả bác Ralph?”
Ông lão nhìn Tom lạ lùng. “Anh nói vậy là ý sao?”
Lời nói thốt ra thật vụng về, mặc dù Tom đã chuẩn bị kỹ. “Cháu muốn nói về chuyện… làm sao để sửa sai khi mình đã làm điều quấy.” Mắt anh nhìn chăm chăm vào hình con thiên nga đen trên nhãn chai bia, cố lắm anh mới giữ được bình tĩnh. “Ý cháu là một điều sai trái rất nghiêm trọng.”
Ralph nốc một hơi bia rồi nhìn xuống bãi cỏ, chậm rãi gật đầu. “Anh muốn kể gì hả? Thực tình tôi không có ý nhiều chuyện, không muốn xía vào.”
Tom vẫn ngồi yên, cảm nhận rõ sự nhẹ nhõm nếu anh trút được gánh nặng câu chuyện của Lucy. “Cha cháu vừa mất, khiến cháu nghĩ tới những thứ mình đã làm sai trong đời, nghĩ làm sao để sửa sai trước khi mình chết đi.” Anh mở miệng chuẩn bị nói tiếp, nhưng hình ảnh Isabel tắm cho đứa con chết non hiện về, khiến anh nghẹn giọng.
“Cháu còn không biết đến tên họ nữa…” Anh thấy ngạc nhiên khi khoảng trống được lấp đầy nhanh đến vậy, với những suy nghĩ khác, tội lỗi khác.
“Tên ai kia?”
Tom ngập ngừng, anh cảm thấy như mình đang đứng bên bờ vực, đang nghĩ xem có nên nhảy xuống không. Anh nhấp bia. “Những người bị cháu giết hồi đó.” Lời nói rơi ra, cụt ngủn, nặng nề.
Ralph suy nghĩ trước khi trả lời. “Nhưng chiến tranh là vậy mà. Hoặc giết hoặc bị giết.”
“Càng về sau cháu thấy mọi thứ mình làm lúc đó càng điên loạn.” Tom thấy mình như bị nhốt trong từng khoảng khắc trôi đi, cứ như có gì đó đang đè nén lên mọi giác quan của anh, lên mọi suy nghĩ chất chứa tội lỗi, càng lúc càng dây thêm qua nhiều tháng. Anh thấy nghẹt thở. Ralph vẫn ngồi im, chờ đợi.
Tom quay sang ralph, đột nhiên run rẩy. “Chúa ơi, cháu chỉ muốn làm sao cho phải thôi, bác Ralph à! Nói cho cháu biết phải làm sao đây! Cháu… Cháu không chịu được nữa! Cháu không thể chịu được nữa.” Anh ném cái chai xuống đất. Chai bia vỡ tan tành trên mặt đá, những lời nói tan vào thổn thức.
Ralph choàng tay qua anh. “Được rồi, con trai. Từ từ đã. Tôi đã sống lâu hơn anh một chút. Thấy đủ rồi. Đúng sai nhiều khi như hai con rắn quái quỷ vậy; quấn vào nhau mình không biết đâu là đâu, cho tới khi bắn chết cả hai, rồi lúc đó thì đã muộn mất.”
Ông lão nhìn Tom, nhìn thật lâu, không nói năng gì. “Vấn đề ở đây là; bới lại chuyện cũ thì có ích? Có sửa được gì nữa đâu.” Những lời đó, không hề có chút phán xét hay hằn học nào, lại như lưỡi dao xoáy vào tận gan ruột Tom. “Lạy Chúa, muốn người ta trở nên điên loạn thì cách nhanh nhất là để anh ta cứ vật vã đúng sai.”
Ralph khẩy chỗ ngón tay bị sần. “Nếu tôi có con trai, tôi sẽ rất tự hào nếu nó chỉ bằng được một nửa của anh. Anh là người tử tế, Tom à. May mắn nữa, có vợ như vậy, con gái như kia. Cứ tập trung vào những gì tốt nhất cho gia đình anh hiện giờ. Ơn giời đã cho anh một cơ hội thứ hai, nên tôi nghĩ Người cũng không phiền chuyện hồi đó anh làm gì, hay không làm gì. Anh phải nghĩ tới hiện tại. Chuyện gì làm được thì làm ngay hôm nay, còn chuyện cũ thì quên đi. Những việc khác để cho thánh thần, hay ma quỷ, hay gì gì nữa lo liệu.”
***
“Muối ăn. Không cách gì mà hết được. Chỉ cần không để ý thì chỗ nào cũng bị muối ăn.” Ngày hôm sau khi nói chuyện với Ralph, Tom lẩm bẩm một mình. Lucy ngồi bên cạnh anh trong chiếc đèn kính khổng lồ, cho búp bê ăn kẹo tưởng tượng trong khi anh chùi và đánh bóng mấy chi tiết bằng đồng. Đôi mắt xanh biếc của con bé nhìn anh âu yếm.
“Ba có phải là ba của búp bê luôn không?” nó hỏi.
Tom dừng tay. “Ba không biết. Tại sao con không hỏi búp bê?”
Con bé nghiêng người thì thầm với búp bê, rồi tuyên bố. “Búp bê nói không. Ba là ba của Lulu thôi.”
Gương mặt con bé đã không còn bầu bĩnh, bắt đầu hé lộ những đường nét về sau – mái tóc ngả vàng thay vì sẫm màu như lúc nhỏ, đôi mắt sắc sảo, nước da sáng. Anh tự hỏi không biết con bé sẽ giống cha hay mẹ ruột. Rồi anh nghĩ đến gương mặt của người đàn ông tóc vàng mà anh chôn cất. Anh thấy lạnh xương sống khi nghĩ đến những câu hỏi khó hơn của con bé về sau này. Giờ đây thỉnh thoảng trong gương anh lại bắt gặp hình ảnh người cha của mình ngày trước. Vẻ giống nhau ruột thịt như đang âm thầm chờ đợi. Partageuse rất nhỏ: người mẹ có thể không nhận ra đứa con lạc mất của mình khi nó chỉ vừa chập chững, nhưng cuối cùng, lẽ nào lại không nhìn ra chính mình trong đứa con đã trưởng thành? Suy nghĩ đó gặm nhấm anh mòn mỏi. Anh nhúng miếng giẻ vào lon thuốc đánh bóng rồi tiếp tục chùi, cho tới khi giọt mồ hôi nhỏ vào khóe mắt.
Đêm đó Tom đứng dựa cột ngoài hiên nhà, ngắm ngọn gió thổi mặt trời vào bóng đêm. Anh đã châm đèn, việc trong tháp đèn coi như tạm ổn cho đến sáng. Anh cứ nghĩ đi nghĩ lại về lời khuyên của Ralph. Chuyện gì làm được thì làm ngay hôm nay.
“Mình đây rồi,” Isabel lên tiếng. “Nó ngủ rồi. Phải đọc truyện Cô bé lọ lem đến ba lần mới chịu ngủ!” Cô vòng tay qua Tom, dựa người vào anh. “Thương quá, con bé giờ đã biết lật sách, giả bộ đọc. Nó thuộc lòng hết rồi.”
Tom không trả lời, Isabel hôn anh ngay dưới tai, khẽ nói. “Hay tối nay đi ngủ sớm. Em mệt, nhưng cũng không quá mệt…”
Anh vẫn nhìn ra phía mặt nước. “Cô Roennfeldt trông như thế nào nhỉ?”
Phải mất một lúc Isabel mới nhận ra anh đang nói về Hannah Potts. “Mình hỏi vậy để làm gì chứ?”
“Mình nghĩ để làm gì?”
“Nó không hề giống cô ta một chút nào! Lucy tóc vàng, mắt xanh – hẳn là giống cha nó.”
“Thì chắc chắn là không giống cả hai chúng ta.” Anh quay sang nhìn thẳng vào mặt cô. “Izzy, ta phải lên tiếng. Phải nói ra thôi.”
“Nói với Lucy? Nó còn quá nhỏ để mà…”
“Không, nói với Hannah Roennfeldt.”
Isabel hoảng sợ. “Để làm gì kia?”
“Cô ấy phải được biết.”
Isabel run rẩy. Trong những giây phút u ám, cô cũng từng hỏi liệu điều gì là tệ hại hơn, tin rằng con gái mình đã chết hay biết rằng nó còn sống nhưng mình sẽ không bao giờ gặp nó; cô cũng từng tưởng tượng ra nỗi khổ của Hannah. Nhưng làm sao có thể đồng ý với Tom, dù chỉ trong chốc lát, vì mọi thứ sẽ tan tành hết, cô biết vậy. “Tom. Sống để bụng chết mang đi. Không thể đặt lương tâm cắn rứt của mình lên trên hạnh phúc của Lucy.”
“Lương tâm cắn rứt? Chúa ơi, Isabel, ở đây đâu phải là chuyện thó vài xu từ hòm công đức! Đây là chuyện cuộc đời của một đứa nhỏ! Và đời của mẹ nó nữa. Ta được sung sướng giây nào thì Hannah phải trả giá giây đó. Làm vậy không thể nào đúng được, ta có cố nghĩ kiểu gì cũng vậy thôi.”
“Tom, giờ đây mình đang mệt, mình đang mệt, mình đang buồn, đang rối. Sáng mai thức dậy mình sẽ thấy khác đi. Tối nay em sẽ không nói gì chuyện này với mình nữa.” Cô chạm vào tay anh, cố không để lộ sự run rẩy trong lời nói. “Ta… ta… đời không như là mơ! Ta phải hiểu điều đó.”
Anh nhìn cô chằm chằm, thấy tê dại, thầm nghĩ biết đâu cô không có thật. Có lẽ chẳng có gì là thật, bởi khoảng cách nhỏ nhoi giữa hai người như đã rẽ ra hai hiện thực khác nhau hoàn toàn, và họ không thể hòa vào nhau được nữa.
***
Lucy rất thích ngắm những tấm ảnh chụp mình hồi còn nhỏ trong lần đầu về Partageuse. “Lulu đó!” con bé nói với Tom khi ngồi trong lòng anh, chỉ vào tấm ảnh trên bàn. “Nhưng lúc đó Lulu còn nhỏ lắm. Giờ Lulu lớn rồi.”
“Đúng là Lulu lớn thật rồi. Sinh nhật tới đã bốn tuổi rồi mà.”
“Kìa,” con bé nói tiếp, chỉ tay mạnh mẽ, “là má của má.”
“Đúng rồi. Má của má tức là bà ngoại.”
“Còn kia là ba của ba.”
“Không phải, là ba của má. Là ông ngoại.”
Lucy trông có vẻ ngờ vực.
“Đúng vậy, thật là rắc rối phải không. Nhưng ông ngoại và bà ngoại không phải là ba má của ba.”
“Vậy ba má của ba là ai?”
Tom trở người, chuyển Lucy từ một bên đầu gối qua bên kia. “Ba má của ba tên là Edward và Eleanora.”
“Cũng là ông bà của Lulu?”
Tom tránh câu hỏi. “Cả hai chết rồi, cưng à.”
“À,” Lucy nói, gật đầu nghiêm túc, đúng kiểu nó hay làm mỗi khi không hiểu anh nói gì cả. “Chết giống Flossie vậy.”
Tom đã quên bẵng chuyện con dê bị bệnh và chết mấy tuần trước. “Ừ đúng rồi, giống Flossie chết vậy.”
“Vì sao ba má của ba chết?”
“Vì già yếu.” Anh thêm vào. “Đã lâu rồi.”
“Vậy Lulu rồi có chết không?”
“Có ba thì con sẽ không sao hết, Lulu à.”
Nhưng gần đây, mỗi ngày với đứa trẻ này lại chứa đựng một rủi ro mới. Con bé càng biết nói càng có khả năng đào xới thế giới chung quanh nó, để biết cho được câu chuyện về bản thân mình. Tom thấy ray rứt tột cùng khi nghĩ rằng mọi hiểu biết của con bé về cuộc đời, về bản thân nó đều được gây dựng trên một lời nói dối kinh khủng: chính là lời nói dối mà anh đã tiếp tay làm cho hoàn hảo.
***
Mọi bề mặt trong buồng đèn đều sáng bóng: Tom vốn luôn chăm chỉ lau chùi, nhưng giờ đây anh như liên tục tuyên chiến với từng con ốc vít, từng chi tiết máy, cho mọi thứ phải đầu hàng, sáng bóng. Những ngày này người Tom lúc nào cũng có mùi thuốc đánh bóng Duraglit. Các lăng kính lấp lánh, ánh đèn sáng rực, không hề có một hạt bụi bám cản đường. Mỗi chiếc răng cưa trong cơ chế máy đều vận hành nhịp nhàng. Thiết bị tháo đèn dường như chưa bao giờ hoạt động chính xác đến vậy.
Nhưng căn nhà ở thì càng lúc càng xập xệ. “Mình coi đắp chút vôi bột vô chỗ nứt tường đó được không?” Isabel hỏi khi hai người ngồi trong bếp, vừa ăn trưa xong.
“Để chuẩn bị cho kỳ thanh tra sắp tới rồi tôi đắp.”
“Nhưng mình chuẩn bị cả mấy tuần rồi còn gì, đúng ra là mấy tháng luôn. Có phải như Nhà vua sắp ghé thăm đâu hả?”
“Tôi chỉ mọi thứ thật tươm tất, có vậy thôi. Tôi đã nói mình rồi, kỳ này có khi ta sẽ xin được việc ở Trạm đèn Mũi Moore. Như vậy sẽ ở đất liền, gần với Geraldton. Gần người. Xa Partageuse đến hàng trăm dặm.”
“Vậy mà có lúc mình tưởng như không thể rời xa Janus.”
“Thời thế thay đổi mà.”
“Thời thế đâu có thay đổi, Tom à” cô nói. “Khi trước mình hay nói là nếu ngọn hải đăng trông khác đi, thì không có nghĩa là ngọn hải đăng thay đổi.”
“Vậy thì mình nghĩ xem cái gì thay đổi,” anh nói, rồi với tay lấy chìa vặn đai ốc rồi bỏ ra phía xưởng, không ngoái lại nhìn.
Đêm đó Tom mang một chai whisky ra ngắm sao ở vách núi. Ngọn gió vờn trên mặt anh khi anh dõi mắt theo những chòm sao và cảm nhận hơi cồn thiêu đốt trên đầu lưỡi. Anh nhìn phía ánh đèn quay, rồi bật cười cay đắng khi nhận ra rằng khi ngọn đèn quay, cả hòn đảo chìm trong bóng tối. Ngọn hải đăng chỉ soi đường cho những nơi khác, nhưng lại bất lực không thể rọi sáng những chỗ gần nó nhất.