Số lần đọc/download: 4219 / 54
Cập nhật: 2016-06-09 04:42:14 +0700
Chương 13: Hành Binh Chớp Nhoáng
1.- Trận tấn công rầm rộ lên núi rừng Việt Bắc: Cuộc hành binh LEA (Opération LEA) Thu-Đông năm 1947 của Đại Tướng Valluy.
Từ sớm ngày 7 tháng 10.1947, quân đội Pháp đã chia làm hai mặt tiến lên Việt Bắc:
– Một đoàn xuất phát từ Trung Tâm Hà Nội, theo triền Nhị Hà lên chiếm Tỉnh lỵ Sơn Tây, rồi tiến thẳng lên Trung Hà, Hưng Hóa, Phủ Lâm Thao, Phủ Đoan Hùng
– Một đoàn tiến từ Căn Cứ Lạng Sơn thẳng tiến ngược đường số 4 (Đông Bắc Việt) đánh chiếm Thất Khê, Đông Khê
Giữa gọng kìm của hai binh đoàn ấy (Beaulfre Commmunal), quân đội Pháp nhẩy dù bất thần theo kế hoạch ‘’Cloclo’’ lên nhiều địa điểm của Việt Minh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Chợ Chu, Thái Nguyên, Tuyên Quang v.v
Để phối hợp và làm chủ chiến trường Bộ Tư Lệnh Pháp lập thêm hành lang Đông Tây chạy suốt từ Lạng Sơn qua Hà Nội lên Lào Kay.
Từ căn cứ Hòa Bình, quân đội Pháp tiến lên xứ Thái qua Nghĩa Lộ (đã chiếm đóng từ tháng 9.1947), lên Yên Bái (20 tháng 10), đến Lai Châu, Phong Thổ, ChaPa (21 tháng 10), chiếm Lao Kay (30 tháng 10).
Từ Hải Dương, Hải Phòng, Pháp tiến đánh vùng Đông Triều, Phả Lại, Lục Nam, Yên Thế Thượng đến tận vùng mỏ Na Lương (căn cứ địa của Cụ Đề Thám trước) và vùng Bắc Sơn (quê hương của đoàn du kích Chu văn Tấn).
Đồng thời, suốt dọc miền duyên hải Bắc Việt, quân đội Pháp đã làm chủ được tình thế, từ Hải Phòng qua Quảng Yên, Hòn Gay, Cẩm Phả mine, Cẩm Phả Port, Mông Dương, Khe Tù, Tiên Yên, rừng Ba Ché, Đầm Hà, Hà Cối đến Mong Cáy giáp giới Trung Hoa.
Cuộc hành binh Việt Bắc của Pháp đã song hành với giai đoạn chiến lược thứ nhất của Việt Minh, giai đoạn bảo tồn lực lượng (lẩn tránh, rút lui) cho nên quân đội Pháp đã tiến binh quá dễ dàng và nhẹ nhàng như vào chỗ không người.
Sức kháng cự quá yếu ớt của Việt Minh càng khiến Pháp chắc chắn tin tưởng ở suy luận của mình, chóng chầy Việt Minh sẽ phải mệt nhọc tan rã và đầu hàng trước sức tấn công ghê gớm của quân đội Pháp. Do đó Pháp coi thường thêm Việt Minh, coi thường khả năng chính trị, tiềm lực quân sự cùng đức tính kiên khổ của họ.
Với cuộc hành binh LEA vĩ đại, Pháp chưa tiêu diệt được chủ lực quân của Việt Minh như ý muốn và Việt Minh cũng không dại dột xuất trận để Pháp có thể dễ dàng áp đảo, vì vậy kết quả chỉ mang lại:
– Chiếm đóng được một số lớn Thị Xã Cao Bằng, Bắc Kạn (Đông Bắc), Lào Kay, Lai Châu (Tây Bắc) v.v
– Làm xáo lộn các vị trí cơ quan kháng chiến hành chính của Việt Minh ở Khu 1, Khu 10 và Khu 12.
Về phần các cơ sở trung ương thì ngoài bộ tài chính của Lê văn Hiến vì không chạy kịp đã bị mất một số lớn tiền và một vài công chức trong bộ, ngoài cái chết của nhà bác học Nguyễn văn Tố ở Bắc Kạn (Bộ trưởng không bộ nào trong chính phủ Việt Minh) quân đội Pháp chưa thể nào vào sâu được tận căn cứ địa số 1 và số 2 của Việt Minh trong những khu rừng vùng Quảng Nạp, Tân Trào, Chiêm Hóa để có thể uy hiếp được những cơ quan đầu não của chính phủ cụ Hồ.
– Phá vỡ được một số kho dự trữ của Việt Minh. Nhưng những kho đó không đáng giá chút nào vì sự thực, gia tài của quân đội Việt Minh hồi đó chưa có gì đáng kể.
– Tiêu diệt được một phần lực lượng đối phương mà đa số chỉ là những dân quân du kích mới chập chững cả về nghề binh lẫn nghề chính trị.
2.- Những trận tấn công liên tiếp trong năm 1948 ở Bắc Việt:
– Trận Đông Triều, Quảng Yên, quân đội Pháp tiến sâu vào vùng Lỗ Sơn, Trại Sơn, trung tâm điểm của trung đoàn 50 Việt Minh và do những trận oanh tạc, số lớn các chỉ huy của trung đoàn đó, kể cả trung đoàn trưởng Mạnh Hùng đã tử thương trong các hang đá của dẫy núi 99 ngọn miền mỏ than Bắc Việt.
– Trận Kiến An, làm tan rã trung đoàn ‘’Ngọ Cụt’’ (trung đoàn Hải Kiến-41) và trung đoàn trưởng cũng tử thương tại trận tiền.
– Trận Hải Dương, đả phá trung đoàn 58 khiến cho viên chỉ huy thất trận (Tướng Nam Long, trung đoàn trưởng trung đoàn Hải Hưng) phải về Việt Bắc ‘’học lại’’ chiến lược và chiến thuật của quân đội cách mạng.
Phá vỡ vòng dây của Tướng Thổ Hoàng Sâm chăng quanh Hà Nội. Quân đội Pháp tiến qua bến đò Mai Lĩnh, vượt Trúc Sơn Xuân Mai đánh thẳng vào chiếm Hòa Bình và một ngả quặt sang đánh phía Sơn Tây (pérations Ondine I-II).
Từ các Trung Tâm Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng (đường số 5) đã mở đầu cho lối đánh mìn của Việt Minh.
3.- Sau khi đã củng cố vững trãi hệ thống phòng thủ và hệ thống giao thông liên lạc, quân đội Pháp lại tiếp tục mở các cuộc hành trình đột ngột (Opérations Pégase-Diane) để đặt thêm một số căn cứ địa của quân đội Hoàng Sâm (Liên Khu 3) và ở Liên Khu 1 với những trận:
– Hành binh Bastille giải phóng liên Thị Xã Bắc Ninh, Bắc Giang, tháng 7 năm 1949.
– Hành binh chiếm liên Thị Xã Vĩnh Phúc Yên, tháng 8 năm 1949.
– Hành binh Junon Bourricot đánh Bùi Chu-Phát Diệm của cả Hải, Lục, Không Quân Pháp kết hợp (tháng 10.1949) đã xua đuổi quân Việt Minh ra khỏi vùng giáo đạo.
– Những cuộc hành binh Tonneau I-II…những cuộc hành binh đánh quây tròn khu Hưng Yên, Thái Bình (tháng 12.1949), đánh khu Chợ Cháy (Xuân 1950) và tiến đánh dọc đường số 18 (R.C. 18 Đáp Cầu-Phả Lại), được hình dung trong câu hát:
‘’Phen này Pháp đánh chữ O
Thử xem Vệ Túm nó bò đi đâu?’’
Trong khi ở Bắc Việt, quân đội của Tướng Koch chiếm đất đai, mở đường gia thông thì ở Trung, Tướng Lebris (Chỉ huy T.F.C.A) cũng kiểm soát dược khúc Quảng Trị-Thừa Thiên-Quảng Nam và tương đối khá bình định được miền Phan Thiết, Phan Rang, Khánh Hòa, Ninh Hòa, bảo vệ đường số 9 (R.F.9) và đồng thời mở những trận tấn công đánh Bình-Trị-Thiên miền Khu 4.
Ở Nam Việt, quân đội của Tướng Boyer de la Tour du Moulin thu dồn được lực lượng Việt Minh vào 3 khu nhất định:
– Khu Đồng Tháp Mười.
– Tây Bắc Thủ Dầu Một.
– Bãi Cà Mâu.
Và kiểm soát chặt chẽ được những đường giao thông thủy bộ cần thiết:
– Đường Sài Gòn-Pnom Pênh.
– Đường Rạch Giá-Long Xuyên.
– Đường Vĩnh Long-Trà Vinh.
– Đường Long Xuyên- Sa Đéc.
– Đường Sóc Trăng-Bạc Liêu.
– Rạch Nicolai
– Rạch Long Xuyên-Rạch Giá v.v
Sau các cuộc tiến binh chớp nhoáng chiếm đất đai và mở đường giao thông quan trọng, quân đội Pháp áp dụng một chiến thuật mới: Chiến thuật ‘’bừa, cào’’.
Từ các căn cứ đã chiếm đóng, các đơn vị Pháp xuất phát theo lối ‘’răng-cào’’ đánh ào ạt ngang ngang, dọc dọc để nhổ sạch rễ Việt Minh và xong xuôi lại trở về căn cứ.
Đó là tất cả những cuộc hành binh nho nhỏ, chuyến to nhất là hai trận ‘’cào’’ lên tận Phủ Đoan, Tuyên Quang trên Lô Giang hồi đầu Xuân 1949 và khoảng giữa mùa Hạ cũng năm 1949 (Opération Pomone).
Thực ra ‘’rễ Việt Minh’’ hãy còn chằng chịt, nhỏ lăn tăn và lẫn vào trong lòng dân chúng, những cuộc càn quét khó có thể thu được kết quả như đã dự định.
Nhờ các trận tảo thanh, ‘’vết dầu’’ chiếm đóng càng ngày càng lan rộng. Vết dầu lan đến đâu, đồn canh quân sự (Postes) và ‘’đồn canh chính trị’’ (Hội Tề) mọc đến đấy và cứ như vậy, quân đội Pháp đã kiểm soát được nhiều vùng rộng lớn.
Sau cuộc kinh lý các mặt trận ở Đông Dương của Đại Tướng Revers, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Pháp (tháng 6.1949), Đại Tướng Carpentier được cử giữ chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực Pháp ở Viễn Đông thay Đại Tướng Blaizot (tháng 9.1949), đồng thời tại Bắc Việt, mặt trận chính của chiến địa Việt Nam, Tướng Alessendri cũng được ủy nhiệm giữ chức Cao Ủy kiêm Tư Lệnh Quân Đội thay thế Tướng Koch.
Đại Tướng Carpentier, tân Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp ở Viễn Đông, người đã từng chỉ huy chiến trường Tunisie (1942) từng chiến thắng Thành Rome (Ý), từng làn Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn Thứ Nhất (1e Armée), từng dự cuộc đổ bộ lên St. Tropez, đã đến Việt Nam với một ý niệm:
‘’…Noi gương các Tướng Galliéni và Lyautey để thực hiện an ninh nhưng phải kính nể phong tục tình cảm, tín ngưỡng và của cải của dân chúng trên giải đất Đông Dương…’’
Ý niệm ấy đã vạch rõ một chính sách mới mẻ trong các cuộc hành binh nói chung trên toàn cõi Đông Dương.
Từ mấy năm qua, binh lính Pháp đã phải chịu đựng giao chiến với một địch thủ rất khó chịu, chuyên môn đánh úp, đánh trộm, đánh lén, du kích, phục kích, đột kích, dạ kích, xung kích…hàng bao nhiêu thứ ‘’kích’’ đã lên tinh thần quân lính Pháp luôn phải căn thẳng vì bất cứ lúc nào cũng phải đề phòng, chuẩn bị nghe ngóng. Binh sĩ tối tân Pháp chỉ quen trận địa chiến, vận động chiến, những lối ‘’chiến’’ dàn mặt, đường hoàng, thế mà sang đến Việt Nam lại phải đương đầu với một địch quân ‘’không thể thấy không thể tóm’’ nên binh lính Pháp, dưới khi trời oi bức, thường trút hết nỗi giận dữ, bức tức, cáu kỉnh lên tất cả những thứ gì họ gặp được trong các cuộc hành binh, kể cả người, loại vật, và đồ vật. Những hành động vô chính trị ấy vô tình đã giúp Việt Minh thêm lợi khí tuyên truyền thu hút dân chúng.
Đại Tướng Carpentier đã sáng suốt nhận rõ tình trạng đó và hạ lịch cho quân lính phải tôn trọng dân chúng, tôn trọng phong tục, tín ngưỡng, của cải lẫn tính mệnh của họ.
Dưới quyền chỉ huy của Tướng Alessandri, mặt trận Bắc Việt (T.F.I.N) được đổi thành ‘’vùng hành binh’’ (Z.O.T.-Zone Opérationnelle du Tonkin) và một chiến lược mới được áp dụng: Thời chiến dịch.
Tổng kết từ cuộc hành binh LEA trên chiến trường Việt Bắc đến cuối năm 1949. Bộ Tổng Tư Lịnh Pháp ở Đông Dương đã thu hoạch được nhiều kết quả cụ thể:
– Mở rộng phạm vi ở khắp ba phần Bắc, Trung, Nam.
– Xây nền móng cho việc kết hợp những lực lượng chiến đấu Pháp-Việt-Mên-Lào (ở Việt Nam, những nhóm quân sự bắt đầu thành hình ở từng địa phương mặc dầu chưa chính thức là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, như Bảo Chính Đoàn miền Bắc, Việt Binh Đoàn miền Trung, Vệ Binh miền Nam…)
– Đặt nguyên tắc thống nhất hành động giữa Hải, Lục, Không Quân Pháp trên chiến trường Đông Dương mà từ trước chưa thực hành được.
Cuối năm 1949 một sự kiện mới đảo lộn tình hình thế giới: Thắng lợi của quân Trung Cộng trước Quân Đội Quốc Dân Đảng.
Bị thất trận, một nhóm Quốc Dân Trung Hoa phải chạy dạt sang biên giới Bắc Việt.
Lợi dụng cơ hội may mắn đó để gây xích mích với Pháp, Bắc Kinh vội lên án (24.12.1949) quân đội Pháp đã giúp đỡ Quân Đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa trái với quốc tế cộng Pháp và như vậy là Pháp tỏ ra gây hấn với Trung Cộng.
Thật nguy hiểm!
Pháp phải chuẩn bị đề phòng tới việc cộng quân Trung Hoa có thể giả vờ mượn cớ đuổi Quốc Quân để tràn qua biên giới Việt Nam, đồng thời đề ra những biện pháp đối phó với đám tàn quân Quốc Dân Đảng.
Tất cả những nhóm Quân Đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa đặt chân lên địa phận Việt Nam phải nhận hai điều kiện:
– Chịu để quân đội Pháp tước khí giới.
– Chịu để Bộ Tư Lệnh Pháp tập trung họ vào những khu vực nhất định.
Bộ Tư Lệnh Pháp cương quyết từ chối mọi cuộc hợp tác với nhóm tàn quân Quốc Gia Trung Hoa (quân của Tướng Bạch Sùng Hy) đồng thời chuyển dần họ vào Đảo Phú Quốc và các đồn điền cao su tại Nam Việt.
Nếu ở Việt Nam, cuộc xung đột chỉ xẩy ra giữa đoàn quân viễn chinh hùng mạnh của Pháp với một nhóm quân ‘’phiến loạn’’ thực sự thì chiến lược Galliéni-Lyautey có thể gọi là thập phần hoàn hảo, nhưng dần dần tình hình thế giới biến chuyển phân chia nhân loại thành hai khối rõ ràng, đồng thời áp lực của quân đội cộng sản Trung Hoa lại tăng cường, án ngữ suốt giải biên thùy Bắc Việt đã bắt buộc người ta phải lo lắng và bắt đầu thay đổi hẳn nhận định cùng quan niệm về trận chiến tranh ở Việt Nam.
Quan niệm đó được bộc lộ trong kế hoạch thay đổi chiến lược của Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Revers sau cuộc công cán ở Đông Dương. Thu hối quân đội ở những vị trí lẻ loi vô ích trên Việt Bắc về tập trung phòng ngự tại khu Đồng Bằng Bắc Việt.
Sau khi thế giới cộng sản và thế giới tự do mỗi bên công nhận một chính phủ tại Việt Nam, quân đội Pháp vô hình chung đã biến thành những người lính phải chiến đấu với toàn khối cộng sản và ngược lại, quân đội của Tướng Võ nguyên Giáp cũng biến thành lính tiền phong của đạo binh cộng sản quốc tế chống với phe dân chủ, tự do.
Giữa năm 1950, một biến cố quan trọng nữa lại xẩy ra: Chiến tranh ở Cao Ly.
Chiến sự ở Đông Dương do đó phải lùi xuống hàng thứ, tuy nhiên tình trạng Đông Dương đã bước vào một giai đoạn mới.
Cuộc chiến tranh ở Đông Dương mặc dầu không được chính thức ‘’quốc tế hóa’’ nhưng bên trong ‘’bức rèm’’ đã lấp ló bóng các cường quốc của hai phe đối lập trực tiếp nhúng tay vào.
Về phía Pháp: Một phái đoàn được thành lập để thảo luận với một phái đoàn Mỹ tại Sài Gòn ngày 17 tháng 7.1950.
Phái đoàn Mỹ từ Thủ Đô Phi Luật Tân (Manille) tới gồm có:
– Fohn Melby, Trưởng phái đoàn.
– Tướng Graves B. Erskine. Tham Mưu, Chỉ Huy Đệ Nhất Sư Đoàn Thủy Binh Lục Chiến Hoa Kỳ.
– Glen H. Graigh, đại diện Cơ Quan Quản Trị và Hợp Tác Kinh Tế (E.C.A.-Economic Cooperation and Administraten).
– Donald Heath, Đặc Sứ Hoa Kỳ ở Đông Dương.
– Gullioa và một số chuyên viên quân sự.
Phái đoàn Pháp có các ông:
– Léon Pignon, Cao Ủy Pháp ở Đông Dương.
– Tướng Carpentier, Tổng Chỉ Huy Quân Đội Pháp tại Đông Dương.
– Tướng Harteman, Tư Lệnh Không Quân Pháp ở Lục Quân Pháp ở Viễn Đông.
– Tướng Landouzy, Tham Mưu Trưởng Trường Lục Quân Pháp ở Đông Dương.
– Đô Đốc Ortoli, Chỉ Huy Hải Quân Pháp ở Viễn Đông và một số chuyên viên ngoại giao, chính trị, quân sự
Về phía Việt Minh: Trung Cộng đã gửi một phái đoàn cố vấn sang bộ tư lệnh quân đội Việt Minh.
Đại Tướng Trung Cộng Trần Canh, một trong Ngũ Hổ Tướng của Mao Trạch Đông (Trần Nghị, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, Trần Canh) đã có mặt ở Việt Nam trong chiến dịch Hoàng văn Thụ (trận đường số 4 đợt 2 năm 1950).