Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Chương 20
M
oody nhìn tôi chăm bẳm, rồi hướng đôi mắt ra ngoài khung cửa sổ. Ngay cả ở đấy, có vẻ như anh vẫn không tìm ra câu trả lời.
Khi tôi hỏi Francis về khoản tiền, nó từ chối trả lời. Nó thở hắt, ngụ ý rằng câu trả lời là hiển nhiên và tôi đã ngu xuẩn mà không thấy ra. Tôi nhận thấy nó tỏ ra bực bội như từ trước đến giờ.
“Mẹ cố giúp con. Nhưng mẹ không giúp được nếu con không nói cho mẹ biết đã xảy ra chuyện gì. Moody cứ cho rằng con ăn cắp khoản tiền đó.”
Francis nhìn lên trần nhà, nhìn đến các bức tường, bất kỳ thứ gì ngoại trừ đôi mắt tôi: “Con ăn cắp.”
“Gì cơ? Tại sao thế?”
“Bởi vì con cần tiền nếu đi xa. Con có thể cần sự giúp đỡ để tìm ra kẻ giết người. Con có thể phải chi trả cho việc này.”
“Con có sự giúp đỡ ở nhà. Tiền có ở nhà. Tại sao con không dùng?”
“Con đã nói là con không thể quay về nhà.”
“Nhưng... dấu vết không biến mất nhanh như thế.”
“Thế là mẹ cũng nghĩ đấy chính là con, phải không?”
Nó đang mỉm cười, vẫn nụ cười chua xót như trước đây.
“Không... dĩ nhiên là mẹ không nghĩ thế. Nhưng - mẹ ước gì con nói cho mẹ biết tại sao con có mặt ở đấy vào lúc nửa đêm.”
Francis mím môi lại. Một hồi nó không nói gì, đủ lâu cho tôi nghĩ mình sẽ bỏ cuộc và đi ra ngoài.
“Laurent Jammet...” nó ngập ngừng, “… là người duy nhất mà con có thể trò chuyện. Bây giờ không còn ai nữa. Con không màng nếu con không bao giờ trở về.”
Sau một chốc, tôi nhận ra mình đã ngừng thở. Tôi tự nhủ nó chỉ nói thế mà không suy nghĩ, hoặc nó cố tình làm cho tôi đau khổ. Francis vẫn luôn làm cho tôi đau khổ hơn là bất cứ ai khác.
“Mẹ tiếc con đã mất một người bạn. Lại còn trong tình huống như thế. Mẹ ước chừng sẽ cho bất kỳ thứ gì để con không trông thấy cảnh ấy.”
Cơn giận dữ của nó ập đến tôi, cơn giận dữ của trẻ nít đến mức suýt rơi lệ: “Mẹ chỉ có thể nói thế thôi sao? Mẹ ước con không thấy hở? Có hề gì không? Tại sao không ai nghĩ đến Laurent? Anh ấy là người bị giết. Tại sao mẹ chẳng ước anh ấy không bị giết?”
Nó buông người trở lại trên chiếc gối, đôi mắt ráo hoảnh, và cơn giận dữ nguội đi, cũng thình lình như khi bùng phát.
“Mẹ xin lỗi, con yêu ạ. Mẹ xin lỗi. Dĩ nhiên là mẹ ước thế. Không ai phải chết như thế. Anh ấy là người tử tế. Có vẻ như anh ấy... yêu mến cuộc sống.”
Tôi tự nhắc nhở mình rằng tôi biết anh ấy rất ít, nhưng lời nói ấy xem ra là điều chắc chắn. Tuy thế, nếu tôi nghĩ mình đang an ủi Francis hoặc nói điều mà nó muốn nghe, thì tôi lại lầm, như bao lần tôi đã lầm.
Giọng của nó thì thầm: “Anh ấy không phải là người tử tế. Anh ấy chai lì. Anh ấy thích tìm ra điểm yếu của người và lấy đó để đùa cợt. Bất kỳ chuyện gì cho người khác cười theo, không cần biết đó là chuyện gì. Anh ấy không màng.”
Tôi không theo kịp câu chuyện quay ngoắt này. Bỗng dưng tôi lo sợ kinh khiếp rằng Francis sắp thú nhận với tôi chuyện gì đấy. Tôi vuốt trán nó và nói “suỵt”, như thể nó vẫn còn là một đứa bé, nhưng tôi không biết mình nghĩ gì. Vì thế tôi nói vẩn vơ, nói bất kỳ điều gì, chỉ mong Francis đừng mở miệng mà nói ra điều gì khiến cho tôi sẽ hối tiếc.
Parker đang ở trong nhà kho cùng với Jacob và một người Na Uy. Có lẽ họ đã tách khỏi bi kịch đang diễn ra bên kia khoảnh sân, và đang bàn về một chứng bệnh vẩy nến[35] nào đó, theo cách tôi nghe lõm bõm. Tôi cảm thấy bối rối mà yêu cầu trao đổi một mình với Parker, khi bây giờ chúng tôi đã trở về với xã hội văn minh. Tôi thoáng nhìn thấy người Na Uy nhìn tôi với vẻ dò xét, mà tôi biết chắc là họ dò xét về tình trạng hôn nhân của tôi và việc tôi chọn người đồng hành kỳ lạ này. Trong bóng tối của nhà kho, tôi nhớ lại kho chứa hàng lạnh lẽo tối tăm. Xem dường đấy là đã lâu lắm rồi.
[35] Vẩy nến: hoặc ecpet mảng tròn (Anh ngữ: ringworm): theo y khoa phương Tây, bệnh gây ra do nấm, tạo những mảng tròn phồng rộp trên da. Vùng da nhiễm bệnh thường có màu đỏ, tròn, phẳng, và tróc vẩy.
Tôi nói với Parker: “Anh Moody không quan tâm đến việc theo dõi dấu vết kia. Hai chúng ta có thể sẽ phải đi theo dõi.”
“Đây là việc rất khó. Tốt hơn là bà nên lưu lại đây với con trai bà.”
“Nhưng, phải cần đến... nhân chứng.”
Tôi nghĩ mình đã nói ra một cách cẩn trọng - mà không nói thẳng là tôi không tin tưởng ông, nhưng dù sao ông không tỏ vẻ bị xúc phạm.
“Bà không biết tôi sẽ trở về hay không.”
“Phải cho Moody thấy... bất cứ cái gì ta tìm ra. Nếu ta chỉ có thể dẫn Francis…”
Parker nhún vai: “Nếu con trai bà là kẻ giết người, anh ấy sẽ muốn đổ tội cho ai đó. Moody sẽ không chấp nhận việc này.”
Tôi biết Parker nói đúng. Lần đầu tiên, tôi nhận ra nỗi vô vọng, nhận ra sự mệt mỏi cùng cực. Tôi đã cố gắng leo lên một quãng dốc trơn trượt, và đã leo được. Bây giờ mặt đất đang bắt đầu chuồi đi dưới chân tôi, và tôi không biết phải làm gì. Tôi không biết rằng mình có thể trông mong Parker giúp tôi. Tôi không biết tại sao ông phải giúp tôi. Nhìn vào mắt ông, tôi không thấy vẻ trắc ẩn nào - không có vẻ gì mà tôi nhận ra được. Tuy nhiên, nếu có thể van xin thì tôi vẫn sẵn lòng van xin. Hoặc thêm nhiều việc khác nữa.
“Ông phải dẫn tôi đi. Tôi phải tìm ra bằng chứng là nó vô tội. Không ai khác quan tâm họ bắt được ai miễn là bắt được ai đấy. Tôi van ông.”
“Nhưng nếu không tìm ra được gì thì sao? Bà đã nghĩ đến việc này chưa?”
Tôi đã nghĩ đến việc này, nhưng không có câu trả lời. Tôi chăm chăm nhìn khuôn mặt dửng dưng của ông, nhìn đôi mắt mà không thấy rõ tròng đen và đồng tử mà chỉ thấy toàn vẻ đen tối, và cảm thấy ớn lạnh khắp cả người.
***
Không có loại rượu nào làm cho say ở Cánh đồng của Thiên đường. Người được chọn lên Thiên đường không cần đến chất kích thích nhân tạo hoặc con đường đi đến quên lãng. Lúc nào họ cũng luôn hạnh phúc và thanh thản. Sau khi bị Bà Ross thuyết giảng, Donald suy tính mình sẽ cho cái gì để đổi lấy thứ rượu rum kinh tởm mà người ta nốc ở Pháo đài Edgar. Mùa đông là mùa chè chén, giúp làm dịu đi những đêm dài vô tận khi mà sự ấm cúng chỉ là hồi ức xa xôi. Chè chén giúp con người ta chịu đựng được mấy chuyện giễu cợt kinh khủng mà các đồng nghiệp cứ kể đi kể lại. Chè chén cũng giúp chịu đựng được các đồng nghiệp. Donald có phân nửa lọ bẹt[36] đựng whisky mà anh đã thề sẽ để dành cho chuyến trở về, nhưng bây giờ lại đang thèm một cách nhức nhối. Anh có cảm tưởng là mình sẽ không trở về sớm.
[36] Lọ bẹt: loại lọ nhỏ, thường làm bằng thiếc, dẹp và hơi cong, có thể cho vào túi áo.
Tuyết đã biến thành mưa. Trời đã ấm lên và các bông tuyết trở nặng vì hơi nước, không còn lơ lửng mà rơi thẳng xuống. Lớp tuyết trên mặt đất cũng đã thay đổi: từ nhẹ và xốp như chăn bông, bây giờ nhão nhoẹt. Từng dúm tuyết mang nặng hơi nước trượt dài trên mái nhà đối diện với cửa sổ của Donald, rồi rơi xuống đất với một âm thanh nặng nề. Các mái nhà dần dần lộ ra những mầu sắc mờ đục - màu đỏ của gỉ sắt, màu xanh của kim loại. Nước liên tục nhỏ giọt từ các mái hiên. Người ta không thể trốn lánh khỏi các âm thanh; nhẹ nhàng nhưng không dứt, cũng như không thể trốn lánh khỏi lương tâm.
Donald nhìn thấy ông Parker, người bản địa, bên kia khoảnh sân. Ông ta có vẻ như đang thu dọn đồ đạc, sẵn sàng để ra đi. Trong thâm tâm Donald biết rõ mình nên đi với Parker và người phụ nữ. Để đảm bảo là không có cái gì hết trong câu chuyện này. Anh không rõ đấy có phải do lòng quả cảm hay không; ý nghĩ phải đi qua vùng bình nguyên kinh khiếp làm cho anh thấy hãi hùng. Mặt khác, nếu anh dẫn anh con trai kia về như là nghi phạm và rồi kết quả là anh nhầm lẫn, thì anh sẽ bị khiển trách, lên án, và bị xầm xì to nhỏ trong các phòng chè chén. Cái tội bỏ bê nhiệm vụ là không ổn cho sự nghiệp của anh. Khi đến lúc phải chọn lựa giữa vùng hoang dã và nỗi nhục nhã trong nghề nghiệp thì anh biết đằng nào đáng sợ hơn.
Parker nói với anh là đi từ đây đến thương điếm kia mất không đến sáu ngày đường - nếu thời tiết cho phép. Donald nghĩ đây là cơ hội để mình quen biết thêm quản trị viên ở đó - có lẽ là một người giúp cho anh thăng tiến. Anh bảo Jacob phải ở lại để canh giữ anh con trai. Trong lúc này, tù nhân sẽ được an toàn ở đây.
Jacob trông có vẻ rất nghiêm trọng: “Tôi xin lỗi, nhưng để cho tôi đi với họ thì hay hơn. Cuộc hành trình sẽ khó khăn. Tôi biết phải tìm kiếm cái gì.”
Donald không muốn gì khác hơn là ở lại Himmelvanger trong khi Jacob lặn lội qua bùn nhão và tuyết để đi đến nơi chốn khốn khổ kia, nhưng như vậy là không ổn chút nào.
“Jacob à, cám ơn anh, nhưng tôi phải đi và quyết định phải làm gì. Và phải có người ở lại đây.” Anh mỉm cười với Jacob, và anh này nhìn lại với dáng vẻ nghiêm trọng.
“Nếu tôi đi với anh thì tốt hơn. Tôi có thể... chăm sóc cho anh.”
Donald mỉm cười, cảm động và lòng trung kiên của Jacob. Cũng vì cách anh này ra vẻ như xem anh như là một đứa trẻ không tự lo cho mình được.
“Không cần đâu. Dù sao thì Parker vẫn phải trở về đây, để đưa Bà Ross về nhà. Cũng là điều thú vị khi đi xem một thương điếm khác của Công ty.”
Anh cố giữ thái độ vui vẻ hơn là anh nghĩ trong đầu. Anh vẫn lo lắng, có phần kinh sợ, về viễn cảnh của vùng hoang dã lạnh lẽo phía trước.
Jacob có vẻ suy tư, như thể dằn vặt với chính mình: “Nhưng anh biết không... tôi có một giấc mơ. Anh có thể nghĩ đó là ngớ ngẩn, nhưng nghe này: tôi mơ thấy anh tự đi một mình. Có mối hiểm nguy. Tôi nghĩ tôi phải đi với anh.”
Donald cố trấn áp cơn dao động trong lòng, và cất tiếng cao hơn, để xua tan ý nghĩ dị đoan trong Jacob và trong anh. Chuyện lố bịch của người bản địa - anh đã không nghĩ Jacob lại làm mồi cho những huyễn tưởng đó.
“Tôi không lấy làm lạ anh đã mộng mị vì thứ phó mát từ sữa dê chết tiệt ăn ở đây: đủ cho bất kỳ ai cũng thấy ác mộng!”
Jacob không cười theo anh. Anh này biết mình đã bị quở trách.
“Quan trọng là cần để mắt đến anh con trai. Anh ta có thể... nói ra điều gì đó quan trọng. Anh phải cố tỏ ra thân thiết với nó.”
Jacob lộ vẻ nghi ngại, nhưng vẫn gật đầu.
“Nhờ anh đi bảo Ông Parker là tôi sẽ đi theo họ, nhé!”
Sau khi Jacob đã đi, bỗng dưng Donald có sự thôi thúc kêu với theo, để nói lên lòng biết ơn tha thiết đội với mối quan ngại - cho dù sai lạc - và tình bạn. Ở đây, Jacob là người duy nhất quan tâm đến bất cứ chuyện gì xảy đến cho anh. Rồi anh không muốn cất tiếng; anh đã là người đàn ông trưởng thành. Anh không muốn có một gia nhân người bản địa để chăm sóc mình, ngay cả người ấy là Jacob.
Donald hồi tưởng lại những thay đổi diễn ra trong mối quan hệ giữa hai người. Sau chuyến đi đến Sông Dove và hậu quả rùng rợn, đã nảy ra tình thân thiết mà đáng lẽ anh phải lấy làm trân quý hơn là mình nhận ra được, bởi lẽ bây giờ anh cảm thấy tiếc. Donald cho rằng như thế là vì bây giờ anh là sếp, trong khi lúc trước Mackinley chỉ khinh rẻ cả hai người, và cả hai (hoặc ít nhất là Donald) khinh rẻ lại ông ta theo cách tế nhị hơn. Bây giờ anh nhìn Mackinley qua một lăng kính khác, với sự thông hiểu tốt hơn về những điều phức tạp trong việc chỉ huy. Cha anh luôn nói với anh rằng cuộc đời không phải là chuyến đi chơi dã ngoại, tức là chẳng có gì để vui thú hết. Lúc còn nhỏ, anh thường nghĩ đó là ý nghĩ lạ kỳ, quá đáng, nhưng bây giờ lời lẽ của ông là đúng lý. Muốn trưởng thành thì phải đón nhận những thử thách vô định chực chờ, phải tránh né tình bạn để đổi lấy trách nhiệm. Đôi lúc bạn phải từ chối tình thương mến để được tôn trọng. Và có một điều nào khác xảy đến với anh: điều nào đó cùng hòa điệu với ý nghĩ của anh về Susannah. Vì chỉ khi được tôn trọng thì người đàn ông mới có thể nhận được tình yêu, bởi vì đối với một phụ nữ, tình yêu phải có yếu tố kính trọng.
Anh xem qua những lá thư của mình: anh nghĩ đó là những lá thư tình, tuy không chứa đựng bản chất tình cảm gì nhiều. Rõ ràng là thế, tuy là một ngày nào đó, ai biết được... Có bốn lá thư, được xếp lại thẳng thắn, đã ghi địa chỉ người nhận, mà anh sẽ trao cho Per để gửi đi Sông Dove khi thời tiết cho phép. Anh lấy làm vui về các lá thư này, mà anh đã chép lại trong phòng mình, thêm thắt với câu từ lạc điệu của thứ triết lý nhùng nhằng khiến cho anh phải mất cả hai buổi tối, không dám uống rượu. Anh hình dung ra Susannah đọc các lá thư rồi cho vào chiếc túi, hoặc gói trong một chiếc khăn tay ướp nước hoa (chiếc khăn anh đã tặng cho cô?) để trong ngăn kéo.
Với một đợt tình cảm dâng trào, anh cố mường tượng khuôn mặt cô đúng vào lúc cô mỉm cười với anh trong phòng đọc sách, nhưng lại kinh hoàng mà thấy rằng không thể gắn chặt hình ảnh cô trong tâm trí mình. Anh có ấn tượng lãng đãng về nụ cười của cô, mái tóc nâu mềm dịu của cô, làn da trắng, đôi mắt màu hạt dẻ, nhưng các hình ảnh cứ xao động và mờ nhạt, không hòa nhập nhau thành một hình người trọn vẹn. Không hiểu sao mà anh có thể nhớ lại khuôn mặt của cô chị Maria, và của người cha, đều sắc nét tuyệt đối trong không gian ba chiều, nhưng hình bóng của Susannah thì cứ vượt khỏi tầm với của anh.
Anh ngồi viết ít dòng cho cô để kể cho cô về chuyến đi sắp tới của mình. Anh bị giằng co giữa ý tưởng một bên là làm cho chuyến đi nghe như nguy hiểm và can trường, và bên kia là không muốn cô lo lắng quá đáng nếu cô đọc lá thư trước khi anh quay về. Cuối cùng, anh viết với ngôn từ nhẹ nhàng, nói có lẽ mình sẽ trở về Caulfield trong khoảng ba tuần, và đó sẽ là cơ hội tốt để làm đại diện cho Công ty và gặp gỡ một quản trị viên khác, trong khi tâm tư anh sẽ thanh thản về việc Francis có tội hay không. Anh gửi cô những lời chúc tốt đẹp nhất, và rồi thêm đoạn cuối khiến cho anh hơi ngạc nhiên với chính mình, anh gửi lời hỏi thăm nồng nàn đến chị cô. Trong một lúc, anh đăm đăm nhìn vào tờ giấy, tự hỏi như thế là kỳ quặc hay không, nhưng anh không có thời giờ chép lại cả lá thư, nên anh cho vào phong bì, dán lại rồi đặt chung với các lá thư kia.
***
Bây giờ là mười giờ tối thứ Năm, ba tuần từ khi phát hiện thi thể của Laurent Jammet. Maria đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ của phòng đọc sách, tuy rằng không có gì để nhìn. Cô có thể nhận ra những luồng mưa đâm xuống bãi bùn nơi đáng lẽ là khu vườn hoa cảnh, nhưng bây giờ trông như chuồng bò. Phía xa hơn, chỉ có bóng tối xáo động, nơi các làn nước thỉnh thoảng bị thổi dạt hướng này hướng nọ, bắt lấy ánh sáng không ai biết chiếu đến từ đâu.
Bên trong ngôi nhà, quang cảnh không khá hơn bao nhiêu. Sau mấy sự kiện diễn ra vào buổi chiều, Bà Knox nằm thiêm thiếp trên giường do ảnh hưởng của loại thuốc gì đó mà Bác sĩ Gray cho bà dùng một tiếng đồng hồ trước. Bà không tỏ vẻ đau khổ nhiều như Maria đã nghĩ, nhưng vị bác sĩ đã có sức thuyết phục khi nói đến mối hiểm nguy của cơn sốc đến chậm, nên Maria khuyên bà phải nuốt loại thuốc nước đó. Susannah lộ vẻ đau đớn hơn, nhưng tính cách Susannah là thế - một cơn giông bão ập đến bất chợt rồi sau đó là trời quang mây tạnh. Tuy thế, tình hình vẫn còn nổi gió, cho dù ở dưới này Maria không nghe được gì cả. Ngôi nhà yên ắng như là tang tóc.
Sau khi tranh cãi diễn ra - rất nhiều tranh cãi, khi các bậc trưởng thượng trong thị trấn không đạt đồng thuận chưa hề có tiền lệ, cha cô bị bắt giam vì tội làm sai lạc quy trình của công lý. Bởi vì, dù sao chăng nữa ông là quan tòa được giả định của cộng đồng này chứ không phải người mang hai dòng máu lại lôi thôi lếch thếch, nên ông không bị giam trong kho chứa hàng, mà người ta quyết định đưa ông vào nhà của John Scott. Có nghĩa là ông bị giam trong một căn phòng kế bên phòng của Ông Sturrock, và các bữa ăn được mang đến cho ông. Phòng ông rất giống phòng của Ông Sturrock và tiền phòng cũng ngang bằng, nhưng cha của Maria không phải trả tiền cho đặc ân được cư ngụ ở đây.
Cùng với Ông Mackinley và Archie Spence, lúc năm giờ rưỡi chiều nay John Scott đến gõ cửa nhà ông Knox. Maria ra mở cửa, đưa họ vào phòng khách rồi đi tìm cha cô. Trong hai mươi phút, họ đóng cửa lại trao đổi với nhau, rồi cha cô đi ra để giải thích rằng, trên thực tế, ông sẽ bị bắt giữ. Ông nở nụ cười nhẹ, như thể đang đùa cợt với một chuyện vui cười. Trong khi vợ ông giận dữ phản kháng và Susannah khóc rấm rứt, Maria chỉ đứng mà không thể nghĩ ra phải nói gì. Mẹ cô xông vào phòng khách mà la lối với những người ở đây. Họ ngồi há hốc miệng và sợ hãi mà nghe bà miệt thị. Rõ ràng John Scott đã dao động tinh thần trong kế hoạch bắt cha cô ngay tại nhà, nhưng Mackinley vẫn kiên quyết, mắt và môi ông ta lộ nét vui mừng. Cha cô chấm dứt cuộc tranh cãi bằng cách nói rằng ông sẽ ở lại dọc con đường, chỉ đến khi vị quan tòa từ St Pierre được mời đến để phân xử. Ông hỏi - mà không có vẻ châm biếm - rằng họ có quy định khoản tiền bảo lãnh cho ông được tại ngoại hay không. Hiển nhiên là mấy người kia đã quên khuấy việc này. John Scott mở miệng nhưng không thốt ra được lời nào. Mackinley đằng hắng rồi nói họ sẽ xem xét, qua hôm sau sẽ đưa ra con số. Vấn đề là họ thực sự cần phải hỏi cha cô cách tiến hành thủ tục như thế nào.
Cuối cùng, Knox chấm dứt vụ việc khi yêu cầu họ ra về; ông nói đã đến giờ dùng bữa tối, và họ đang làm cho đầu bếp phải chờ đợi. Dĩ nhiên là ông đang nói đến Mary trong bếp, nhưng nghe ra như thể ông trách móc những người đến bắt mình khiến cho ông ăn muộn. Mackinley đã nhíu mày, cho dù có vẻ như cha cô không nhận ra. Maria nghĩ ông tỏ thái độ xuề xòa: đấy giống như là ông thấy vui vì bị bắt, như là họ đã sa vào chiếc bẫy do ông giăng ra. Ba người phụ nữ nhìn theo người chồng và người cha của họ đưa những người kia ra khỏi nhà, sau khi đã hỏi họ muốn mượn dù hoặc giày ủng cao su hay không. Mackinley và những người kia từ chối, dù lúc này tuyết đang rơi dày, dù trong nhà vẫn có dư các thứ cho họ mượn.
***
Sturrock lắng nghe những tiếng bước chân trên thang lầu. Ông đang nằm nghỉ trên giường, suy nghĩ về Bà Ross và về việc bà có đuổi kịp đứa con trai hay không, mà ông đinh ninh nó đã mang theo tấm thẻ bằng xương. Những sự kiện hỗn loạn trong mấy ngày vừa qua khiến cho ông nghĩ mình không nên lưu lại đây lâu hơn nữa. Bây giờ tuyết đã tan, có lẽ đã đến lúc ông nên trốn thoát. Nhưng dù có đi đâu thì ông lại rời xa hơn khỏi tấm thẻ mà ông khát khao, và chắc chắn họ sẽ dẫn anh con trai trở về đây khi tìm ra nó. Ông thở dài; chai whisky làm bạn với ông mấy ngày qua đã gần cạn. Đó là câu chuyện đời ông: tiến gần bất kỳ cái gì có giá trị trường cửu nhưng vẫn còn xa mục tiêu đạt được, hoặc không còn rượu để uống.
Đến đây, ông ngồi dậy và hiểu ra tiếng động ấy là gì: có lẽ là một người láng giềng, ông mở cửa phòng và thấy ông Mackinley và John Scott, cùng với một người mà ông không quen biết.
Scott bước đến ông, sau khi đã đóng lại cánh cửa của căn phòng đối diện: “À, Ông Sturrock. Tôi định đến để báo cho ông...”
“Một láng giềng mới phải không?” Sturrock hỏi với một nụ cười, điều khả dĩ cho một cuộc trao đổi hay ho là lý do của sự lạc quan.
“Không hẳn.” Sturrock nhận ra ánh mắt khinh miệt mà Mackinley ném đến phía sau đầu Scott. “Không, chúng tôi lâm vào tình thế bối rối của, à... phải giam giữ quan tòa, Ông Knox... và vì chúng tôi không thể giam ông ấy ở kho chứa hàng, hà hà, có vẻ như ngôi nhà này cũng tốt như bất cứ nơi nào khác, trong lúc này.”
Scott ngưng lại, một ít mồ hôi lấm tấm trên trán, ông này trông như đang khá căng thẳng, mặt đỏ hơn bao giờ hết.
Mackinley nói: “Ông Sturrock à, tôi mong chuyện này sẽ không làm phiền ông.”
Sturrock hỏi, hầu như vui vẻ: “Ý ông nói là ông giam Knox trong phòng kia phải không? Ông ấy đã làm cái quái gì vậy?”