Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 20
V
ề thời kỳ đó, tôi không thể nói nhiều, bởi nó trùng với chuyến du hành Âu châu đầu tiên của tôi. Tôi đã hai mươi mốt tuổi, tôi có thể hưởng thụ gia sản để lại theo cách mình thích nhất, bởi anh tôi không cần gì nhiều, và mẹ tôi cũng không đòi hỏi gì hơn; tội cho mẹ, bà đã già đi nhiều trong thời gian gần đây. Anh tôi muốn ký một chứng thư để tôi là người được hưởng quyền hoa lợi từ toàn bộ gia sản, chỉ cần tôi chuyển cho anh một số tiền hàng tháng, trả hộ anh thuế má, và thu xếp hộ anh một ít công việc. Không có cách nào khác là tôi phải đảm nhận việc quản lý các bất động sản, chọn một cô dâu, và thế là đã thấy trước một cuộc đời được quy định, êm thắm, mà dù cho các náo động dữ dội trong buổi chuyển giao thế kỷ, tôi đã có thể thực sự sống qua.
Tuy nhiên, trước khi vào việc, tôi tự thưởng cho mình một khoảng thời gian đi du lịch. Tôi cũng đã ghé Paris, đúng lúc để chứng kiến sự tiếp đón vẻ vang dành cho chuyến trở lại của Voltaire sau nhiều năm để thể hiện một vở kịch của ông. Song những điều ấy không phải là hồi ức của đời tôi, vốn chắc chắn không đáng để viết ra; tôi chỉ muốn đề cập rằng, trong suốt chuyến du hành này tôi đã hết sức ngạc nhiên trước cái tiếng tăm đã lan truyền về một người leo trèo ở xứ BóngRâm, ngay cả ở các nước ngoài. Thậm chí ở trong một cuốn niên giám, tôi đã gặp một hình vẽ với hàng chữ bên dưới: “Người hoang dã xứ BóngRâm (Cộng hòa Genova). Chỉ sống trên cây”. Họ tả anh ta như một sinh thể toàn bộ phủ lông tơ, với bộ râu dài, với cái đuôi, đang ăn một con châu chấu. Hình này nằm trong chương Quái vật, giữa Người lưỡng tính và Mỹ nhân ngư.
Trước các kiểu tưởng tượng này, tôi thường rất thận trọng mà không tiết lộ anh tôi chính là người đàn ông hoang dã đó. Song tôi tôn xưng mạnh mẽ điều này khi được mời đến dự một buổi tiếp tân chào mừng Voltaire ở Paris. Lão triết gia lúc ấy đang ngồi trên một chiếc ghế bành, được một đạo quân các quý bà chiều chuộng, hết sức vui vẻ và tinh quái như một con nhím. Khi biết tôi đến từ BóngRâm, ông ồm ồm hỏi tôi:
– C’est chez vous, mon cher Chevalier, qu’il y a ce fameux philosophe qui vit sur les arbres comme un singe?50
Và tôi, hứng chí, không thể kềm được nữa, xổ ra luôn:
– C’est mon frère, Monsieur, Le Baron de Rondeau51.
Voltaire rất ngạc nhiên, có lẽ cũng vì ông em của nhân vật phi thường đó lại hiện ra hết sức bình thường, và ông bắt đầu nêu ra những câu hỏi, chẳng hạn:
– Mais c’est pour approcher du ciel, que votre frère reste là-haut?52
– Anh tôi nhận định rằng – tôi trả lời – ai muốn trông thấy rõ mặt đất thì phải giữ khoảng cách cần thiết.
Voltaire rất thú vị với câu trả lời này.
– Jadis, c’était seulement la Nature qui créait des phenoménes vivants – và ông kết luận; - maintenant c’est la Raison53
Rồi lão hiền triết lại nhào vào cuộc tán chuyện huyên thuyên của các kẻ ái mộ ông một cách hữu thần.
Không lâu sau đó, tôi phải bỏ giở chuyến du hành để trở lại BóngRâm, một tin khẩn cấp gọi tôi về. Bệnh suyễn của mẹ chúng tôi đột nhiên trở nặng, thật đáng thương, bà đã phải nằm liệt giường.
Khi vào cổng, ngước mắt nhìn vào trang viên, tôi đã chắc là mình sẽ thấy Cosimo ở trên đó; thật vậy, anh đang bám trên một cành cao của cây dâu tằm, sát bên khung cửa sổ phòng mẹ.
– Cosimo!
Tôi gọi anh, giọng cố hãm lại. Anh gật gù ra điều bảo rằng, nói chung, mẹ đã đỡ mệt đôi chút, song bệnh tình thì vẫn nặng, chú hãy lên phòng mẹ ngay, nhớ là đi nhè nhẹ.
Căn phòng lờ mờ. Mẹ nằm trên giường, ngả lưng trên một xấp gối đệm, trông mẹ có vẻ to lớn hơn mọi khi. Xung quanh mẹ có vài phụ nữ giúp việc. Chị Battista vẫn chưa về tới, bởi vị Bá tước, chồng chị, người phải đưa chị đi, nấn ná ở lại lo vụ mùa hái nho. Bóng tối của gian phòng làm nổi bật hình ảnh Cosimo bất động trên cành cây giữa khung cửa sổ để mở. Tôi cúi xuống hôn tay mẹ. Nhận ra tôi ngay, bà đặt một tay lên đầu tôi.
– À! Biagio, con đã về…
Lúc cơn suyễn bớt thắt quặn lồng ngực, mẹ tôi có thể nói với một giọng nói yếu ớt, song rành mạch và rất tỉnh táo. Tuy nhiên, điều gây ấn tượng mạnh cho tôi là tôi thấy mẹ ngỏ lời mà không cần phân biệt là với tôi hay với Cosimo: như thể anh cũng đang đứng cạnh giường. Còn Cosimo thì trả lời mẹ từ trên cây.
– Cosimo, mẹ đã uống thuốc lâu chưa con?
– Chưa mẹ ơi, mới được ít phút thôi, mẹ hãy ráng chờ, uống bây giờ không tốt đâu.
Tới một lúc, mẹ nói:
– Cosimo, con đưa cho mẹ miếng vỏ cam.
Tôi cảm thấy lúng túng. Song lại càng kinh ngạc khi thấy Cosimo nhấc tay thò một cây sào móc đồ qua cửa sổ, anh gắp một miếng vỏ cam trên bệ rầm chìa, và để vào tay mẹ.
Tôi để ý thì thấy là tất cả những việc nho nhỏ này, mẹ thích nhờ anh.
– Cosimo, đưa cho mẹ chiếc khăn quàng.
Và anh, bằng cây sào móc, mò tìm nó giữa các thứ đồ khác quăng trên chiếc ghế bành, gắp nó lên, đưa cho mẹ.
– Đây, mẹ ơi.
– Cám ơn, con của mẹ.
Mẹ luôn nói với anh như anh đang ở cách mẹ nửa bước, song tôi nhận ra là mẹ không bao giờ nhờ anh làm điều gì đó mà anh không thể vươn tới từ trên cây. Trong trường hợp đó, mẹ luôn nhờ tôi hoặc các bà giúp việc.
Đêm đó, mẹ không chợp mắt. Cosimo ngồi trên cây trông chừng, cây đèn xách nhỏ treo trên cành, để mẹ có thể trông thấy anh trong bóng đêm.
Tảng sáng là lúc cơn suyễn hành mẹ dữ dội nhất. Phương thuốc duy nhất là giúp mẹ khuây khỏa, Cosimo thổi cho mẹ nghe một số bài hát ngắn bằng cây sáo sậy, hoặc nhại tiếng chim hót, hoặc bắt những con bướm và thả chúng bay vào phòng, hoặc rải những tràng hoa đậu tía.
Một ngày nắng đẹp. Trên cây, Cosimo, tay cầm cái bát, ngồi thổi bong bóng xà phòng bay vào khung cửa sổ, về phía giường người bệnh. Mẹ nhìn thấy các sắc màu óng ánh tung tăng len xen bay vào phòng, bà nói:
– Ồ! Con chơi trò gì vậy con!
Tưởng như hồi còn bé khi bà đã luôn chê các trò chơi của chúng tôi là phù phiếm và con nít; song không phải, bây giờ, có lẽ lần đầu tiên, bà cảm thấy thích thú với một trò chơi của chúng tôi. Những bong bóng xà phòng bay tới mặt mẹ, mẹ thổi vỡ chúng, và mỉm cười. Một quả bay tới tận trên môi mẹ, nó vẫn nằm nguyên. Chúng tôi cúi xuống mẹ. Cái bát trên tay Cosimo rơi xuống. Mẹ đã qua đời.
Sớm hay muộn, tin buồn rồi sẽ được tiếp nối bởi tin vui, đó là quy luật cuộc sống. Một năm sau khi mẹ chúng tôi mất, tôi đính hôn với một cô con gái của một gia đình quý tộc vùng lân cận. Tôi đã phải viện đến mọi lời hay ý đẹp để thuyết phục cô dâu về sống ở BóngRâm: nàng ngại anh tôi. Cái ý nghĩ là có một người đàn ông động đậy giữa cành lá, theo dõi mọi động tác của mình qua khung cửa sổ, bất thần hiện ra vào những lúc ít chờ ít đợi nhất, khiến nàng ớn lạnh, cũng vì nàng chưa bao giờ gặp anh, và nghĩ rằng, anh giống người Da đỏ. Để nàng trút đi nỗi sợ này trong đầu, tôi cho sửa soạn một bữa ăn ngoài trời, dưới những ngọn cây, Cosimo cũng được mời tới. Anh ăn ở bên trên chúng tôi, trên một cây sồi, các đĩa ăn được để trên một cái giá đỡ nhỏ; phải nói rằng, dù đã từ lâu không còn quen với các bữa ăn trong xã hội, anh tôi đã xử sự rất tốt. Ý trung nhân của tôi có phần yên dạ, nàng nhận ra rằng, dù ở trên cây, song anh tôi cũng giống như những người đàn ông khác; tuy vậy, trong nàng vẫn còn một nỗi nghi ngại không sao khỏa lấp.
Ngay cả khi đã cưới nhau, chúng tôi về định cư ở BóngRâm, nàng không những hết sức tránh không nói chuyện, mà còn không muốn trông thấy ông anh rể, dù rằng anh, thật tội nghiệp, đôi lúc mang lại cho nàng những bó hoa hoặc những bộ da thú có giá trị. Khi chúng tôi có con, và chúng ngày một lớn, thì nàng đâm ra nghĩ rằng, sự gần gũi cái ông bác này có thể để lại một ảnh hưởng tiêu cực trên sự giáo dục chúng. Nàng chỉ hết rầu rĩ khi chúng tôi cho sửa sang lại tòa lâu đài, đã từ lâu bỏ trống, trong thái ấp cũ của chúng tôi ở Rondo, thế là chúng tôi ở đó nhiều hơn ở BóngRâm, để các đứa trẻ không bị noi gương xấu.
Ngay cả Cosimo cũng bắt đầu cảm thấy thời gian đang trôi qua, và dấu hiệu, chính là hình ảnh chú chó con Massimo GiỏiGiắn đang già đi, nó không còn muốn nhập vào các đoàn chó săn mà đuổi theo các con cáo, cũng chẳng mưu toan những cuộc tình ngớ ngẩn nhất, với một nàng chó Đan Mạch, hoặc với một cô chó lớn tai cụp. Nó luôn ngồi xổm, như thể vì cái khoảng cách đã quá sát rạt giữa bụng và mặt đất không còn đáng để cho nó đứng nữa. Nó nằm dài, duỗi người ra từ đuôi đến mõm, dưới gốc cây nơi Cosimo đang ở trên đó, ngước cái ánh mắt mệt mỏi nhìn ông chủ, đuôi vẫy nhè nhẹ. Cosimo đang trở nên bất bình: cái cảm giác trôi qua của thời gian truyền đạt trong anh một sự không thỏa mãn về đời mình, về cái sự lên và xuống lúc nào cũng quanh đi quẩn lại dăm ba cây cọc đó. Chẳng gì mang lại cho anh một sự hài lòng toàn vẹn nữa: đi săn cũng không, giải tỏa tình ái cũng không, sách vở cũng không. Chính anh cũng không biết mình muốn gì nữa: đắm chìm trong những cơn phát tiết, anh leo trèo nhanh như cắt trên những đỉnh cây mềm và mỏng mảnh nhất, như thể đi tìm những ngọn cây mọc trên đỉnh những ngọn cây để mà trèo luôn lên trên đó.
Một hôm, Massimo GiỏiGiắn không yên. Hình như có ngọn gió xuân thổi về. Nó ngước mõm, hít hít, lại hạ mõm xuống. Hai ba lần nó đứng dậy, đi qua đi lại, rồi lại nằm xuống. Thình lình, nó đứng dậy, chạy đi. Giờ thì nó nhẩn nha chạy nước kiệu, thỉnh thoảng dừng lại lấy hơi. Cosimo chuyền theo.
Massimo GiỏiGiắn chạy vào rừng. Dường như theo một hướng rất chính xác đã có trong đầu, bởi vì, dù đôi lúc dừng lại chổng chân tiểu, lè lưỡi nghỉ xả ngơi, và nhìn người chủ, nó vẫn mau chóng giũ lại người, tiếp tục lên đường không chút do dự. Nó chạy vào những khu vực Cosimo ít khi lui tới, thật vậy, hầu như anh chưa bao giờ tới, vì đó là vào trong lãnh địa săn bắn của Công tước Tolemaico. Vị Công tước già lụ khụ này chắc chắn từ đời thuở nào đã không đi săn, song không kẻ đi săn lậu nào có thể bén mảng tới cái lãnh địa của ông ta, bởi trong đó có rất nhiều viên đội bắt săn trộm và luôn luôn được canh chừng; Cosimo đã từng có có kinh nghiệm, anh tránh xa. Lúc này, Massimo GiỏiGiắn và Cosimo đang xâm nhập vào lãnh địa săn bắn của Công tước Tolemaico, song cả nó lẫn anh đều không nghĩ đến chuyện sục sạo các con mồi quý giá: chú chó con thì chạy nước kiệu theo tiếng gọi thầm kín của nó, còn vị Nam tước thì tràn ngập sự tò mò sốt ruột trong việc khám phá ra chú chó con của mình chạy về nơi đâu.
Nó chạy như thế cho tới cuối khu rừng, nơi có một cánh đồng cỏ. Hai con sư tử đá ngồi trên cột bám giữ một huy hiệu. Quá sang bên đó có lẽ bắt đầu một công viên, một ngôi vườn, một khu vực riêng biệt nhất trong lãnh địa của Công tước Tolemaico: song chỉ có hai con sư tử đá ấy, còn lại là đồng cỏ, một cánh đồng cỏ xanh là là mênh mông, chỉ thấy ranh giới đằng xa là một nền sồi đen xám. Bầu trời phía sau lờ lững làn mây mỏng. Không một tiếng chim hót.
Với Cosimo, cánh đồng này là một cảnh tượng tràn ngập hoảng hốt. Vị Nam tước – luôn sống trong cái thế giới thực vật rậm dày ở Bóng Râm, chắc mẩm mình có thể chuyền tới được bất kỳ chỗ nào qua những tuyến đường của mình – chỉ cần đối diện với một khoảng trống trống trải, không thể chuyền qua, trần trụi dưới bầu trời, là cảm thấy chóng mặt.
Massimo GiỏiGiắn, như thể trẻ lại, phóng mình vào cánh đồng cỏ, chạy hết tốc lực. Bám trên cây tần bì, Cosimo bắt đầu huýt sáo gọi nó:
– Quay lại đây! Massimo GiỏiGiắn! Mày chạy đi đâu thế?
Song chú chó con không vâng lời, cũng chẳng ngoái đầu lại: nó tiếp tục chạy, chạy trên cánh đồng cỏ, cho tới lúc anh chỉ còn thấy một dấu phẩy ở đằng xa, cái đuôi của nó, rồi dấu phẩy cũng biến mất.
Trên cây tần bì, Cosimo xoa chặt nắm tay. Dù anh đã quen với những chuyến bỏ đi và vắng mặt của chú chó con, song bây giờ nó biến mất trong cái cánh đồng cỏ không thể vượt qua. Sư bỏ chạy của nó nhập chung vào cái nỗi khắc khoải ít phút trước đó, và nạp đầy trong anh một niềm trông ngóng mơ hồ, điều gì đó ở bên kia cánh đồng cỏ.
Đang quay cuồng với những ý nghĩ, thì anh nghe tiếng chân người đi dưới cây tần bì. Một viên đội canh săn trộm đang đi ngang, một tay đút túi quần, miệng huýt sáo. Nói thật, trông anh ta khá luộm thuộm và lơ đễnh để mà là một trong những viên đội canh săn trộm dữ tợn trong khu vực; thêm nữa, các phù hiệu đeo trên bộ đồng phục cũng thuộc đội quân của vị Công tước; Cosimo dán chặt người vào thân cây. Sau đó, ý nghĩ về chú chó con lại chế ngự; anh lên tiếng:
– Này ông đội canh, ông có trông thấy một chú chó con không?
Viên đội canh:
– À! Thì ra ông! Tay thợ săn chân bay bổng với chú chó bụng sát rạt! Không, tôi không thấy! Thế sáng nay ông săn được gì quý nào?
Cosimo đã nhận ra đây là một trong những kình địch hăng hái nhất của mình, anh nói:
– Được gì đâu, chú chó con của tôi chạy đâu mất, tôi đang lần theo nó mà đến đây… súng của tôi đã lên đạn sẵn…
Viên đội canh cười:
– Ồ! Ông cứ việc lên đạn và tha hồ mà bắn! vì giờ thì…
– Giờ thì… gì?
– Giờ thì vị Công tước đã qua đời, ai mà còn quan tâm đến cái lãnh địa săn bắn này nữa.
– Ơ! Vậy à, ông ta đã chết, thế mà tôi không biết.
– Đã chôn cất được ba tháng nay. Rồi nổ ra cuộc cãi nhau giữa các người thừa kế: bà vợ cả, bà vợ bé, và bà mệnh phụ phu nhân trẻ mới cưới.
– Ông ta có một bà vợ thứ ba à?
– Làm đám cưới khi ông ta được tám mươi tuổi, một năm trước khi chầu trời, còn nàng thì hai mốt hoặc ít hơn. Tôi cho rằng đúng là chuyện điên khùng, một cô dâu không sống chung một ngày, chỉ bây giờ cô ta mới bắt đầu đi thăm viếng các tài sản của ông ta, và không thích.
– Ông nói sao: cô ta không thích?
– Ai mà biết được, cô ta về ở trong một dinh thự, hoặc một thái ấp, kéo theo cả một đoàn tùy tùng, vì luôn có cái đám cả quỷnh bám sau; sau vài ngày, cô thấy thứ gì cũng xấu, thứ gì cũng buồn, và cô lại đi. Thế là những người thừa kế khác nhảy ra, họ nhào vào chỗ đó, đòi quyền sở hữu. Và nàng thì: “à, vậy hả, cứ lấy phắt cái của nợ ấy đi!”. Bây giờ cô tới đây, đang ở trong gian tạ săn, nàng ở đây cho đến bao giờ à? Chẳng được bao lâu đâu.
– Thế cái gian tạ săn ấy ở đâu?
– Phía dưới kia, sau cánh đồng cỏ, bên kia rặng sồi.
– Vậy là con chó của tôi đã chạy đến đó…
– Chắc nó đi tìm xương… xin lỗi, tôi có cảm tưởng là Tướng công bỏ nó đói meo đói mốc đấy.
Và viên đội canh săn trộm cười ha hả.
Cosimo không trả lời, anh nhìn cánh đồng cỏ không thể vượt qua, chờ chú chó quay lại.
Trọn cả một ngày nó vẫn chưa quay lại. Hôm sau, Cosimo lại ở trên cây tần bì, trầm ngâm nhìn cánh đồng cỏ, như thể anh bất lực trước cái nỗi hốt hoảng mà nó gây cho anh.
Đến chiều, chú chó con xuất hiện, một chấm đen trên cánh đồng cỏ mà chỉ với cặp mắt sắc bén của Cosimo mới có thể nhận ra; nó đi tới, càng lúc càng hiện rõ.
– Massimo GiỏiGiắn! Tới đây! Mày đã đi đâu?
Chú chó dừng lại, vẫy đuôi, nhìn chủ nhân, sủa ăng ẳng, ra điều mời anh đi theo nó, song nó nhận ra rằng cái khoảng cách mà Cosimo không thể vượt qua, nó quay ngược lại, bước những bước ngập ngừng, và rồi, lại quay đi.
– Massimo GiỏiGiắn! Tới đây! Massimo GiỏiGiắn!
Song chú chó con vẫn chạy đi, khuất dạng về phía xa trên cánh đồng cỏ.
Một lúc sau, hai viên đội canh đi ngang:
– À, Tướng công vẫn ở trên đó chờ con chó à! Thế mà tôi thấy nó ở cái gian tạ săn, trong vòng tay chăm sóc tốt…
– Thế là thế nào?
– Ông à, bà Hầu tước, hoặc bà Công tước mệnh phụ (chúng tôi gọi là bà Hầu tước bởi thời con gái bà ta là một nữ Hầu tước), vuốt vuốt ve ve nó, như thể đã có nó từ trước đến giờ. Tướng công ơi, cho phép tôi nói nhé, nó chỉ là một chú chó để bồng để ẵm mà thôi. Giờ thì tôi thấy nó là một cục cưng trong nhung lụa đấy, và nó sẽ ở lại đó…
Và hai viên đội canh rời bước, miệng cười toe toét.
Massimo GiỏiGiắn không trở lại. Hết ngày này sang ngày khác, trên ngọn cây tần bì, Cosimo nhìn cánh đồng cỏ như thể ở nó anh có thể đọc ra điều gì đó day dứt trong lòng từ lâu nay: cái ý niệm về sự cách xa, về sự không thể vượt qua, về một sự trông đợi có thể kéo dài cả đời.