Số lần đọc/download: 4630 / 199
Cập nhật: 2015-09-12 13:13:51 +0700
Chương 20: “Tớ Sẽ Sống Mãi! – Mãi Mãi!”
V
ậy mà bọn trẻ buộc phải chờ hơn một tuần lễ nữa, bởi mấy ngày sau đó gặp phải những cơn gió lộng tơi bời, lại thêm việc Colin có nguy cơ cảm lạnh, hai chuyện đó, chuyện này nối tiếp chuyện kia, đã đẩy Colin vào một cơn thịnh nộ. Chúng còn phải vạch kế hoạch sao cho thật công phu và bí mật, và Dickon hầu như ngày nào cũng đến chơi, dù chỉ trong ít phút, để kể chúng nghe những việc đang diễn ra ngoài cánh đồng hoang, trên những lối mòn, hàng giậu và hai bên bờ suối. Những chuyện của nó thường là về ngôi nhà của bọn lửng, rái cá và chuột nước(chuột nước là loài động vật giống như con chuột, bơi dưới nước, sống trong hang bên bờ sông, bờ hồ), và còn chưa kể các tổ chim, chuột đồng và hang hốc của chúng. Chỉ riêng những chuyện đó thôi cũng đủ khiến người ta run lên vì thích thú, nhất là khi được nghe mọi điều riêng tư về muông thú từ miệng một người yêu quý chúng và người ta nhận ra rằng toàn thể thế giới nơi lòng đất lúc này đây đang bận rộn với niềm náo nức và hâm hở đến nhường nào.
–Chúng cũng giống như chúng tôi thôi,- Dickon nói. – Chỉ có điều mỗi năm chúng lại phải xây nhà một lần. Điều đó khiến chúng phải lo giành giật cho được những chỗ tốt.
Tuy nhiên hấp dẫn nhất là việc chuẩn bị để đưa Colin ra ngoài, trong khi vẫn giữ được bí mật cho khu vườn. Không ai được nhìn thấy chiếc xe đẩy cùng Dickon và Mary sau khi chúng rẽ vào một góc quanh có bụi cây, rồi tiến vào lối đi dạo bên ngoài mấy bức tường phủ dãy thường xuân. Mỗi ngày trôi qua, Colin càng tâm niệm rằng điều bí mật xung quanh khu vườn là một trong những nét quyến rũ nhất của nơi ấy. Không gì được phép làm hỏng điều đó. Và không ai được phép làm hỏng điều đó. Và không ai được phép nghi ngờ rằng bọn trẻ có cả một bí mật. Mọi người phải nghĩ rằng Colin ra ngoài cùng với Mary và Dickon bởi nó mến hai đứa ấy và không phản đối việc chúng nhìn nó. Bọn trẻ đã vui vẻ bàn tán rất lâu về lộ trình của chúng. Chúng tính sẽ đi ngược lên đường mòn này rồi tạt xuống đường mòn kia, vượt ngang lối đi nọ, từ đấy đi vòng vèo giữa các luống hoa có vòi phun, như thể chúng đang ngắm nghía những thảm cây được cắt tỉa gọn gàng mà người quản vườn, ông Roach, đã dày công cho sắp đặt. Chuyện đó thật hợp lý, nên sẽ chẳng ai mảy may ngờ rằng ở đây có điều gì đó bí hiểm. Rồi chúng sẽ tạt vào các lối đi có nhiều cây bụi để cho khuất dạng, cho tới khi đến bên những bức tường dài. Đó quả là những dự tính nghiêm túc và tỉ mỉ, chẳng khác nào bản kế hoạch tác chiến do các tướng lĩnh tài ba vạch ra.
Những lời xầm xì về những chuyện mới mẻ khá thường trong phòng người ốm, dĩ nhiên, đã lan ra, từ phòng gia nào nhân sang khu chuồng ngựa cho tới đám thợ làm vườn. Thế nhưng mặc dù đã biết điều đó, một bữa nọ ông Roach vẫn không khỏi giật mình khi nhận được lệnh từ phòng riêng của cậu Colin rằng ông phải thân chinh đến báo cáo tại căn phòng mà chưa người ngoài nào được thấy, bởi kẻ ốm o kia muốn nói chuyện với ông.
–Chà, chà,- ông nhủ thầm khi vội vã thay áo khoác. – Bây giờ ta biết làm gì đây? Vị hoàng thân không thể cho gọi một kẻ mà ông ta chẳng bao giờ thèm để mắt.
Ông Roach không khỏi tò mò. Ông chưa bao giờ thấy, thậm chí dù chỉ thoáng qua, bóng dáng thằng bé đó. Ông cũng đã nghe hàng tá những câu chuyện đồn thổi về diện mạo kỳ quặc và tâm tính khác thường của nó. Những gì mà ông hay được nghe nhất, đó là thằng bé có thể chết bất kỳ lúc nào, cùng với một lô một lốc những mô tả kỳ khôi về một người gù lưng và những cái bướu vô phương cứu chữa từ miệng những kẻ chưa bao giờ nhìn thấy cậu.
–Biết bao điều đang đổi thay trong ngôi nhà này, ông Roach ạ. – Bà Medlock bảo khi bà đưa ông lên đoạn cầu thang phía sau dẫn tới cầu thang, từ đó mở thông sang gian phòng ngủ mà cho đến giờ vẫn chìm trong màn bí ẩn.
- Hy vọng mọi thứ đổi thay theo chiều hướng tốt, thưa bà,- ông đáp.
- Không thể xấu đi được,- bà tiếp tục,- và lạ lùng không kém là bọn trẻ đã biết bổn phận của chúng, nên cũng thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông đứng có ngạc nhiên, ông Roach, nếu bất chợt nhận thấy mình đang ở giữa một bầy thú, và thấy thằng Dickon em trai Martha ở đó thoải mái như ở nhà, còn hơn cả ông và tôi.
Thật sự thì như có một thứ phép lạ gắn liền với cái tên của Dickon như Mary vẫn thầm tin tưởng. Ông Roach vừa nghe tên cậu liền mỉm cười khoan dung.
-Với thằng bé này thì dù có ở Điện Buckingham hay dưới đây hầm than thì cũng như ở nhà thôi,- ông nói. – Nó cũng chưa bao giờ láo xược. Nó là người tốt.
Có thể ông đã chuẩn bị tinh thần hay chính ông cũng bị bất ngờ. Khi cánh cửa phòng ngủ mở ra, một con quạ to tướng, như thể đang ở nhà nó, đậu lên lưng tựa cao của chiếc ghế chạm trổ, loan báo sự có mặt của vị khách bằng cách kêu tướng lên “quạ-quạ”. Dủ đã có lời báo trước của bà Medlock, ông Roach vẫn phải cố giữ tư thế chững chạc bằng cách nhảy lùi về phía sau.
Vị tiểu vương trẻ không nằm trên giường mà cũng không ngã lưng trên sofa. Cậu ta đang ngồi trong ghế bành, con cừu non đứng cạnh ve vẩy đuôi đúng điệu cừu non bú mẹ, trong khi Dickon quỳ giữ chai sữa cho nó. Một con sóc ngồi trên cái lưng khom khom của Dickon đang mải mê nhằn hạt dẻ. Còn con bé đến từ Ấn Độ ngồi trên chiếc ghế đẩu lớn chăm chú nhìn ra.
–Thưa cậu Colin, đây là ông Roach,- bà Medlock bảo.
Vị tiểu vương trẻ quay ra nhìn người nô bộc của mình từ đầu đến chân – chí ít đó là điều mà người quản vườn đã nghĩ.
-Ồ, ông Roach đấy à,- nó nói. – Tôi cho gọi ông để giao cho ông mấy việc quan trọng.
- Tốt quá, thưa cậu,- ông Roach đáp lại, tự nhủ không biết có phải mình sắp nhận được lệnh đốn bỏ toàn bộ sồi trong công viên hay chuyển vườn cây ăn quả thành vườn thủy tạ.
- Tôi định ra ngoài trên ghế của mình vào chiều nay,- Colin bảo,- nếu khí trời hợp với tạng người tôi thì tôi có thể sẽ đi dạo hàng ngày. Mỗi khi tôi đi dạo thì không người làm vườn nào được phép có mặt ở bất kể nơi đâu gần với lối đi dạo ven các bức tường bao quanh khu vườn. Không một ai được phép ở đó. Khoảng hai giờ chiều tôi sẽ ra khỏi nhà và mọi người phải tránh xa cho tới khi tôi bảo rằng họ có thể quay trở về làm việc.
- Dạ, được ạ, thưa cậu,- ông Roach trả lời và cảm thấy nhẹ cả người khi rặng sồi vẫn còn và các vườn cây ăn quả vẫn yên ổn.
-Mary,- Colin vừa nói vừa ngoảnh sang con bé,- ở Ấn Độ người ta nói gì khi họ kết thúc câu chuyện và muốn mọi người đi ra.
-Người ta bảo: “Ngươi được phép lui”. – Mary đáp.
Vị tiểu vương vẫy tay ra hiệu.
-Ông được phép lui, ông Roach, nhưng cần nhớ rằng việc này rất hệ trọng.
“Quạ- quạ”, con quạ phụ họa bằng giọng khàn khàn cộc cằn, nhưng không hề vô lễ.
-Tốt quá, thưa cậu. Cảm ơn cậu,- ông Roach bảo. Rồi bà Medlock đưa ông ra khỏi phòng.
Ra tới hành lang, vốn bản chất hiền hậu, ông cứ mỉm cười mãi cho tới khi cười lên thành tiếng.
-Lạy trời! – ông bảo,- cậu ấy có một phong cách quý tộc rất ư tao nhã, phải không? Bà có cho rằng cậu ấy thừa hưởng cả truyền thống Hoàng gia trong người mình, như một vị hoàng tử và gì gì nữa chứ?
-Hứ! – Bà Medlock biểu lộ sự không tán thành. – Chúng ta đã để cho cậu ấy giẫm đạp lên tất cả kể từ khi cậu ấy chập chững biết đi, và cậu ấy quen nghĩ mọi người sinh ra là để như vậy.
-Có thể rồi đây cậu ấy sẽ không còn như thế, nếu cậu ấy còn sống. – ông Roach gợi ý.
-Chà, đó là điều có thể tin được,- bà Medlock nói,- nếu cậu ấy sống và đứa trẻ từ Ấn Độ còn ở đây, tôi cam đoan rằng con bé dạy cậu ta rằng cả quả cam không thuộc về cậu ấy, như bà Susan Sowerby đã ví von. Và đây có vẻ là lúc thích hợp để cậu ấy khám phá xem phần cam của cậy ấy là bao nhiêu.
Bên trong căn phòng, Colin đang ngồi tựa lưng vào tấm nệm.
-Vì vậy tất cả đều ổn,- nó nói,- chiều nay mình sẽ nhìn thấy nó, chiều nay mình sẽ được ở trong đó.
Dickon trở lại khu vườn cùng với mấy con thú. Mary vẫn ở bên Colin. Con bé không nghĩ Colin đang mệt, nhưng thẳng bé hoàn toàn im lặng trước bữa trưa được dọn ra và suốt thời gian dùng bữa nó vẫn chẳng nói lấy một câu. Mary ngạc nhiên không hiểu tại sao, liền lên tiếng hỏi:
-Colin này, cậu có đôi mắt to thật. Khi cậu đang suy nghĩ điều gì thì trông chúng như hai chiếc đĩa vậy. Lúc này, cậu đang nghĩ gì thế?
-Tớ không thể không suy nghĩ trông nó sẽ như thế nào,- thằng bé đáp.
-Khu vườn ấy à? – Mary hỏi.
-Mùa xuân! – thằng bé đáp. – Tớ đang tự nhủ trước đây mình chưa bao giờ thực sự thấy nó. Tớ hiếm khi ra bên ngoài, mà hễ có ra thì tớ cũng chẳng thèm đoái hoài tới. Tớ thậm chí còn không nghĩ tới nó nữa kia.
-Tớ chưa bao giờ thấy mùa xuân ở Ấn Độ, bởi vì làm gì có. – Mary nói.
Sống khép kín và bệnh hoạn, Colin thậm chí còn tưởng tượng nhiều hơn cả con bé. Ít nhất, nó cũng đã dành khá nhiều thời gian cho những cuốn sách và những bức tranh đẹp đẽ.
-Sáng nay, khi cậu chạy vào và bảo: “Nó đến rồi! Nó đến rồi!”, cậu khiến tớ cảm thấy hết sức kỳ lạ. Câu ấy vang lên như báo hiệu đang đến với đám rước linh đình đang tiến lại cùng những âm thanh huyên náo tuôn trào, lẫn trong tiếng nhạc. Tớ đã thấy một bức tranh như thế trong một quyển sách: đám đông những con người đáng yêu cùng bầy trẻ nhò đeo các tràng hoa, tay cầm nhành hoa, ai nấy nói cười, nhảy múa, tụ tập, thổi sáo. Đó là lý do tại sao mà tớ bảo, “Biết đâu chúng mình sẽ được nghe tiếng kèn trumpet bằng vàng”, và giục cậu mở toang cửa sổ ra.
-Vui quá nhỉ! – Mary nói. – Đó đúng là những gì mà người ta có thể cảm thấy. Và nếu như tất cả hoa lá, cây cỏ, chim chóc và muông thú hoang dại cùng một lúc nhảy múa reo ca thì là cả một đám đông rồi còn gì! Tớ dám chắc rằng nếu chúng cùng nhảy nhót, ca hát và líu lo thì chắc hẳn sẽ làm nên bản hòa tấu tuyệt vời.
Cả hai đứa cất tiếng cười, không phải bởi ý tưởng buồn cười, mà bởi chúng đều thấy thích cảnh tượng đó vô cùng.
Chỉ một lát sau, cô bảo mẫu đã sửa soạn xong cho Colin. Cô nhận thấy thay vì cứ nằm ì như một khúc gỗ trong khi mặc quần áo thì hôm nay nó ngồi ngay dậy và gắng tự mình mặc lấy, trong suốt thời gian đó vẫn luôn mồm cười nói với Mary.
-Đây là một trong những ngày vui vẻ của cậu ấy, thưa ngài,- cô nói với bác sĩ Craven vừa tạt qua để kiểm tra tình trạng thằng bé. – Cậu nhà tinh thần thoải mái nên khỏe khoắn hẳn ra.
-Tôi sẽ ghé lại lần nữa vào buổi chiều, sau khi cậu ấy vào trong nhà,- bác sĩ Craven bảo,- Tôi phải xem việc ra ngoài có thích hợp với cậu ấy không. Tôi mong rằng,- ông hạ thấp giọng,- cậu ta để cô đi cùng.
-Trong trường hợp này tôi thà từ chối ngay từ bây giờ, thưa ngài, còn hơn ở lại nghe theo lời gợi ý của ngài,- cô bảo mẫu đáp lại thẳng thừng.
-Quả tình tôi không định đưa ra gợi ý đó,- bác sĩ trả lời, vẻ hơi thiếu quyết đoán. – Chúng ta cứ thử nghiệm xem sao. Dickon là một anh bạn trẻ mà tôi hoàn toàn tin tưởng.
Người hầu lực lưỡng nhất trong nhà đã bế Colin xuống tầng dưới, đặt nó vào chiếc xe lăn, gần chỗ Dickon đang đứng đợi bên ngoài. Sau khi anh ta sắp lại tấm mền đắp lên đầu gối và tấm nệm của nó cho ngay ngắn, vị tiểu vương khoát tay bảo bác sĩ và cô bảo mẫu:
-Các vị có thể lui.
Hai người nhanh chóng biến mất. Cũng phải thú thật rằng họ đã khúc khích cười với nhau khi vào đến trong nhà.
Dickon bắt đầu đẩy chiếc xe lăn một cách chậm rãi, chắc chắn. Cô chủ Mary đi bên cạnh xe, Colin ngồi tựa lưng và ngẩng mặt nhìn bầu trời. Vòm trời cao vời vợi, mấy đám mây nhỏ trắng xóa như tuyết nom tựa một bầy chim trắng đang lững lờ sải cánh trên bầu trời xanh trong như pha lê. Làn gió từ cánh đồng hoang thổi tới, thoang thoảng hương thơm ngào ngạt, tinh khôi và hoang sơ. Colin rướn bộ ngực mảnh khảnh hít lấy hít để, lúc này đôi mắt của nó trông như thể đang căng ra lắng nghe, thay cho đôi tai.
-Có bao tiếng hát ca, ríu rít và gọi mời quanh ta,- Colin nói,- Mùi hương gì gió vừa đưa tới thế?
-Đó là mùi hoa kim tước đang nở rộ ngoài đồng,- Dickon trả lời,- Ôi! Ong bay ra nhiều thế này thì hôm nay trời đẹp lắm.
Trên các nẻo đường mòn chúng đi không có lấy một bóng người nào. Thực ra đám làm vườn đã được dặn dò phải tránh đi chỗ khác. Nhưng chúng vẫn lẩn qua lẩn lại giữa các đám cây bụi, rồi lại ló ra và đi vòng qua các luống hoa. Rốt cuộc, khi bọn trẻ rẽ vào lối đi dạo bên mấy bức tường cao phủ đầy dây thường xuân, cái cảm giác phấn khích trước nỗi xúc động đang tới gần khiến chứng, vì một lý do kỳ lạ nào đó mà chúng không thể giải thích nổi, bắt đầu mở miệng thì thào với nhau.
-Đây là,- Mary nói qua hơi thở. – Đây là nơi tớ thường đi tới đi lui và luôn băn khoăn suy nghĩ.
-Thế hả? – Colin khẽ kêu và đưa mắt nhìn đám dây thường xuân với nỗi tò mo háo hức. – Nhưng tớ chẳng thấy gì hết,- nó thì thầm. – Không có lấy một cánh cửa.
-Đó chính là điều đã khiến tớ suy nghĩ,- Mary nói.
Xung quanh im phăng phắc, không cả tiếng thở nhẹ, chiếc xe lại lăn bánh.
-Kìa là khu vươn nơi ông Ben Wealtherstaff làm việc. – Mary bảo.
-Thật hả? – Colin nói.
Thêm mấy nét nữa, Mary lại thì thầm.
-Còn đây là nơi con chim ức đỏ hay bay qua bức tường,- con bé nói.
-Thật chứ? – Colin kêu toáng lên. – Ôi! Ước gì nó trở lại!
-Và kia,- Mary nói với vẻ trang trọng xen lẫn thích thú, chỉ tay vào dưới bụi tử đinh hương( cây bụi có hoa màu tím nhạt hoặc trắng, mùi thơm dễ chịu) lớn- chính là nơi nó đậu trên một đống đất nhỏ mà chỉ cho tớ chiếc chìa khóa.
Thế là Colin nhỏm hẳn người lên.
-Đâu? Đâu? Chỗ đó hả? – Thằng bé kêu lên, đôi mắt mở thao láo như mắt sói. Dickon đứng lặng yên, chiếc xe đẩy cũng dừng bánh.
-Còn đây,- Mary nói, nó rón rén bước tới luống hoa gần đám dây thường xuân,- là nơi tớ nói chuyện với nó khi nó từ trên bờ tường kia hót vọng xuống. Chỗ này là đám dây thường xuân bị gió thổi lật lên,- nói đoạn con bé đưa tay vén tấm rèm màu xanh đang buông rủ xuống.
-Ôi! Thế sao! – Colin thở hổn hển.
-Và đây, cái tay nắm, còn đây là cánh cửa ra vào. Dickon, đẩy cậu ấy vào trong đi, đẩy cậu ấy vào trong nhanh lên!
Dickon ra tay bằng một cú đẩy mạnh, chắc và hết sức tuyệt.
Colin buông phịch người tựa vào tấm đệm, thở hổn hển vì sung sướng, nó đưa tay bưng kín mắt để không thấy gì cho tới khi cả ba đã vào tới bên trong, chiếc xe dừng khựng lại như được điều khiển bởi phép thuật và cánh cửa khép lại sau lưng. Chỉ đến khi đó nó mới bỏ tay ra và nhìn quanh một lượt, như Dickon và Mary trước đây đã từng làm. Và trên bức tường, đất đai, cây cối cùng những cánh nhánh mềm mại đang đung đưa trong gió là cả một tấm mạng màu xanh tuyệt đẹp do ngàn vạn chiếc lá nhỏ xíu mềm mại dệt thành đang phủ kín khắp nơi; trên bãi cỏ dưới bóng cây, nơi các bình xám trong hốc tường, chỗ này chỗ kia, hết thảy đều rực lên những đốm hoa màu vàng, tím, trắng; và những cây cao cũng đang khoe những đóa hoa màu phớt hồng và màu trắng như tuyết ngay trên đầu thằng bé; rồi thì tiếng vỗ cánh đầy xao xuyến của chú chim nào đó và tiếng líu lo ngọt ngào mơ hồ, tiếng vo ve cùng muôn vàn mùi hương. Vầng dương buông những tia nắng ấm áp lên khuôn mặt Colin giống như có một bàn tay mơn man dịu dàng. Trong ánh mắt kinh ngạc, Mary và Dickon sững người đăm đắm nhìn nó. Thằng bé trông thật lạ lùng và hoàn toàn khác trước bởi sắc diện ửng hồng lan dần trên toàn bộ cơ thể nó- từ khuôn mặt trắng ngà cho đến cổ, hai bàn tay và tất cả.
-Tớ sẽ khỏe! Tớ sẽ khỏe! – Nó gào to. – Mary! Dickon! Tớ sẽ khỏe mạnh! Và tớ sẽ sống mãi mãi!