Nguyên tác: Le Feu
Số lần đọc/download: 282 / 15
Cập nhật: 2020-07-19 20:13:39 +0700
XIX - Oanh Tạc
G
iữa cánh đồng, sương mù bao la.
Trời xanh ngắt. Một chút nữa tuyết đã rơi lúc gần sáng phủ trắng lên vai và các kẽ tay áo. Chúng tôi đi hảng tư, đội mũ quàng kín đầu. Trong tranh tối tranh sáng nhờ nhờ trắng chúng tôi giống như một đám dân bị tàn sát từ một miền phía Bắc đang di cư về một miền khác ở phía Bắc.
Chúng tôi đi trên một con đường xuyên qua làng Ablanh-xanh-Nade bị tàn phá. Thoáng trông thấy lờ mờ từng đống trắng những nhà cửa và những mái nhà trơ vơ như những đám mạng nhện đen đen. Làng này dài đến nỗi khi chúng tôi biến vào đó lúc giữa đêm, đến khi băng giá bình minh bắt đầu chiếu ánh lờ mờ nhợt nhạt chúng tôi còn trông thấy những ngôi nhà cuối cùng. Chúng tôi nhận thấy trong một hầm nhà, qua chấn song sắt, ở bờ cái đại dương hóa đá ấy, một nhóm lửa mà những người canh phòng cái thành phố chết đó đã đốt lên. Chúng tôi lội bì bõm trong những ruộng lầy và lạc bước trong những vùng im lặng, bùn gắn chặt chôn chân xuống, rồi chúng tôi cố giữ thăng bằng đi trên một con đường khác, con đường đi từ Carenxi đến Xusê. Những cây dương liễu lớn ở bờ đường gẫy gục, thân cây tan nát; ở một nơi trơ ra một hàng cột những thân cây to lớn bị gẫy gập, và trong bóng tối, chúng tôi thấy hai bên những cây thấp lè tè, ngọn bị chẻ ra như những cây cọ, xác xơ rối bòng bong nào gỗ nào sợi, gấp khúc lại và như quỳ xuống. Thỉnh thoảng có chỗ đất lõm làm cuộc hành quân rối loạn, lắc lư. Đường đi biến thành ao, phải nhón gót mà vượt, gót giầy nện xuống nước rào rào như tiếng bơi chèo. Trên đường có rải những tấm ván to đặt cách quãng. Chúng tôi bị trượt chân khi những tấm ván đó bị ngập bùn và đặt không ngay ngắn. Có khi nhiều nước quá thì ván nổi lên, người đi qua đè nặng lên thì phập một cái, ván chìm xuống và người hoặc bị ngã, hoặc chệnh choạng, nên chửi rủa om sòm.
Lúc đó vào khoảng năm giờ sáng. Tuyết không rơi nữa, cảnh vật trơ trụi, kinh khủng hiện ra trước mắt chúng tôi, nhưng xung quanh vẫn còn là một vùng rộng quái gở đầy sương mù và bóng tối.
Chúng tôi đi, đi mãi. Đến một nơi có mô đất cao, tối om, phía dưới lúc nhúc những bóng người. Viên đội trưởng nói:
- Tiến lên thành hàng hai. Cứ hai người một, lần lượt mang một tấm gỗ và một cái phên.
Thế là bắt đầu phải khuân vác. Một trong hai người đeo thêm khẩu súng của bạn đồng ngũ. Anh này cựa quậy và kéo ra một cách chật vật ở đống gỗ một tấm ván dài trơn như mỡ, nặng có đến bốn mươi cân, hoặc một tấm phên bằng cả cành cây nguyên lá, rộng như một cánh cửa mà anh ta vừa vặn có thể giữ vững trên lưng; hai tay giơ lên bám chặt lấy mép nó, thân mình thì cúi gập xuống.
Rồi cứ thế lại đi rải rác trên con đường bây giờ trông đã xam xám, đi thật chậm, thật nặng nề, vừa đi vừa rên, vừa chửi rủa, nhưng vì còn phải hì hục nên câu chửi nghẽn ở cổ họng. Đi được, chừng trăm thước thì hai người trong mỗi cặp lại đổi gánh nặng cho nhau – người mang hai khẩu súng lại chuyển sang mang tấm ván hay tấm phên – thành thử đi được hai trăm thước thì tất cả mọi người, trừ những sĩ quan, đều mồ hôi nhỏ giọt mặc dù gió bấc thổi ác nghiệt, trong bình minh trắng xóa.
Bỗng nhiên một ngôi sao sáng chói lóe ở đằng xa, tại nơi đất hoang chúng tôi đang đi đến: pháo sáng. Một quầng sáng màu sữa soi sáng bầu trời, xóa mờ những chòm sao, rồi óng ả rơi xuống duyên dáng như những điệu bộ của nàng tiên.
Trước mặt chúng tôi, ở phía dưới kia, vọt ra một tia sáng, một ánh chớp, một tiếng nổ.
Đạn đại bác.
Qua làn ánh sáng lan rộng rất nhanh ngang phía chân trời, chúng tôi trông thấy rõ ràng ở trước mặt, có lẽ cách vào khoảng một cây số, hiện lên một ngọn núi kéo dài từ Đông sang Tây.
Cả cái mé núi phía chúng tôi từ đây trông thấy được đến đỉnh núi thuộc về quân chúng tôi chiếm giữ. Mé núi bên kia, cách tiền tuyến chúng tôi chừng trăm thước là tiền tuyến Đức.
Viên đại bác rơi trên đỉnh núi, vào tuyến của chúng tôi. Địch bắn.
Lại một viên đạn đại bác nữa. Một viên thứ ba, rồi một viên nữa trồng lên đỉnh đồi những cột ánh sáng màu tím chiếu rọi tới chân trời.
Thế rồi theo ngay đó, những ngôi sao lấp lánh hiện ra, cùng với một rừng những lùm khói sáng rực ở trên đồi. Một ảo ảnh thần tiên màu xanh và trắng lơ lửng nhẹ nhàng trước mắt chúng tôi, trong cái vực sâu hoàn toàn của đêm tối.
Trong bọn chúng tôi, những người đang cố sức lấy gân chân, gây tay để chống cho gánh nặng bết bùn trên lưng khỏi tuột xuống đất, họ không trông thấy gì và không nói năng gì. Những người khác, run lẩy bẩy vì rét, vừa khịt mũi, vừa chùi mũi bằng những chiếc mùi soa ướt đeo lẵng nhẵng, vừa chửi rủa những chướng ngại ở dọc đường bị phá tan hoang vừa nhìn vừa bàn tán.
Họ nói:
- Y như là đốt pháo bông.
Một ngôi sao đỏ, rồi một ngôi sao xanh lục, rồi một bó lửa đỏ chầm chậm hơn hiện ra như để đóng góp thêm vào cái ảo ảnh một cuộc dàn cảnh lớn lao của một tấn nhạc kịch thần tiên bi thảm đương diễn ra trước mắt bọn chúng tôi đương bò sát, lúc nhúc và bì bõm ở dưới thấp.
Trong hàng ngũ chúng tôi, anh em không thể không thì thào thán phục như một người dân thường, trong khi một nửa số anh em khác trố mắt ra nhìn:
- Ồ! Một cái đỏ!... Ồ! Một cái xanh!
Đó là quân Đức bắn pháo sáng, và cả quân Pháp cũng bắn pháo hiệu xin đại bác.
Con đường đi đến chỗ ngoặt và lên dốc. Ánh sáng ban ngày mãi bây giờ mới chịu hé. Mọi vật hiện ra bẩn thỉu. Xung quanh con đường phủ đầy một lớp sơn màu ngọc trai xam xám điểm những vệt trắng, cảnh vật thật đang hiện ra ảm đạm. Anh em đi khỏi làng Xusê đã bị tàn phá, nhà cửa chỉ còn trơ những nền nhà nát nhừ những gạch ngói, cây cối biến thành những bụi gai tơi bời lởm chởm trên mặt đất. Rẽ sang mé tay trái thì đi lọt xuống một cái hố. Đó là lối vào giao thông hào.
Anh em vất những tấm ván và phên xuống đất trong một khoảng đất tròn dành riêng, người vừa nóng bừng vừa giá lạnh, bàn tay ướt át, chân bị chuột rút, xước tuột da, mọi người ngồi ở trong hào và chờ đợi.
Vùi mình đến tận cằm vào trong hố, ngực ti vào đất dầy che đỡ, chúng tôi chứng kiến một tấn bi kịch chói lòa và sâu sắc đang biến diễn. Đại bác bắn càng nhiều thêm. Trên đỉnh đồi, những cột ánh sáng, trong bình minh nhợt nhạt, đã hóa ra những chiếc dù hơi khói, những con sứa xanh xao điểm một chấm lửa: rồi trong ánh sáng ban ngày rõ hơn, những chiếc chổi phất trần bằng khói được vẽ lên rõ nét, giống như những lông đà điểu màu trắng và xám bất chợt hiện ra trên mặt đất hỗn độn và ảm đảm của sườn đồi 119, cách chỗ chúng tôi từ năm trăm đến sáu trăm thước, rồi dần dần tiêu tan đi. Đó thực ra là cột lửa và cột khói quấn quít lấy nhau trong cơn lốc và nổ vang như sấm sét. Lúc đó chúng tôi trông thấy ở sườn đồi một nhóm người chạy đi tìm chỗ để nấp vào đất. Lần lượt từng người một họ biến vào những lỗ kiến rải rác ở đây.
Bây giờ thì phân biệt được rõ những phát đại bác rơi xuống: cứ mỗi phát là một nắm khói trắng lưu hoàng, ở dưới đen, hiện ra trên trời, nơi khoảng cao sáu mươi thước, tách đôi ra, loang lổ và trong tiếng nổ, tai phân biệt được tiếng rít của những nắm đạn con mà túm khói màu vàng văng xuống đất một cách dữ dội.
Đại bác nổ thành những loạt sáu tiếng một theo nhau: đoành, đoành, đoành, đoành, đoành, đoành. Đó là trái phá 77 ly.
Anh em thường khinh thường đạn trái phá 77, vậy mà chính Blêboa đã bị chết cách đây ba hôm vì một mảnh đạn này. Thường thì đạn nổ rất cao.
Bacơ giải thích, mặc dầu anh em đều biết cả:
- Cái bô cứt đái[47] bảo vệ được cái đầu lâu cậu chống với những hòn chì. Thế là chỉ có vai cậu là bị đạn, cậu sẽ ngã xuống nhưng không chết. Lẽ tất nhiên là vẫn phải cẩn thận. Chú ý đừng có nghếch mũi lên trong khi nó nổ hay là giơ tay ra xem có mưa hay không. Chứ còn cái đại bác 75 của ta!...
Mexnin Anđrê ngắt lời:
- Nhưng nào phải chỉ có trái phá 77. Còn đủ các loại. Nhìn hộ tớ cái này…
Có những tiếng rít chói óc, rung rung hay kèn kẹt, những tiếng quất. Và ở những sườn dốc trải dài lờ mờ đằng kia, nơi quân chúng tôi nấp trong những hầm trú ẩn, mây khói đủ các hình thù đang ùn ùn chất đống. Những cột lửa mờ mờ như những chiếc lông chim khổng lồ bây giờ hòa lẫn vào những làn hơi nước bao la, những hình nấm bắn tia thẳng lên trời, những chiếc phất trần bằng khói, vừa rớt xuống vừa tỏa rộng ra, hoặc trắng, hoặc xám lục, hoặc đen như than, đỏ như đồng, óng ánh váng, hoặc như vấy mực.
Hai tiếng nổ cuối cùng gần nhất trên miếng đất nện đã tạo thành những hình tròn khổng lồ bụi đen và nâu, khi tan ra thì từ từ bay theo gió, biến thành hình những con rồng truyện thần thoại.
Chúng tôi đứng nấp ở dưới hầm, những bộ mặt xếp hàng sát mặt đất, đưa mắt nhìn sáng cái miền đầy rẫy những hình thù ma quái, chói lòa và hung dữ trong cảnh đồng đất bị trời đè bẹp.
- Đây là loại 150 ly phun khói.
- Thằng mõm bò, loại 210 ly đấy chứ.
- Lại có cả đạn phá nữa. Quân chó má! Này mày xem cái kia!
Chúng tôi trông thấy một viên đại bác nổ ở trên mặt đất, tung đất cát và các mảnh vụn lên trong một đám khói tóe ra như cái quạt xòe. Có thể nói đó là một ngọn núi lửa phá nứt đất phun ra một cách khủng khiếp những thứ tích từ trong lòng trái đất.
Chung quanh chúng tôi tiếng ầm ầm như dưới địa ngục. Người ta có cảm giác kỳ lạ sự điên cuồng của tạo hóa càng được tăng cường liên tục mỗi lúc một cao. Cơn phong ba đủ các thứ tiếng nặng chình chịch, tiếng hò reo điên cuồng, tiếng rú quái vật đang trút xuống mặt đất phủ đầy những đám khói xơ xác, ở chính mặt đất đó chúng tôi đứng vùi đến cổ, và hơi đạn nổ làm chao đi chao lại như một chiếc tàu.
Bacơ gào lên:
- Này các cậu, thế mà có thằng bảo với tớ là chúng nó đã hết đạn!
- Ô! Là, là! Chuyện đó chúng ta nghe nhàm tai rồi. Báo chí nó đưa ra làm quà cho ta biết bao nhiêu là chuyện bịa đặt khác.
Trong những tiếng hỗn độn đó, nghe thấy một điệu tích tắc đều đều rõ mồn một.
Trong các thứ tiếng ồn ào của chiến tranh, cái tiếng cối xay chậm chạp đó nhói vào tim chúng tôi nhiều nhất.
- Cốt xay cà phê rồi! Của chúng ta đấy, nghe mà xem: tiếng nổ đều đều, còn của tụi Đức thì tiếng nổ ngắt không đều: tặc… tặc-tặc-tặc-tặc… tac-tac… tac…
- Mày nghe nhầm đấy, thằng khỉ! Có phải súng máy đâu: đó là một cái xe mô-tô đang đi trên con đường mé hầm 31, tít đằng kia.
Pêpanh cười gằn, ngẩng mặt lên quan sát không trung, tìm một cái máy bay:
- Tớ thì tớ cho là trên kia có một chú phi công đang ngắm chúng ta, đầu nó cúi xuống cái cán chổi[48] của nó.
Anh em bàn cãi. Chẳng biết thế nào cả! Tình hình là như thế. Giữa những tiếng long trời lở đất phức tạp ấy, mặc dầu chúng tôi đã quen tai nhưng vẫn có thể nhầm lẫn được. Như hôm trước đây, cả một tiểu đội đóng trong rừng nghe thấy một con la gần đó cất tiếng kêu, nửa tiếng lừa nửa tiếng ngựa hí, lại cho là tiếng đạn đại bác.
Lamuydơ nhận định:
- Mà này, sáng nay cái số “dồi lợn”[49] mới khá chứ.
Anh em ngước mắt lên đếm.
Côcôn đã đếm từ trước nói:
- Có tám cái của ta và tám cái của Đức.
Thực thế ở chân trời, đối lập với những khinh khí cầu của giặc trông bé hơn vì ở xa, có tám khinh khí cầu của chúng tôi đứng cách nhau đều đặn, như tám con mắt dài nhẹ nhõm và nhạy cảm của quân đội chúng tôi nối liền với những trung tâm tư lệnh bằng những sợi dây thần kinh sinh động.
- Chúng trông thấy bọn ta cũng như ta thấy bọn chúng. Thoát sao khỏi mắt của những vật thần kỳ khổng lồ ấy?
- À, đây, quân ta đã trả lời!
Quả thực, bất thình lình mé sau lưng chúng tôi, dậy lên những tiếng nổ gẫy gọn, chói tai nhức óc của đại bác 75 ly. Tiếng nổ liên tiếp không ngừng.
Trận sấm sét ấy làm chúng tôi phấn khởi, say sưa. Chúng tôi gào thét lên cùng với tiếng đại bác và, giữa cái hồi cà rùng quái đản mà mỗi tiếng là một phát đại bác, chúng tôi nhìn nhau không ai nghe được tiếng của nhau, trừ tiếng nói lạ kỳ the thé phát ra từ cái họng to của Bacơ.
Rồi chúng tôi nghển cổ nhìn về phía trước và trông thấy ở mé cao trên đồi, hiện ra một rặng cây ma quỉ, rễ cây khủng khiếp bám chặt vào mé dốc khuất bên kia, nơi quân địch đóng.
- Cái gì lạ thế?
Trong khi ở một trăm năm trước sau chúng tôi pháo đội 75 tiếp tục nổ vang nghe như tiếng chan chát rõ ràng của một cái búa khổng lồ đập trên đe, tiếp liền theo đó là tiếng nổ choáng váng mạnh mẽ và điên cuồng, thì một tiếng ùng ục khác lạ bao trùm lên hết thảy, vang đến chỗ chúng tôi.
- Loại này cỡ lớn thật!
Viên đạn đại bác rẽ không khí có lẽ cao đến một nghìn thước trên đầu chúng tôi. Tiếng động của nó trùm lên tất cả như một cái chụp, kêu ầm ầm. Hơi đạn đi chầm chậm. Chúng tôi cảm thấy đó là một loại đạn béo tròn, lớn xác hơn những thứ khác. Chúng tôi nghe thấy nó bay qua rồi rớt xuống phía trước như một sức rung động nặng nề và lớn dần đoàn xe điện ngầm tiến vào ga; sau đó tiếng rít nặng nề của nó lan ra xa. Chúng tôi bèn quan sát ngọn đồi trước mặt. Sau vài giây đồng hồ, ở đó nổi lên một đám mây màu nâu theo chiều gió tỏa ra khắp một nửa chân trời.
- Đó là khẩu 220 của pháo đội địa điểm “gamma”.
Vônpat khẳng định:
- Loại đạn này, người ta trông thấy được nó khi nó từ miệng súng bay ra. Nếu theo dõi được đúng hướng bắn, thì mặc dầu ta ở xa, cũng có thể nom rõ thấy đường đạn đi.
Một viên nữa tiếp theo.
- Kìa, trông, trông! Mày có thấy viên này không? Mày nhìn chậm quá, mất hút rồi. Phải quay đầu thật nhanh mới thấy được. Này, lại viên nữa, thấy chưa?
- Tớ không thấy.
- Đồ mặt mẹt! Dễ phải bắn hàng loạt thì mày mới thấy hẳn! Thật là đồ bị thịt! Đây, mau lên, viên này này. Đồ con tườu, đã thấy chưa?
- Thấy rồi, có thế thôi à?
Vài gã đã nom thấy một khối nhỏ đen đen, mỏng mảnh và nhọn, giống như một con sáo cụp cánh mỏ vươn ra phía trước, từ trên trời lao xuống đất vẽ nên một đường cong.
Vônpat hãnh diện nói:
- Nặng một trăm mười tám cân đấy, anh bạn ơi, và khi nó rơi vào một cái hầm thì nó giết sạch. Những người không bị mảnh nó tung đi thì cũng bị hơi đạn dập vào nát nhừ hoặc chết dí, không kịp ngáp.
- Người ta cũng trông thấy rất rõ đạn 270, y như một khối sắt lớn, khi súng moóc-chiê tung nó lên trời: a-lê hấp!
- Và cả đạn 155 Rimailô[50], nhưng loại này đi tít mù không trông theo được vì nó đi thẳng và xa quá: càng nhìn càng thấy nó vút tan đi trước con mắt trố của cậu.
Tất cả cái chuồng mãnh thú cùng hoạt động, như được sổ cũi, trong mùi diêm sinh, mùi thuốc súng, mùi giẻ cháy, đất nung phảng phất thành từng lớp trên cánh đồng. Tiếng rống, tiếng gầm, tiếng thét hung ác dị kỳ, tiếng mèo kêu như xé tai, lộn ruột, hoặc tiếng hú dài như tiếng còi tàu thủy gặp nạn ngoài khơi. Lại cũng có khi tiếng động giống như những tiếng kêu kinh ngạc thốt ra, gặp nhau trên không trung, đổi âm điệu thành giống như tiếng người. Cánh đồng từng chỗ nhô lên rồi lại thụt xuống; trông trước mặt, từ đầu này sang đầu kia chân trời, như một trận dông tố của vạn vật.
Và những khẩu đại bác cỡ lớn ở đằng xa, xa tít, đưa vọng lại những tiếng ầm ầm văng vẳng và chìm đi, nhưng người ta vẫn cảm thấy sức phá hoại ghê gớm của nó khi những luồng hơi đập mạnh vào lỗ tai.
Trên miền bị oanh tạc, bỗng phì ra và lắc lư một khối nặng nề, trông như nắm bông màu xanh đang lan ra bốn phía. Cái vệt màu này rõ ràng là táp nham trong bức họa làm chúng tôi phải chú ý, và tất cả những bộ mặt của bọn người chúng tôi đang bị giam trong hầm ngoảnh cả lại phía tiếng nổ ghê rợn.
- Đó là hơi ngạt, có lẽ thế. Chuẩn bị mặt nạ đi!
- Đồ chó đểu!
Facfađê nói:
- Đó thực là những phương tiện bất chính.
Bacơ nửa nạc nửa mỡ, nói:
- Vì lẽ gì?
- Chứ gì, những phương tiện bẩn thỉu, hơi…
Bacơ cãi lại:
- Nghe mày nói mà phát chán, phương tiện chính với chả bất chính? Khi đã có những con người bị bẹp dí, cắt khúc làm đôi, chẻ từ trên xuống, róc ra thành bó vì đạn đại bác thường, khi những bộ ruột bị lòi bằng hết như bị đinh ba kều ra, sọ người như bị vồ đập tụt cà vào phổi, hay là ở thân người, đầu biến mất chỉ còn một khúc cổ, óc phọt ra như mứt quả phúc bồn tử, rớt xuống ngực và lưng; khi ta đã trông thấy tất cả những cái đó rồi, mà sao còn nói được: “Như thế này thế này mới là những phương tiện sạch sẽ, nói cho nhau nghe nào!
- Nhưng dù sao đạn trái phá là được phép dùng, ai cũng thừa nhận…
- A! Mày muốn tao nói không? Này, mày làm tao cười ra nước mắt và chẳng bao giờ tao có thể khóc ra được nhiều nước mắt như thế đấy!
Nói xong gã quay lưng đi.
- Hê! Các chú, coi chừng!
Chúng tôi vểnh tai nghe: một gã đã nằm xoài ra; những gã khác nhíu lông mày, theo bản năng, nhìn về cái hầm trú ẩn mà họ không kịp đến; trong mấy giây đó, người nào cũng rụt cổ vào. Một thứ tiếng soàn soạt của đôi kéo khổng lồ đang lại gần và cuối cùng là tiếng ầm ầm chói tai như những mảnh tôn bị rỡ tung.
Viên đạn đại bác rơi không xa chúng tôi: có lẽ độ hai trăm thước. Chúng tôi rúc vào đáy hào, ngồi xổm ở đó cho đến khi một loạt mảnh đạn nhỏ tóe đến.
Parađi đào ở vách chiến hào ra một mảnh đạn vừa cắm vào đó, giống như một miếng than cốc lởm chởm cạnh sắc mà gã hất lên trong lòng bàn tay cho khỏi bị bỏng. Gã nói:
- Chưa nên nhận cái này vào mắt, mặc dầu nó bắn lại từ xa như thế.
Rồi bỗng nhiên gã cúi đầu; chúng tôi cũng cúi xuống.
B. sựt, b.sựt…
- Hỏa tiễn!... Thôi nó qua rồi!
Cái hỏa tiễn bay lên, rồi rơi thẳng xuống đất. Bình thường thì cái ngòi nổ này của viên đạn, sau khi đạn nổ, tách rời ra khỏi bộ phận đã nổ tan và chôn vùi dưới đất. Nhưng nhiều khi nó bay tứ tung, giống như một hòn cuội nóng đỏ. Phải coi chừng nó. Sau khi đạn nổ rất lâu nó còn có thể trúng vào anh, và theo những đường đi kỳ quặc không thể lường trước được, nó vượt qua bờ hào và xuyên vào những lỗ trú ẩn.
- Không có cái gì nguy ác bằng hỏa tiễn. Như có một lần, tớ…
Bacdơ thuộc đại đội II ngắt lời:
- Còn có loại ác hơn: đại bác quân Áo, cỡ 130 và 74.Hai loại này tớ rất sợ. Người ta bảo rằng nó mạ kền. Nhưng có điều tớ biết, vì mắt tớ đã thấy, là nó đi nhanh đến nỗi không có cách gì tránh được; vừa nghe tiếng vo vo là nó đã nổ ngay.
- Đại bác 105 của Đức cũng vậy. Cậu chẳng còn kịp nằm nép xuống giấu bộ ngực nữa. Bọn pháo binh có lần đã giải thích cho tớ như vậy.
- Này, tớ bảo cho cậu biết: đạn đại bác thuỷ quân, cậu chưa kịp nghe thấy nó đã đến rồi kia.
- Và cả đạn đại bác kiểu mới chó má này nữa, nó nảy thia lia trên mặt đất, chui vào đất rồi lại vọt ra cứ sáu thước một, đến hai ba lần rồi mới nổ. Khi trước mặt tớ, chúng nó có loại đại bác này thì tớ mất cả tinh thần. Tớ còn nhớ có một lần…
Viên đội mới, vừa đi qua lúc đó, đứng lại, nói:
- Các chú ơi, tất cả những cái đó đã ra quái gì? Phải xem chúng đã bắn vào ta như thế nào ở cái nơi mà tớ vừa trở về đây. Toàn đạn cỡ lớn: loại 380, 420 và hai thứ 44. Chỉ khi nào ta đã bị quần ở đó rồi thì mới có thể nói rằng: “Bây giờ tớ mới biết thế nào là bị quần”. Cây cối bị cắt hàng loạt như lúa chín, tất cả các hầm trú ẩn đều bị khám phá và bắn tan tành mặc dầu đã đắp ba lần gỗ khúc, tất cả các ngã tư đường đều bị tưới đạn; đường đi bị tung lên, biến thành những đống gồ ghề chồng chất những đoàn xe tan nát, những đại bác bị tiêu hủy, những xác chết xoắn vào nhau như xúc bằng xẻng. Các chú sẽ thấy cả ba mươi người cùng chết một lúc ở những ngã ba, có những thằng bị bắn lên giời, quay như chong chóng cao đến 15 thước trên không, mảnh quần còn sót lại vắt trên ngọn cây. Các chú đã thấy loại 380 ấy rơi vào một cái căng tin ở Vecđoong[51], xuyên từ mái nhà qua hai, ba tầng gác rồi nổ tung ở tầng cuối cùng, thế là cả tòa nhà lớn bị hất tung lên trời; còn ngoài đồng thì từng tiểu đoàn chạy tán loạn, nằm rạp người dưới cơn bão lửa như những con vật nhỏ khốn nạn không có cách che thân. Ngoài đồng ruộng thì cứ mỗi bước lại gặp ngay những mảnh đạn dầy bằng cánh tay, rộng như thế này này, phải bốn người lính mới khiêng nổi. Ruộng nương như một nơi hoang địa đầy đá tảng… và cứ như vậy hàng tháng không ngớt. Chà! Thật khiếp! Thật khiếp!
Viên đội nói xong bỏ đi, có lẽ để tới chỗ khác kể lại tóm tắt ký ức của anh.
- Này cậu cai trông những thằng kia, chúng ngốc hay sao vậy?
Chúng tôi trông thấy ở vị trí bị oanh tạc những hình người nho nhỏ chạy vội chạy vàng đến những nơi đạn đương nổ.
Bectrăng nói:
- Đó là bọn pháo binh. Khi một quả đại bác cỡ lớn nổ, họ chạy ngay đến sục sạo trong lỗ đất để tìm lấy cái ngòi, vì vị trí và cách thức cái ngòi cắm sâu vào đất có thể cho biết hướng của pháo đội địch đã bắn ra. Cậu hiểu chứ? Còn muốn biết khoảng cách của pháo đội đó, chỉ cần đọc những vạch khắc chung quanh ngòi mà bọn địch khi bắn viên đạn đi đã khắc vào đó.
- Tuy thế, nhưng bọn họ dám xông ra ngoài khi bị oanh tạc dữ như vậy, kể cũng gan dạ thật.
Một anh chàng thuộc đại đội khác, đương đi lại trong chiến hào, cũng chạy lại góp chuyện:
- Bọn pháo binh thì một là tốt, rất tốt, hai là xấu, cũng rất xấu. Hoặc là những tay cừ khôi, hoặc là những tay thật mèng. Như tớ đây, tớ đã…
- Cậu nói thế thì tất cả bọn lính trơn đứa nào chả thế.
- Cũng đúng thôi, nhưng tớ không nói tất cả bọn lính trơn. Tớ chỉ nói về bọn pháo thủ, và tớ cho rằng…
- Này các chú, có tìm ngay một chỗ tốt để mà trú ẩn không? Một mảnh đạn lớn có thể trúng vào đây bây giờ.
Anh lính lạ chuồn mất với câu chuyện bỏ dở, và Cô-côn xưa nay vẫn hay bướng bỉnh, tuyên bố:
- Thì vào hầm chải đầu chơi, vì ở ngoài này không đủ vui. Parađi trỏ những vị trí cao của quân chúng tôi mé bên phải, nói:
- Kìa đằng kia họ phóng ngư lôi đấy!
Những quả ngư lôi lao lên gần như thẳng đứng, như những con sáo, vừa rung rinh vừa kêu xoàn xoạt, rồi dừng hẳn lại, lưỡng lự và lại rơi xuống, khi rơi phát ra trong những giây cuối cùng một thứ tiếng kêu của trẻ con mà người ta nghe thấy rất rõ. Nhìn từ đây, những con người ở trên đỉnh cao trông giống như những cầu thủ vô hình đứng thành hàng mà chơi bóng.
Lamuydơ nói:
- Thằng em tớ tin cho tớ biết là ở Acgôn bọn chúng còn phải chịu đựng những con chim gáy như chúng nó nói. Đó là những viên đạn lớn, nặng, phóng rất gần, khi đến gần đích, nó kêu gù gù, thật đấy, em tớ bảo thế và khi nó nổ thì phải biết, nó làm toáng lên, em tớ bảo thế.
- Chẳng có gì bi đát hơn là cái loại ở chiến hào, nó như đuổi theo sát đít, chồm lên người chúng mày và nó nổ tan ngay trong chiến hào, làm tan hoang cả thành lũy.
- Này, này, mày có nghe thấy gì không?
Một tiếng rít bay đến chúng tôi rồi đột nhiên tắt ngẵng. Viên đạn không nổ.
- Viên đạn ấy bị thối!
Rồi người ta lắng tai để được hài lòng nghe thêm, hay không nghe thấy nữa những viên đạn khác đến.
Lamuydơ nói:
- Tất cả các mặt ruộng, đường xá, làng xóm đều phủ đầy những viên đạn đại bác bị thối đủ các cỡ; phải công nhận rằng có cả đạn của ta nữa. Dưới đất cũng có mà ta không trông thấy. Tớ tự hỏi sau này đến lúc nói: “Nào, bây giờ thì không phải là chuyện đó nữa, cày bừa đi thôi” thế thì lúc đó ta làm thế nào mà cày bừa được?
Bằng một giọng đều đều điên khùng, cơn bão táp sắt lửa vẫn tiếp tục. Những viên trái phá khi nổ, rít lên, loảng xoảng và giận dữ, những viên đạn đại bác cỡ lớn gầm thét như một chiếc đầu tàu mở hết máy đâm sầm vào một bức tường rồi vỡ tung ra, hoặc như tiếng đoàn tàu chở những thanh sắt và cột sắt lăn lông lốc từ trên dốc xuống. Bầu không khí trở nên mờ mịt ngổn ngang, từng luồng hơi nặng nề tạt qua; và xung quanh đó tất cả đất cát tiếp tục bị cày xới càng sâu hơn, càng triệt để hơn.
Và rồi những khẩu đại bác khác cũng góp phần vào. Đó là những đại bác của chúng tôi. Tiếng nổ giống như loại 75, nhưng mạnh hơn, tiếng vang của nó rền lâu hơn và chói tai như tiếng sét đánh vào núi.
- Đó là đại bác 120 nòng dài. Loại này đặt ở lề rừng cách đây một cây số. Đại bác này đẹp lắm giống như những con chó săn màu xám. Hình thù nó thanh thanh, nòng nhỏ nhắn. Cậu trông thấy chỉ muốn gọi chúng là “quý phu nhân”. Nó không giống đại bác 220, thứ đại bác y như một cái mõm, một cái thùng đựng than, khạc đạn từ dưới lên trên. Loại 220 phá hoại cũng khiếp lắm, nhưng đi trong đoàn xe pháo binh thì nó giống như những anh chàng cụt chân ngồi trên những cỗ xe nhỏ.
Câu chuyện đã uể oải. Đó đây có người ngáp.
Cuộc bắn phá kéo dài và rộng lớn ấy làm cho mọi người mệt mỏi. Tiếng người nói bị vùi lấp, không nghe được.
Bacơ kêu lên:
- Từ xưa tới giờ tớ chưa bao giờ thấy một cuộc bắn phá nào như thế này.
Parađi nhận định:
- Thì bao giờ người ta chả bảo thế.
Vônpat oang oang:
- Nhưng xét cho cùng, mấy hôm nay người ta nói luôn đến một cuộc tấn công. Tớ bảo đấy là bắt đầu một cái gì đó.
Những anh khác chỉ nói:
- À!
Vônpat tỏ ý muốn “đánh một giấc” và gã nằm xuống đất, lưng tựa vào một bên vách, chân đạp lên vách bên kia.
Anh em nói chuyện về các vấn đề linh tinh. Bikê kể chuyện về một con chuộc mà gã đã trông thấy.
- Nó lớn tướng và béo tròn, cậu ạ… tớ vừa bỏ giầy ra, thế là nó gậm tan cái cổ giầy luôn. Nên nhớ là giầy tớ vừa bôi mỡ.
Vônpat đương nằm yên, cựa quậy nói:
- Các cậu léo nhéo, làm tớ mất ngủ!
Mactơrô nói:
- Thằng váy đụp, mày lại muốn làm anh em tưởng rằng mày ngủ khì được giữa những tiếng ầm ầm như bây giờ phải không.
- Khò – ò, ò…
Vônpat trả lời bằng những tiếng ngáy.
o O o
- Tập hợp. Bước.
Chúng tôi đổi địa điểm. Họ dẫn chúng tôi đi đâu? Chẳng ai biết cả. Chỉ biết chúng tôi hiện là đội quân trù bị, và họ điều chúng tôi lần lượt tới củng cố các vị trí hoặc tới dẹp cho thông các giao thông hào, mà muốn tránh bế tắc và va chạm thì việc đi lại của quân đội trong giao thông hào khá phức tạp, không kém gì việc tổ chức qua lại của các đoàn xe lửa ở những nhà ga có nhiều hoạt động. Không thể nào phân biệt được hướng của cuộc chuyển quân vĩ đại trong đó trung đoàn chúng tôi chỉ là một bánh xe nhỏ đương quay, và cũng không thể hình dung được tất cả những đường chiến hào trong toàn bộ quân khu lớn lao. Nhưng khi tràn ngập trong cái mớ canh hẹ ở hạ tầng, chỉ những đi với lại không ngừng, mệt lử, nhừ người, tay chân rã rời vì đứng lâu tại chỗ, người cứ mê tơi đi vì đợi và ồn ào, ngạt thở vì khói, chúng tôi cũng hiểu rằng pháo binh của chúng tôi đang xuất trận mỗi lúc một mạnh và cuộc tấn công hình như đã đổi chiều.
o O o
- Đứng lại!
Một loạt súng trường mạnh mẽ, hung dữ và kỳ quái đập vào bờ chiến hào là nơi người ta vừa ra lệnh cho chúng tôi dừng chân lại.
- Bọn Frit (Đức, N.D) bắn nhiều đây. Chúng sợ ta tấn công, chúng hoảng. Chà! Chúng bắn dữ!
Một trận mưa đạn dầy đặc đổ trên đầu chúng tôi, băm nát không gian một cách khủng khiếp, xiết mạnh và lướt qua cánh đồng.
Tôi nhìn qua một lỗ châu mai, thoáng thấy một cảnh lạ lùng:
Ở trước mặt chúng tôi, cách chưa đầy mười thước, những hình người nằm xoài, không cử động, ở cạnh nhau, đó là một dãy lính bị chết. Và từ bốn phía, từng làn đạn bay đến, bắn lỗ chỗ vào hàng tử thi đó!
Đạn cày xới đất lên thành những vệt thẳng, tung lên từng đám bụi dài mỏng, xiên thủng và đập vào những thi hài đã cứng nằm dính trên mặt đất, bẻ gẫy chân tay đã khô, chui vào những bộ mặt xanh nhợt hết máu, làm nước ngầu đỏ bắn tung vào những hốc mắt đã rữa ra nước, và dưới làn đạn, người ta thấy những thi hài cựa quậy một chút, và có nơi cả dẫy tử thi như đổi chỗ.
Chúng tôi nghe thấy tiếng cụt ngủn của những viên đạn đồng nhọn xuyên vào quần áo và thịt xương: nghe như tiếng dao chặt mạnh mẽ, tiếng gậy vút mạnh vào quần áo. Trên đầu chúng tôi cả một mớ tiếng rít bay qua kèm theo những tiếng thia lia, một thứ tiếng trầm trầm ngày càng mạnh. Và chúng tôi phải cúi đầu xuống con đường đi kỳ lạ ấy của những tiếng kêu, tiếng gọi.
- Ê này, phải rời bỏ chiến hào này!
o O o
Chúng tôi rời mẩu chiến trường nhỏ xíu đó để đi nơi khác, chiến trường mà đạn bay qua đã xẻ nát làm bị thương và giết thêm một lần nữa những xác chết. Chúng tôi rẽ sang mé tay phải và đi về phía sau. Giao thông hào ở đây dốc ngược lên. Đến đầu khe thì chúng tôi đi ngang qua một trạm điện thoại có một nhóm sĩ quan pháo binh và lính pháo thủ.
Ở đây chúng tôi nghỉ chân một lúc nữa. Chúng tôi đứng giẫm chân tại chỗ và nghe quan sát viên của pháo binh phát ra những mệnh lệnh mà điện thoại viên nấp ở dưới đất tiếp lấy và truyền đi:
- Khẩu thứ nhất, độ cao như trước. Lệch sang trái hai phần mười. Mỗi phút ba phát.
Vài người trong bọn chúng tôi đánh liều thò đầu ra khỏi bờ hào và trong một loáng, thu được trong tầm con mắt toàn diện cái chiến trường từ sáng đại đội chúng tôi loay hoay xoay quanh.
Tôi đã trông thấy một cánh đồng xam xám, rộng bao la trên đó nhấp nhô những làn bụi hỗn độn và nhè nhẹ mà gió tạt ngang qua, đó đây vút lên một cột khói.
Trên khoảng rộng bao la ấy, mặt trời và bóng mây đã vẽ ra từng vệt đen và trắng, chỗ chỗ ánh sáng vàng kệch lòe lên – đó là pháo binh chúng tôi bắn – và có một lúc tôi thấy lấp lánh những điểm chói sáng ngắn ngủi. Một lúc khác, một phần cánh đồng mờ nhạt đi dưới một tấm thảm hơi khói mờ mờ trắng đục như một cơn lốc bão tuyết.
Ở đằng xa, trên những cánh đồng bi thảm dài dằng dặc hầu như bị xóa nhòa, màu tang tóc, lỗ chỗ thủng như bãi tha ma, chúng tôi nhận thấy cái khung của một nhà thờ giống như một mảnh giấy rách, và từ bên này sang bên kia toàn cảnh có những vạch dọc lờ mờ sát nhau có kẻ ngang ở dưới như những nét nguệch ngoạc bôi ra ở trên trang tập đồ: đó là những con đường cái có cây. Có những chấm người lốm đốm trên con đường ngoằn ngoèo mỏng manh kẻ ngang kẻ dọc chia cánh đồng ra thành từng ô vuông.
Trên những đoạn đường lấm chấm người, chúng tôi nhận ra những bóng người từ những vạch sâu tiến ra, cựa quậy ở trên cánh đồng, hướng về bầu trời hoành hành khủng khiếp.
Khó mà tưởng tượng được rằng mỗi chấm nhỏ xíu đó là một người bằng thịt bằng xương run rẩy, yếu ớt, vô cùng bất lực trong không gian, nhưng mỗi người mang theo bao nhiêu là tư tưởng âm thầm, bao nhiêu kỷ niệm xa xăm, bao nhiêu hình ảnh trong lòng: trông thấy đám bụi bậm người, bé nhỏ như sao trên trời ấy, mà ta phải kinh hoảng.
Hỡi những người đồng loại khốn khổ, những kẻ vô danh cùng khốn, bây giờ là lượt các bạn xuất trận! Lần khác sẽ đến lượt chúng tôi. Có lẽ ngày mai đến lượt chúng tôi sẽ thấy bầu trời nổ vang trên đầu, đất đai nứt toác dưới chân, chúng tôi sẽ bị tràn ngập trong lửa đạn kinh hoàng, sẽ bị cuốn hút đi trong cơn phong ba bom đạn trăm nghìn lần mạnh hơn bão táp.
Họ dồn chúng tôi về những hầm trú ẩn ở hậu tuyến. Trước mắt chúng tôi, cảnh chiến trường tắt ngấm. Tai chúng tôi nghe tiếng sấm sét nhẹ dần dưới cái đe khủng khiếp của những đám mây. Tiếng phá hoại muôn vật im dần. Thế rồi tiểu đội chúng tôi lại ích kỷ lao mình vào những tiếng động thân thuộc của đời sống hàng ngày, lại ngập mình trong sự mơn trớn nhỏ mọn của những hầm trú ẩn.