Hope is important because it can make the present moment less difficult to bear. If we believe that tomorrow will be better, we can bear a hardship today.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 19: Những Đôi Giày Trên Dây
lmer chạy trên quáng quàng trên phố Grønlandsleiret, vội vàng chào hỏi và mỉm cười với khách hàng và nhân viên trong những cửa hiệu bên cạnh. Ông ta đang bực bội với chính mình. Ông ta lại bị hết tiền lẻ và buộc lòng phải treo biển SẼ SỚM QUAY LẠI lên cửa trong lúc chạy vội tới ngân hàng.
Ông ta kéo cánh cửa, bước vào ngân hàng, ngân nga câu cửa miệng, “Xin chào” và hối hả chạy tới lấy phiếu. Không ai đáp lại, nhưng bây giờ ông ta đã quen với chuyện đó - chỉ những người Na Uy da trắng làm việc ở đây. Có một người đàn ông hình như đang sửa cây ATM và ông ta chỉ thấy có mấy người khách đứng gần cửa sổ nhìn ra ngoài phố. Ngân hàng yên tĩnh đến khác thường. Có gì đó đang xảy ra mà ông chưa biết ư?
“Hai mươi,” một giọng phụ nữ vang lên. Elmer nhìn số trên phiếu của mình. Tận 51, nhưng vì tất cả các vị trí đều đã bị bỏ qua nên ông ta đi tới chỗ cái quầy giao dịch nơi giọng nói đó phát ra.
“Chào Catherine, tình yêu của tôi,” ông ta nói, tò mò ngó qua ô cửa sổ. “Làm ơn cho năm tệp năm krone và một krone.”
“Hai mươi mốt.”
Ông ta nhìn Catherine Schøyen vẻ ngạc nhiên và chỉ lúc đó mới nhận thấy có một người đàn ông đang đứng cạnh cô ta. Thoạt nhìn, ông ta tưởng đó là một gã da đen, rồi sau đó mới thấy đó là một gã đàn ông đội mũ trùm đầu màu đen. Họng súng AG3 của hắn rời khỏi Catherine và dừng lại ở Elmer.
“Hai mươi hai,” Catherine gọi to bằng giọng như trong hộp thiếc.
○○○
“Tại sao lại ở đây?” Halvorsen hỏi, nhìn xuống vịnh Oslo bên dưới. Gió thổi tóc mái anh ta bay tứ tung. Họ lái xe chưa đến năm phút từ con đường
Grønland ngập khói xăng tới Ekerberg, nhô lên như một tòa tháp canh màu xanh ở góc Đông Nam của Oslo. Họ tìm được một cái ghế băng dưới tán cây nhìn về phía một tòa nhà bằng gạch cổ kính rất đẹp mà Harry vẫn gọi là Trường Hàng hải, mặc dù hiện nay ở đó người ta đã chuyển qua dạy những khóa học về quản trị doanh nghiệp.
“Thứ nhất là vì ở đây rất tuyệt,” Harry nói. “Thứ hai là để dạy cho một người ngoại quốc một chút về lịch sử của Oslo. Từ ‘Os’, trong Oslo có nghĩa là “đỉnh”, tức cái sườn đồi mà chúng ta đang ngồi đây. Đỉnh Ekeberg. Còn ‘lo’ là dải đồng bằng mà cậu có thể nhìn thấy bên dưới kia.” Anh chỉ tay. “Và thứ ba là ngày nào chúng ta cũng ngước nhìn cái đỉnh này, nên việc tìm xem thứ gì ở phía sau nó là rất quan trọng, cậu không nghĩ thế sao?”
Halovorsen không đáp.
“Tôi không muốn làm chuyện này ở văn phòng,” Harry nói. “Hay ở cửa hàng Elmer. Có một chuyện mà tôi phải nói với cậu.” Mặc dù họ đang đứng ở cao bên trên vịnh, nhưng Harry nghĩ rằng anh vẫn có thể nếm thấy vị muối biển trong gió. “Tôi quen Anna Bethsen.”
Halvorsen gật đầu.
“Cậu không hề ngạc nhiên chút nào,” Harry nhận xét.
“Tôi cũng đã ngờ ngợ.”
“Nhưng còn hơn thế nữa.”
“Vậy ư?”
Harry nhét một điếu thuốc chưa châm lửa vào giữa hai môi. “Trước khi tôi kể tiếp, tôi phải cảnh báo cậu. Những gì tôi sắp sửa nói ra sẽ chỉ có cậu và tôi biết thôi, và điều đó sẽ đặt cậu vào thế khó xử. Cậu hiểu chứ? Vì vậy, nếu cậu không muốn dính líu thì tôi không cần phải nói thêm gì nữa và chúng ta sẽ dừng ở đây. Cậu muốn nghe nữa hay thôi?”
Halvorsen nhìn xoáy vào mặt Harry. Nếu có nghĩ ngợi gì thì anh ta cũng chẳng cần phải nghĩ lâu. Anh ta gật đầu.
“Có một người đã bắt đầu gửi email cho tôi,” Harry nói. “Về cái chết của Anna.”
“Người quen của anh ư?”
“Không có manh mối gì cả. Tôi chẳng hề biết chút gì về địa chỉ đó.”
“Vì thế nên hôm qua anh đã bảo tôi truy tìm địa chỉ email à?”
“Tôi mù tịt về máy tính. Nhưng cậu thì khá giỏi.” Gió tạt khiến Harry không châm nổi điếu thuốc. “Tôi cần cậu giúp đỡ. Tôi nghĩ Anna đã bị giết.”
Trong lúc cơn gió Đông Bắc tuốt lá của những cái cây trên đỉnh Ekeberg, Harry kể về những email kỳ lạ mà anh mới nhận được từ một kẻ nào đó có vẻ như biết rõ mọi chuyện mà họ biết, có lẽ còn nhiều hơn cả họ. Nhưng anh không đả động đến chuyện những cái email đó cáo buộc Harry có mặt ở hiện trường vụ án trong cái đêm Anna chết. Tuy nhiên, anh lại nhắc đến chuyện khẩu súng nằm trong tay phải của Anna mặc dù bảng màu vẽ cho thấy cô thuận tay trái. Tấm ảnh nhét trong chiếc giày. Và cuộc trò chuyện với Astrid Monsen.
“Astrid Monsen bảo rằng chị ta chưa từng thấy Vigdis Albu và lũ trẻ trong tấm ảnh. Nhưng khi tôi đưa cho chị ta xem tấm ảnh chụp ông chồng, Arne Albu, thì chị ta không cần nhìn tới lần thứ hai. Chị ta không biết tên hắn, nhưng hắn thường xuyên tới thăm Anna. Chị ta đã nhìn thấy hắn khi chị ta xuống nhà lấy thư. Hắn tới vào buổi chiều và đến tối thì về.”
“Cái đó gọi là làm việc muộn.”
“Tôi đã hỏi Monsen có phải hai người bọn họ chỉ gặp nhau trong tuần không thì chị ta bảo có vài lần hắn đánh xe tới đón cô ấy vào cuối tuần.”
“Có lẽ họ thích thay đổi một chút và những chuyến du hý tới miền quê.”
“Có lẽ vậy, ngoại trừ chuyến du hý. Astrid Monsen là một người tinh mắt và hay để ý. Chị ta bảo rằng hắn không bao giờ đưa cô ấy đi chơi vào mùa hè. Đó là điều khiến tôi suy nghĩ.”
“Nghĩ tới cái gì? Một khách sạn nào đó à?”
“Có thể. Nhưng mùa hè cậu cũng có thể tới khách sạn mà.”
“Nghĩ đi, Halvorsen. Nghĩ tới thứ gì đó gần gần ấy.”
Halvorsen dẩu môi dưới và nhăn mặt tỏ ý không có ý kiến gì. Harry mỉm cười và phả ra một đám khói. “Chính cậu đã tìm ra chỗ đó.”
Halvorsen bối rối nhướng mày lên. “Căn nhà gỗ! Đúng rồi!”
“Phải không? Một cái tổ uyên ương kín đáo và sang trọng khi người thân đang ở nhà sau kỳ nghỉ hè còn đám hàng xóm tọc mạch thì đóng chặt cửa chớp. Chỉ cách Oslo một giờ lái xe.”
“Nhưng thế thì sao?” Halvorsen hỏi. “Điều đó cũng đâu có đưa chúng ta tiến xa thêm chút nào.”
“Đừng nói vậy. Nếu chúng ta có thể chứng minh rằng Anna từng tới căn nhà gỗ đó, thì ít ra Albu sẽ buộc phải phản ứng. Sẽ không mất công lắm. Một cái dấu vân tay nhỏ. Một sợi tóc. Một người giao hàng tinh mắt thỉnh thoảng chở đồ tới.”
Halvorsen xoa gáy. “Nhưng tại sao không đi thẳng vào vấn đề và tìm dấu vân tay của Albu trong căn hộ nhà Anna luôn cho rồi? Ắt hẳn ở đó thì đầy.”
“Tôi không tin là ở đó còn chút dấu vết gì. Theo Astrid Monsen, một năm trước hắn đột ngột thôi lui tới chỗ Anna. Cho tới một Chủ nhật hồi tháng trước. Hắn đã lái xe tới đón cô ấy. Monsen nhớ rõ là vì Anna bấm chuông gọi chị ta và nhờ chị ta để ý nhỡ có trộm.”
“Và anh nghĩ là họ tới căn nhà gỗ đó?”
“Tôi nghĩ rằng,” Harry đáp, vứt mẩu thuốc đang nhả khói vào một vũng nước, nơi nó kêu xèo xèo rồi tắt lụi, “đó là một lý do khiến Anna để tấm ảnh vào trong chiếc giày. Cậu có nhớ đã từng được dạy gì về chứng cứ pháp y ở trường Cảnh sát không?”
“Chúng tôi được học ít lắm. Anh không thế ư?”
“Không. Có những va li bằng kim loại đựng những dụng cụ sơ đẳng trong ba chiếc xe tuần tra. Bột phấn, bút lông, và màng nhựa dẻo để lấy dấu vân tay. Thước dây, đèn pin, dây thừng, những dụng cụ kiểu như vậy. Tôi muốn cậu đặt trước một chiếc xe như vậy cho ngày mai.”
“Harry…”
“Và gọi trước cho người chủ hiệu tạp hóa để hỏi rõ đường đi. Cố gắng nói sao cho có vẻ thành thật và ngay thẳng để họ không nghi ngờ bất cứ điều gì. Cứ bảo là cậu đang xây một căn nhà gỗ và người kiến trúc sư mà cậu đang thuê bảo cậu tham khảo căn nhà của Albu. Cậu chỉ muốn tới đó xem thôi.”
“Harry, chúng ta không thể cứ thế…”
“Mang theo cả một cái xà beng nữa.”
“Nghe tôi nói hẵng!”
Tiếng hét của Halvorsen khiến hai con mòng biển ré lên khàn khàn và cất cánh bay ra vịnh. Anh ta vừa nói vừa đếm đầu ngón tay. “Chúng ta không có lệnh khám của tòa. Chúng ta không có bất cứ chứng cứ nào để xin lệnh. Chúng ta… chẳng có gì hết. Và quan trọng nhất là chúng ta - hay phải nói là tôi - không được biết hết toàn bộ dữ kiện. Anh chưa kể hết với tôi, phải không, Harry?”
“Điều gì khiến cậu nghĩ…?”
“Đơn giản thôi. Động cơ của anh không đủ mạnh. Quen biết một người đàn bà không phải là một động cơ đủ mạnh để đột nhiên bất chấp mọi quy tắc, đột nhập vào những căn nhà gỗ và liều lĩnh với công việc của mình. Và cả của tôi. Tôi biết anh có thể hơi lẩn thẩn, Harry ạ, nhưng anh không ngu ngốc.”
Harry nhìn mẩu thuốc lá thừa trôi lập lờ trên vũng nước. “Chúng ta biết nhau bao lâu rồi, Halvorsen?”
“Sắp tròn hai năm.”
“Trong suốt thời gian đó tôi đã bao giờ nói dối cậu chưa?”
“Hai năm không phải là một khoảng thời gian dài.”
“Tôi đã từng nói dối chưa? Tôi đang hỏi cậu.”
“Chắc chắn là có.”
“Tôi đã từng nói dối về bất cứ điều gì quan trọng chưa?”
“Theo tôi biết thì chưa.”
“OK. Bây giờ tôi cũng sẽ không nói dối cậu. Cậu nói đúng, tôi chưa kể hết với cậu mọi chuyện. Và, đúng, cậu giúp tôi thì sẽ là mạo hiểm với công việc của cậu. Tôi chỉ có thể nói là cậu sẽ còn gặp nhiều rắc rối hơn nếu tôi kể nốt với cậu những chuyện còn lại. Vì thế, cậu sẽ phải tin tôi. Hoặc rút lui. Cậu vẫn có thể từ chối.”
Họ ngồi đó, nhìn qua vịnh. Hai con mòng biển chỉ còn là hai cái chấm nhỏ ở đằng xa.
“Là anh thì anh sẽ làm gì?” Halvorsen hỏi.
“Rút lui.”
Hai cái chấm to dần lên. Lũ mòng biển đang quay trở lại.
○○○
Khi họ về tới Sở Cảnh sát thì trên máy trả lời tự động có một lời nhắn Møller để lại.
“Ta đi dạo đi,” ông ta nói khi Harry gọi lại. “Tới đâu cũng được,” Møller nói thêm khi họ đã ra ngoài.
“Tới cửa hàng của Elmer đi,” Harry nói. “Tôi cần mua ít thuốc lá.”
Møller bước theo Harry trên một lối mòn lầy lội băng qua thảm cỏ giữa Sở Cảnh sát và lối lái xe rải sỏi dẫn tới nhà tù Botsen. Harry để ý thấy rằng đám người quy hoạch đường phố dường như chưa bao giờ hiểu rằng người ta sẽ luôn tìm lối đi nhanh nhất giữa hai địa điểm mà không thèm đếm xỉa đến đường xá. Ở cuối lối mòn có một biển đã bị đá đổ: KHÔNG GIẪM LÊN CỎ.
“Cậu đã nghe nói tới vụ cướp ngân hàng trên đường Grønlandsleiret đầu giờ sáng nay chưa?” Møller hỏi.
Harry gật đầu. “Thú vị là hắn chọn chỗ hành động chỉ cách đồn cảnh sát một trăm mét.”
“Thật trùng hợp, chuông báo động của ngân hàng lại đang được sửa.”
“Tôi không tin vào sự trùng hợp,” Harry nói.
“Sao? Cậu nghĩ là có kẻ tiếp tay à?”
Harry nhún vai. “Hoặc ai đó biết về vụ sửa chữa.”
“Chỉ có ngân hàng và những người sửa chữa biết. Và chúng ta.”
“Không phải là ông đang muốn nói về vụ cướp ngân hàng phải không, sếp?”
“Không,” Møller nói, nhảy vòng sang để tránh một vũng nước. “Ngài Giám đốc Sở Cảnh sát đã thảo luận với Thị trưởng. Tất cả những vụ cướp này khiến ông ấy đau đầu.”
Trên đường đi, họ dừng lại nhường đường cho một người phụ nữ với ba đứa trẻ theo sau. Cô ta đang mắng mỏ chúng với giọng giận dữ và kiệt sức, tránh ánh nhìn của Harry. Đang là giờ thăm người thân ở nhà tù Botsen.
“Ivarsson làm việc hiệu quả. Không ai nghi ngờ gì về chuyện đó cả,” Møller nói. “Tuy nhiên, Kẻ Hành quyết có vẻ thuộc loại bản lĩnh khác hẳn so với những kẻ chúng ta thường gặp. Giám đốc Sở nghĩ rằng lần này có lẽ những biện pháp thông thường sẽ là không đủ.”
“Có lẽ vậy, nhưng thế thì sao? Thêm một vụ ‘trường hợp số hai’ nữa cũng đã có gì bê bối lắm đâu.”
“Trường hợp số hai là sao?”
“Đội khách thắng. Vụ án không phá được. Từ lóng chuẩn hiện hành, thưa sếp.”
“Có nhiều thứ đang bị đe dọa hơn thế, Harry. Truyền thông lúc nào cũng rình rập chúng ta, nó đã trở thành một cơn ác mộng. Người ta gọi hắn là một ‘Martin Pedersen mới’. Và trang web của Băng đảng Verdens viết rằng chúng đã phát hiện ra chúng ta gọi hắn là Kẻ Hành quyết.”
“Chuyện xưa như trái đất,” Harry nói, băng qua đường khi thấy đèn đỏ, Møller thận trọng bám theo sau. “Truyền thông quyết định chúng ta ưu tiên cái gì.”
“Ừm, dù sao thì hắn cũng giết ai đó mà.”
“Và những vụ giết người không còn bị công chúng để ý tới đều bị bỏ qua.”
“Đừng!” Møller cáu kỉnh ngắt lời. “Đừng có đào bới tất cả những chuyện đó lên nữa.”
Harry nhún vai và bước qua một quầy báo đã bị gió cuốn đổ sập. Trên phố, một tờ báo đang lật qua những trang của chính nó với nhịp điệu giận dữ.
“Vậy sếp muốn gì?”
“Đương nhiên, Giám đốc Sở rất lo lắng về phương diện hình ảnh trước công chúng của những sự việc đó. Một vụ cướp ngân hàng đơn lẻ sẽ bị công chúng lãng quên từ lâu trước khi vụ án đó bị xếp xó. Chẳng ai thèm để ý rằng tên cướp đã không bị bắt. Tuy nhiên, lần này, mọi con mắt đều đổ dồn vào chúng ta. Và càng có nhiều bàn tán về những vụ cướp kiểu này thì càng kích thích sự tò mò của công chúng. Martin Pedersen là một người bình thường làm được cái điều mà bao người hằng mơ ước; hắn là một bản sao hiện đại của Jesse James đã lọt lưới pháp luật. Những vụ kiểu như vậy tạo ra những huyền thoại, anh hùng và người ta đồng cảm với nó. Vì vậy, sẽ càng làm gia tăng quân số cho ngành cướp ngân hàng. Số vụ cướp ngân hàng đã tăng vọt trên khắp cả nước khi báo chí viết về Martin Pedersen.”
“Ông sợ chuyện này sẽ lan ra. Cũng hợp lý. Nhưng chuyện đó thì liên quan gì tới tôi.”
“Như tôi đã nói, chẳng ai nghi ngờ gì về hiệu quả làm việc của Ivarsson cả. Không một ai hết. Ông ta là một cảnh sát chuẩn mực, truyền thống không bao giờ bước qua ranh giới. Tuy nhiên, Kẻ Hành quyết lại không phải là một tên cướp ngân hàng truyền thống. Giám đốc Sở không vui vì những kết quả đạt được cho tới nay.” Møller hất đầu về phía nhà tù. “Vụ việc với Raskol đã tới tai ông ấy rồi.”
“Ừm.”
“Trước giờ ăn trưa tôi đã ở trong văn phòng của Giám đốc Sở và tên cậu đã được nhắc tới. Thật ra là vài lần.”
“Chà, liệu tôi có nên phổng mũi không đây?”
“Dù sao thì cậu cũng là một điều tra viên đã thu được kết quả dù sử dụng những biện pháp phi truyền thống.”
Nụ cười của Harry nhếch lên giễu cợt. “Một định nghĩa tử tế về một phi công cảm tử…”
“Tóm lại lời nhắn là thế này, Harry. Hãy gác lại tất cả mọi việc khác mà cậu đang làm và cho tôi biết nếu cậu cần thêm người. Ivarsson sẽ tiếp tục làm việc cùng với nhóm của ông ta, nhưng chúng tôi đang trông cậy vào cậu. Và còn một chuyện nữa…” Møller đã bước tới gần Harry. “Cậu được phép tự do hành động. Chúng tôi sẽ chấp nhận việc quy tắc có thể sẽ bị bẻ cong. Đương nhiên đổi lại, chuyện này chỉ nằm trong phạm vi ngành thôi.”
“Ừm. Tôi nghĩ là tôi đã hiểu. Nhưng nếu như nó vượt quá phạm vi thì sao?”
“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để hỗ trợ cậu, nhưng cũng chỉ có giới hạn thôi. Đó là luật bất thành văn.”
Elmer quay lại khi những chiếc chuông trên cửa rung lên và hất hàm về phía cái đài xách tay nhỏ đằng sau ông ta. “Tôi vẫn cứ nghĩ Kandahar là một câu lạc bộ trượt tuyết. Camel loại hai mươi điếu hả?”
Harry đồng ý. Elmer vặn nhỏ cái đài và giọng của bình luận viên thời sự hòa lẫn với tiếng ồn ào từ bên ngoài - xe cộ, gió lùa mái hiên, lá bị quét trên mặt đường nhựa.
“Có lấy gì cho đồng nghiệp của anh không?” Elmer ra hiệu về phía cửa nơi Møller đang đứng.
“Ông ấy muốn một phi công cảm tử,” Harry đáp, mở bao thuốc ra.
“Vậy ư?”
“Nhưng ông ấy quên không hỏi giá,” Harry nói và cảm thấy nụ cười mỉa mai ngọt xớt của Møller mà không cần phải quay lại.
“Vậy giá cả của các phi công cảm tử ngày nay là bao nhiêu?” Chủ cửa hàng hỏi, trả lại tiền thừa cho Harry.
“Nếu sống sót, anh ta được phép đảm nhận những công việc mà anh ta muốn làm sau đó,” Harry nói. “Đó là điều kiện duy nhất mà anh ta đưa ra. Và cũng là điều duy nhất anh ta vẫn cố nài.”
“Nghe có vẻ hợp lý,” Elmer nói. “Chúc một ngày tốt lành, hai quý ông.”
Trên đường về, Møller bảo ông sẽ nói chuyện với Giám đốc Sở về khả năng để Harry tiếp tục điều tra vụ án của Ellen Gjelten ba tháng nữa. Miễn là Kẻ Hành quyết phải bị bắt. Harry đồng ý. Møller lưỡng lự trước tấm biển KHÔNG GIẪM LÊN CỎ.
“Đây là con đường ngắn nhất mà sếp.”
“Phải,” Møller nói. “Nhưng giày của tôi sẽ bị bẩn.”
“Tùy ông,” Harry đáp rồi bước vào lối mòn. “Giày tôi vốn đã bẩn sẵn rồi.”
○○○
Đường trở nên thoáng hơn sau khi rẽ vào phố Ulvøya. Trời đã tạnh mưa và đường Ljan đã khô ráo. Chẳng mấy chốc nó mở rộng thành đường bốn làn, nhìn giống như vạch xuất phát cho xe ô tô tăng tốc và chạy đua. Harry nhìn sang Halvorsen và tự hỏi khi nào thì anh ta cũng sẽ nghe thấy những tiếng rú đứng tim. Nhưng Halvorsen chẳng nghe thấy gì vì còn đang nghe những lời hô hào, theo đúng nghĩa đen, của ban nhạc Travis đang phát trên đài:
Hát lên, hát lên, hááát lên!
“Halvorsen…”
Cho tình yêu mà bạn mang tới…
Harry vặn đài đi và Halvorsen nhìn anh với ánh mắt khó hiểu. “Cần gạt nước,” Harry nói. “Giờ cậu tắt đi được rồi.”
“À, vâng, xin lỗi anh.”
Họ lái đi trong im lặng. Qua lối vào Drøbak. “Cậu đã nói gì với chủ tiệm tạp hóa?” Harry hỏi.
“Anh sẽ không muốn biết đâu.”
“Nhưng đúng anh ta đã mang thực phẩm tới căn nhà gỗ của Albu vào hôm thứ Năm cách đây năm tuần chứ?”
“Vâng, anh ta nói thế.”
“Trước khi Albu tới à?”
“Anh ta chỉ bảo mình thường tự vào nhà.”
“Vậy là anh ta có chìa khóa à?”
“Harry, với cái cớ kém thuyết phục như vậy thì tôi cũng chỉ hỏi được những câu nhất định thôi.”
“Cậu đã viện cớ gì?”
Halvorsen thở dài. “Kiểm sát viên của hội đồng hạt.”
“Cái gì? Của hội đồng hạt?”
“Kiểm sát viên?”
“Là gì?”
“Chịu.”
Larkollen nằm ngay ngoài đường cao tốc, cách mười ba cây số trên làn đường dành cho xe đi chậm và mười bốn cây trên đường có những khúc cua gấp.
“Bên phải cái nhà màu đỏ đằng sau trạm xăng ấy,” Halvorsen chỉ dẫn từ trí nhớ và lái vòng lên một con đường rải sỏi.
“Rất nhiều thảm trải nhà tắm,” năm phút sau Harry lẩm bẩm, khi Halvorsen đã dừng lại và chỉ về phía cái công trình xây dựng bằng những khúc gỗ đồ sộ nằm giữa cụm cây. Trông như thể một căn nhà gỗ trên núi có cây cối mọc um tùm mà do một hiểu lầm nho nhỏ rốt cuộc lại xuống nằm gần bờ biển.
“Ở đây hơi vắng vẻ nhỉ,” Halvorsen nói, nhìn sang những ngôi nhà gỗ kế bên. “Chỉ thấy toàn mòng biển. Vô số mòng biển. Có lẽ ở gần đây có bãi đổ rác.”
“Ừm.” Harry nhìn đồng hồ. “Cứ đỗ lùi lên trên kia một chút.”
Con đường kết thúc ở một chỗ ngoặt. Halvorsen tắt khóa điện và Harry mở cửa xe rồi bước duỗi thẳng lưng và lắng nghe tiếng lũ mòng biển và tiếng sóng ì oạp vỗ vào những tảng đá ven bờ ở đằng xa.
“Chà,” Halvorsen nói, hít ngập phổi. “Ở đây hơi khác không khí ở Oslo nhỉ?”
“Chắc chắn rồi,” Harry đáp, tay tìm bao thuốc. “Cậu có mang theo cái va li kim loại chứ?”
Trên đường đi tới ngôi nhà, Harry nhận thấy một con mòng biển to lông màu vàng và trắng đậu trên cọc hàng rào. Đầu nó chậm rãi xoay trên thân mình khi họ đi qua. Harry cảm thấy anh cảm nhận được ánh mắt sáng quắc của con chim trên lưng suốt dọc đường đi lên.
“Chuyện này sẽ không dễ đâu,” Halvorsen tuyên bố khi họ đã nhìn gần cái khóa chắc chắn trên cửa ngoài. Anh ta đã treo cái mũ lưỡi trai lên ngọn đèn bằng sắt uốn phía trên cánh cửa gỗ sồi nặng trịch.
“Ừm. Cậu chỉ phải bắt đầu thôi.” Harry châm một điếu thuốc, “Trong lúc đó tôi sẽ đi thăm dò nhanh một lượt.”
“Sao dạo này anh lại đột nhiên hút nhiều hơn trước quá vậy?” Halvorsen vừa hỏi vừa mở cái va li ra.
Harry đứng im một lát, mắt lơ đãng nhìn về phía khu rừng. “Để cậu ngày nào đó sẽ đánh bại được tôi trong vụ đạp xe chứ.”
Những khúc gỗ đen như hắc ín, những khung cửa sổ chắc chắn. Mọi thứ của căn nhà gỗ đều có vẻ vững chắc và không thể xuyên qua.
Harry tự hỏi có thể đột nhập vào qua cái ống khói bằng đá trông rất ấn tượng kia không, nhưng rồi gạt ngay ý tưởng đó. Anh đi bộ xuôi con đường nhỏ. Cơn mưa trong những ngày vừa qua đã nhào ướt con đường, nhưng anh có thể dễ dàng tưởng tượng ra những bàn chân nhỏ và những cẳng chân trần của đám trẻ đang chạy trên con đường mòn khô đanh dưới nắng hè, ra bãi biển phía sau những tảng đá đã bị nước biển mài nhẵn nhụi.
Anh dừng lại và nhắm mắt. Cho tới khi những âm thanh đó vang tới tai anh. Tiếng côn trùng vo ve, tiếng đám cỏ cao vờn trong gió xào xạc, tiếng đài xa xôi đâu đó và một bài hát văng vẳng lúc rõ lúc không trong gió, và những tiếng í ới vui vẻ của lũ trẻ ngoài bãi biển. Khi ấy anh mười tuổi và đang rón rén đi tới cửa hàng để mua sữa và bánh mì. Những viên đá nhô lún sâu vào gan bàn chân anh, lưng anh nghiến răng lại vì mùa hè đó anh đã quyết tâm phải rèn cho chân mình trở nên chai sạn để khi nào Øystein trở về còn thi chạy chân trần với cậu ta.
Khi anh quay về, túi đồ nặng trĩu dường như càng ấn anh xuống con đường rải sỏi đó sâu hơn; cảm tưởng như anh đang bước trên những hòn than nóng đỏ. Anh đã tập trung chú ý vào một thứ ở phía trước - một hòn đá to hay một cái lá - và tự nhủ rằng anh chỉ phải đi tới được chỗ đó, không còn xa nữa. Cuối cùng, khi anh cũng về được tới nhà, một tiếng rưỡi sau đó, thì sữa đã hỏng và mẹ anh nổi giận. Harry mở mắt ra. Những đám mây xám đang bay gấp gáp trên bầu trời.
Anh tìm thấy dấu vết xe trên bãi cỏ nâu ven đường. Những vết sâu, gồ ghề cho thấy đó là một chiếc xe to có bánh chạy trên mọi địa hình, một chiếc Land Rover hay gì đó tương tự. Căn cứ lượng mưa đã rơi suốt mấy tuần qua thì dấu xe đó không cũ đến thế. Cùng lắm là mới được vài ngày.
Anh lùng sục xung quanh, nghĩ bụng chẳng có gì hoang vắng bằng những khu nghỉ mát mùa hè vào mùa thu. Trên đường trở lại chỗ căn nhà gỗ, Harry gật đầu với con mòng biển.
Halvorsen đang lúi húi ở cửa trước với cái nạy ổ khóa bằng điện, miệng rên rỉ.
“Thế nào rồi?”
“Tệ lắm.” Anh ta đứng thẳng dậy và quệt mồ hôi. “Cái khóa này không phải loại vớ vẩn. Phải dùng xà beng thôi, không thì phải bỏ cuộc.”
“Không dùng xà beng.” Harry gãi cằm. “Cậu đã kiểm tra bên dưới tấm thảm trước cửa chưa?”
Halvorsen thở dài. “Chưa, và tôi cũng sẽ không làm đâu.”
“Tại sao?”
“Vì giờ đã là thiên niên kỷ mới rồi, làm gì còn ai để chìa khóa nhà gỗ dưới thảm cửa nữa. Nhất lại là một căn nhà gỗ sang trọng. Vì vậy, trừ phi anh chịu cá một trăm krone, nếu không thì đơn giản là tôi sẽ không phí hơi đâu. Được chứ?”
Harry gật đầu.
“Tốt,” Halvorsen nói, ngồi thụp xuống để xếp cái va li lại.
“Ý tôi là tôi đồng ý cược,” Harry nói.
Halvorsen ngước lên. “Anh đùa à?” Harry lắc đầu.
Halvorsen túm lấy mép tấm thảm bằng sợi tổng hợp.
“Cầu may nào,” anh ta lẩm bẩm và giật phắt tấm thảm ra. Ba con kiến, hai con mọt và một con sâu tai giật mình và bò lung tung trên nền bê tông màu xám. Nhưng không thấy cái chìa khóa nào.
“Đôi khi anh ngây thơ đến khó tin, Harry ạ,” Halvorsen nói, chìa lòng bàn tay ra. “Sao hắn phải để một cái chìa lại chứ?”
“Vì,” Harry nói, chú ý tới cái đèn bằng sắt uốn ở bên cạnh cửa và không nhìn thấy bàn tay đang chìa ra. “Sữa sẽ hỏng nếu bị để ngoài trời nắng.” Anh đi tới chỗ cái đèn và xoáy cái chụp nó ra.
“Ý anh là sao?”
“Đồ ăn được chở đến đây một ngày trước hôm Albu tới, phải không? Rõ ràng là đồ ăn phải được đưa vào nhà.”
“Thì sao? Có lẽ người đàn ông ở tiệm tạp hóa đó có một cái chìa dự phòng?”
“Tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ Albu muốn hoàn toàn chắc chắn là sẽ không có ai đột ngột tới khi anh ta và Anna ở đây.” Anh giật phắt cái chụp ra và sục sạo bên trong cái vỏ thủy tinh. “Và giờ thì tôi đã biết là thế.”
Halvorsen rút tay lại, lầm bầm.
“Để ý cái mùi đó xem,” Harry nói khi họ bước vào phòng khách.
“Mùi thuốc tẩy,” Halvorsen nói. “Có người đã nghĩ là phải cọ rửa sàn.”
Nội thất nặng nề, những món đồ cổ mộc mạc và cái lò sưởi bằng đá rộng củng cố thêm cho ấn tượng về những kỳ nghỉ Phục sinh. Harry đi tới chỗ một hệ thống giá bằng gỗ thông ở đầu kia căn phòng. Những cuốn sách cũ trên giá. Mắt Harry lướt qua tựa đề trên những cái gáy đã sờn, nhưng vẫn có cảm giác là chúng chưa bao giờ được đọc tới. Không phải ở đây. Có lẽ chúng đã được mua thanh lý từ một hiệu sách chuyên bán sách cổ trên đường Majorstuen. Những cuốn album cũ. Những cái ngăn kéo. Trong ngăn kéo có những hộp xì gà Cohiba và Bolivar. Một ngăn kéo bị khóa.
“Thế này thì còn lau chùi gì nữa,” Halvorsen nói. Harry quay lại và nhìn thấy cậu đồng nghiệp đang chỉ vào những vết chân màu nâu, ướt nhẹp chạy chéo qua sàn.
Họ cởi giày ở ngoài sảnh, tìm thấy một cái khăn lau sàn trong bếp và sau khi cọ sạch sàn, đồng ý để Halvorsen lo phòng khách, còn Harry lo mấy phòng ngủ và nhà tắm.
Những gì Harry biết về việc khám nhà thì anh đều học được ở một lớp học nóng nực tại Trường Cảnh sát vào một ngày thứ Sáu sau bữa trưa, khi mọi người đều khao khát muốn về nhà tắm táp và lên phố. Chẳng có giáo trình hướng dẫn nào cả, chỉ có một thanh tra nào đó tên là Røkke. Và vào thứ Sáu ấy, ông ta đã cho Harry cái mánh mà về sau anh đã dùng làm hướng dẫn duy nhất của mình: “Đừng nghĩ về thứ anh đang tìm kiếm. Hãy nghĩ về cái anh tìm ra. Sao nó lại ở đó? Nó có nên ở đó không? Điều đó có nghĩa là gì? Giống như đọc sách vậy - nếu anh nghĩ về một chữ ‘l’ trong lúc nhìn vào một chữ ‘k’ thì anh sẽ không nhìn thấy từ ngữ nào cả.”
Điều đầu tiên mà Harry nhìn thấy khi anh bước vào căn phòng ngủ thứ nhất là một chiếc giường đôi to và tấm ảnh chụp ông bà Albu trên bàn đầu giường. Nó không lớn, nhưng dễ chú ý vì đó là tấm ảnh duy nhất và lại quay mặt về phía cửa.
Harry mở cửa tủ quần áo. Mùi quần áo của người khác xộc vào mũi anh. Không thấy có quần áo bình thường, chỉ có những bộ đầm dạ tiệc, áo sơ mi nữ và vài bộ vest. Lại thêm một đôi giày chơi golf đế đinh.
Harry lục tìm cả ba cái tủ một cách bài bản. Anh đã làm điều tra viên lâu đến mức không còn cảm thấy ngượng ngùng khi lục lọi đồ đạc cá nhân của người khác nữa.
Anh ngồi xuống giường và xem tấm ảnh. Hậu cảnh chỉ thấy biển và trời, nhưng nhìn cách ánh sáng chiếu, Harry nghĩ hẳn nó được chụp ở miền Nam. Arne Albu da nâu và trên mặt vẫn là vẻ tinh quái kiểu con nít mà Harry đã thấy lúc ở nhà hàng Aker Brygge. Anh ta đang vòng tay ôm chặt eo vợ. Chặt đến độ thân trên của Vigdis dường như đang ngả về phía anh ta.
Harry cuộn ga trải giường và chiếc chăn lông sang một bên. Nếu Anna từng ngủ trên chiếc giường này thì dứt khoát họ sẽ tìm thấy tóc, những mẩu da, nước bọt hay chất tiết từ bộ phận sinh dục. Có lẽ là tất cả mấy thứ đó. Nhưng đúng như anh nghĩ. Anh vuốt tay qua tấm ga hồ bột và áp mặt vào cái gối mà hít. Mới giặt. Mẹ kiếp.
Anh mở ngăn kéo của cái bàn đầu giường. Một gói kẹo cao su Extra, một hộp Paralgin chưa mở, một cái móc có một chìa khóa cùng một miếng đồng với chữ cái đầu tên A.A., một tấm ảnh chụp đứa bé trần truồng cuộn người lại như một con ấu trùng trên bàn thay tã, và một con dao xếp nhiều lưỡi.
Anh đang định cầm con dao lên thì nghe thấy tiếng ré lạnh người, đơn lẻ của một con mòng biển. Anh bất giác run lên và liếc qua cửa sổ. Con mòng biển đã bay đi mất. Anh quay lại với công việc đang làm dở thì nghe thấy tiếng chó sủa dữ dội.
Đúng lúc đó, Halvorsen xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Có ai đó đang đi lên con đường mòn.”
Tim anh đập như bị tăng áp.
“Tôi sẽ đi lấy giày,” Harry nói. “Cậu mang cái va li cùng toàn bộ dụng cụ vào đây.”
“Nhưng…”
“Chúng ta sẽ nhảy qua cửa sổ khi họ tới. Nhanh đi”.
Tiếng sủa bên ngoài mỗi lúc một to và dồn dập. Harry chạy nhào qua phòng khách ra tới sảnh trong lúc Halvorsen quỳ trước mấy cái giá và ném phấn bột, bút lông và giấy dính vào va li. Tiếng sủa lúc này đã ở gần đến mức Harry có thể nghe thấy tiếng gầm gừ sâu trong họng giữa những tiếng sủa. Tiếng bước chân bên ngoài. Cửa không khóa, đã quá muộn để làm được gì anh sẽ bị bắt quả tang tại trận! Anh hít vào và đứng yên tại chỗ. Đành phải chịu hậu quả ngay tại trận thôi. Có lẽ Halvorsen sẽ có thể thoát thân. Nếu vậy thì anh sẽ không cảm thấy cắn rứt lương tâm vì Halvorsen bị sa thải.
“Gregor!” Tiếng một người đàn ông quát từ phía bên kia cánh cửa. “Quay về đây!”
Tiếng sủa trở nên xa xôi hơn và anh nghe thấy người đàn ông bên ngoài kia đi xuống khỏi bậc thềm.
“Gregor! Để cho con hươu ấy yên!”
Harry tiến lên hai bước và kín đáo xoay cái khóa. Rồi anh nhấc hai đôi giày lên và rón rén đi qua phòng khách trong lúc tiếng chìa khóa khua xủng xoẻng bên ngoài. Anh đóng cửa phòng ngủ lại khi nghe thấy tiếng cửa trước mở ra.
Halvorsen đang ngồi trên sàn nhà bên dưới cửa sổ nhìn Harry với cặp mắt thô lố.
“Gì thế?” Harry thì thào.
“Tôi đang trèo ra cửa sổ thì cái con chó điên ấy xuất hiện,” Halvorsen thì thào. “Một con chó giống Rottweiler to.”
Harry ngó ra ngoài cửa sổ và nhìn xuống bộ hàm đang táp liên tục. Con chó đã tì cả hai chân trước lên bức tường bên ngoài. Nhìn thấy Harry, nó nhảy phốc lên và sủa như bị ma ám. Dãi rớt chảy ròng ròng từ những cái răng nanh của nó. Tiếng bước chân nặng nề đi lại trong phòng khách. Harry ngồi sụp xuống sàn bên cạnh Halvorsen.
“Cùng lắm là bảy mươi cân,” anh thì thào. “Không nhằm nhò gì.”
“Xin anh. Tôi từng chứng kiến một con Rottweiler tấn công Victor, anh chàng huấn luyện chó.”
“Ừm.”
“Họ đã để mất kiểm soát trong lúc huấn luyện con chó đó. Tay sĩ quan đóng vai kẻ xấu đó đã phải đi khâu lại cả bàn tay ở bệnh viện Riks.”
“Tôi tưởng họ đeo đệm lót dày.”
“Có đấy.”
Họ ngồi yên nghe tiếng sủa bên ngoài. Tiếng bước chân trong phòng khách dừng lại.
“Chúng ta đi ra chào chứ?” Halvorsen thì thào. “Sớm muộn gì thì…”
“Suỵt.”
Họ nghe thấy nhiều tiếng bước chân nữa. Tiến về phía cửa phòng ngủ. Halvorsen nhắm tịt mắt lại. Như thể để gồng mình đón nỗi nhục. Khi mở ra, anh ta trông thấy Harry đang đặt một ngón tay lên môi vẻ uy quyền.
Rồi họ nghe thấy một giọng nói bên ngoài cửa sổ phòng ngủ. “Gregor! Đi nào! Về nhà thôi!”
Sau vài tiếng sủa nữa, tất cả đột ngột im lặng. Harry chỉ còn nghe thấy tiếng thở ngắn, dồn dập, nhưng anh không biết liệu đó là tiếng thở của anh hay của Halvorsen.
“Ngoan thật, bọn chó Rottweiler đó,” Halvorsen thì thào.
Họ đợi đến khi nghe thấy tiếng xe ô tô nổ máy chạy xuống con đường. Rồi họ cuống cuồng chạy ra phòng khách và Harry chỉ kịp nhìn thấy đuôi chiếc xe Jeep Cherokee màu xanh nước biển đang khuất dần. Halvorsen đổ phịch xuống xô pha và ngả người ra sau.
“Chúa ơi,” anh ta rên lên. “Mất một lúc ở trong đó tôi đã tưởng tượng ra cảnh mình trở về Steinkjer, bị đuổi khỏi ngành vì phạm tội. Hắn làm cái quái gì vậy? Hắn chỉ tạt vào đây có hai phút.” Anh ta lại ngồi bật dậy trên xô pha. “Anh có nghĩ là hắn sẽ quay lại không? Nhỡ đâu hắn chỉ đi mua gì đó.”
Harry lắc đầu. “Anh ta về nhà rồi. Những người như vậy không nói dối chó của họ.”
“Anh chắc chứ?”
“Ừ, đương nhiên. Một ngày nào đó anh ta sẽ quát: ‘Lại đây, Gregor. Chúng ta sẽ tới bác sĩ để cho mày yên nghỉ’.”
Harry nhìn khắp căn phòng. Rồi anh đi tới chỗ mấy cái giá và lướt một ngón tay dọc theo gáy những cuốn sách trước mặt, từ giá trên cùng xuống giá dưới cùng.
Halvorsen lầm lầm gật đầu và nhìn chằm chằm vào khoảng không. “Và con Gregor sẽ vẫy tít đuôi mà chạy tới. Đúng là những sinh vật kỳ lạ, lũ chó ấy.”
Harry dừng lại giữa chừng và cười toét miệng. “Không hối hận chứ, Halvorsen.”
“Ừm, tôi cũng không thấy hối hận hơn những chuyện khác.”
“Cậu bắt đầu ăn nói giống tôi rồi đấy.”
“Đấy chính là anh. Tôi đang trích dẫn lời anh mà. Cái lần chúng ta đi mua máy pha cà phê ấy. Anh đang tìm gì vậy?”
“Không rõ,” Harry đáp, lôi một cuốn sách to, dày cộp xuống và mở ra. “Xem cái này đi. Một cuốn album ảnh. Hay đấy.”
“Vậy à? Tôi lại không hiểu ý anh nữa rồi.”
Harry chỉ ra sau vai và tiếp tục lật. Halvorsen đứng dậy để nhìn và rồi hiểu ra. Những dấu giày ướt nhẹp kéo từ cửa trước qua hành lang tới chỗ cái giá mà Harry đang đứng cạnh.
Harry nhét cuốn album vào chỗ cũ, lôi một cuốn khác ra và bắt đầu lật xem.
“Phải,” anh nói sau một hồi lật giở. Rồi anh áp cuốn album đó lên mặt. “Đây rồi.”
“Là cái gì thế?”
Harry đặt cuốn album lên mặt bàn trước mặt Halvorsen và chỉ vào một trong sáu tấm ảnh được dán vào trang giấy đen. Một người phụ nữ và ba đứa trẻ đang ở trên bãi biển ngước lên mỉm cười với họ.
“Đó chính là tấm ảnh mà tôi đã tìm thấy trong giày của Anna,” Harry nói. “Ngửi mà xem.”
“Không cần. Tôi có thể ngửi thấy mùi keo từ đây.”
“Phải. Anh ta vừa dán tấm ảnh này vào. Dịch nó ra một chút là có thể cảm thấy lớp keo vẫn còn mềm. Ngửi đi.”
“OK.” Halvorsen gí mũi vào những nụ cười trong tấm ảnh. “Nó có mùi… hóa chất.”
“Loại hóa chất nào?”
“Ảnh mới rửa ra bao giờ cũng có mùi.”
“Lại đúng nữa. Vậy từ đó ta có thể rút ra kết luận gì?”
“Cái đó, ờ… anh ta thích dán ảnh.”
Harry nhìn đồng hồ đeo tay. Nếu Albu lái xe thẳng về nhà thì sau một tiếng anh ta sẽ về đến nơi.
“Lên xe rồi tôi sẽ giải thích,” anh nói. “Chúng ta đã tóm được bằng chứng cần thiết rồi.”
Trời đang mưa khi họ lái xe vào đường E6. Những ánh đèn từ luồng xe ngược chiều phản chiếu trên mặt đường nhựa loáng ướt.
“Giờ thì chúng ta đã biết tấm ảnh Anna để trong giày từ đâu mà ra,” Harry nói. “Tôi đoán là Anna đã nhìn thấy cơ hội lấy nó ra khỏi cuốn album khi tới căn nhà gỗ lần cuối.”
“Nhưng cô ta định làm gì với nó?”
“Có Chúa mới biết. Có lẽ là để thấy cái gì đang ngáng trở cô ấy và Albu. Để hiểu rõ hơn. Để có thứ mà cắm ghim vào.”
“Và khi anh cho Albu xem tấm ảnh, anh ta có biết nó ở đâu ra không?”
“Đương nhiên. Những vết bánh xe Cherokee ở cạnh căn nhà gỗ giống hệt những vết trước đó, cho thấy anh ta đã tới đây vài ngày trước, mà có lẽ là mới hôm qua.”
“Để cọ sàn và xóa sạch mọi dấu vân tay?”
“Và để kiểm tra cái điều mà anh ta đã nghi ngờ - tấm ảnh đó đã biến mất khỏi cuốn album. Vì vậy, khi về tới nhà, anh ta đã tìm lại phim âm bản và đem đến một tiệm ảnh.”
“Có lẽ là một cửa hàng rửa ảnh chỉ trong một tiếng. Rồi hôm nay anh ta quay lại căn nhà gỗ dán nó vào chỗ tấm ảnh cũ”.
“Ừm.”
Mấy bánh sau của chiếc xe tải trước mặt họ hắt những dải nước bẩn thỉu, nhờn dầu lên kính xe họ, làm cái cần gạt nước phải làm việc quá sức.
“Albu đã cố sống cố chết che giấu những dấu vết về chuyện vụng trộm của anh ta,” Halvorsen nói. “Nhưng anh có nghĩ là anh ta đã sát hại Anna Bethsen không?”
Harry nhìn chằm chằm cái logo trên cửa sau của chiếc xe tải: AMOROMA. MÃI LÀ CỦA ANH. “Tại sao không?”
“Tôi không thấy anh ta có vẻ gì là kẻ giết người cả. Cái kiểu người có học thức, không vòng vèo. Người cha đáng tin cậy với lý lịch sạch sẽ và một công ty mà anh ta tự mình gây dựng.”
“Anh ta đã ngoại tình.”
“Ai mà không chứ?”
“Phải, ai mà không,” Harry chậm rãi nhắc lại. Rồi đột ngột nổi quạu. “Cậu định đi sau cái xe tải này để nó hắt đất vào mặt chúng ta suốt từ đây về tới Oslo hay sao thế?”
Halvorsen nhìn gương rồi lái sang làn đường bên trái. “Thế động cơ của anh ta là gì?”
“Sao ta không hỏi thẳng?” Harry nói.
“Ý anh là sao? Lái xe tới nhà anh ta để hỏi á? Tiết lộ rằng chúng ta vừa tìm được chứng cứ bằng cách bất hợp pháp để rồi cùng lúc bị đuổi việc sao?”
“Cậu không cần phải đi. Tôi sẽ tự đi.”
“Thế anh nghĩ là anh sẽ đạt được gì khi làm thế? Nếu lộ chuyện chúng ta đột nhập vào nhà anh ta mà không có lệnh khám thì sẽ chẳng có lấy một thẩm phán nào ở vùng này chấp nhận đưa vụ án đó ra xét xử đâu.”
“Chính xác thì đó là lý do đấy.”
“Chính xác… Xin lỗi anh, nhưng mà những câu đố này đang bắt đầu khiến tôi thấy mệt đầu rồi đấy, Harry ạ.”
“Vì chúng ta không có gì để làm bằng chứng trước tòa, nên chúng ta phải gây sức ép để tìm được thứ gì đó mà chúng ta có thể sử dụng.”
“Sao không gọi anh ta tới thẩm vấn, cho anh ta cái ghế êm ái, mời anh ta uống cà phê và bật cuốn băng lên?”
“Không. Chúng ta không cần cả tá lời nói dối được thu băng khi mà chúng ta không thể dùng điều chúng ta biết để chứng minh là anh ta nói dối. Cái mà chúng ta cần là một đồng minh. Ai đó có thể thay chúng ta vạch mặt anh ta.”
“Và đó là?”
“Vigdis Albu.”
“Chà. Bằng cách nào…?”
“Nếu Arne Albu ngoại tình, rất có thể Vigdis sẽ muốn đào sâu hơn chuyện đó. Và rất có thể cô ta đang nắm những thông tin mà chúng ta cần. Còn chúng ta lại biết một số chuyện có thể giúp cô ta điều tra ra nhiều hơn.”
Halvorsen chỉnh nghiêng cái gương để khỏi bị chói bởi đèn pha của chiếc xe tải đang đi sát đuôi xe họ. “Anh có chắc đó là ý hay không, Harry?”
“Không. Cậu có biết một từ đọc xuôi hay ngược đều giống nhau là gì không?”
“Không.”
“Nhìn vào cái xe tải trong gương đi. AMOROMA. Cậu đọc kiểu gì cũng ra chính cái từ đó.”
Halvorsen đang định nói gì đó, nhưng nghĩ lại rồi chỉ lắc đầu vẻ tuyệt vọng.
“Đưa tôi tới quán Schrøder,” Harry nói.
○○○
Không khí đặc quánh mùi mồ hôi, khói thuốc, quần áo ướt sũng nước mưa và những tiếng gọi bia từ các bàn.
Beate Lønn đang ngồi tại cái bàn nơi Aune ngồi lần trước. Cô dễ nhận ra như chú ngựa vằn trong một cái chuồng bò vậy.
“Cô đợi lâu chưa?” Harry hỏi.
“Có gì đâu mà lâu,” cô nói dối.
Trước mặt cô là một cốc bia to, chưa hề đụng tới và đã nhạt. Cô nhìn theo ánh mắt anh và ngoan ngoãn nâng cái cốc lên.
“Ở đây không bắt buộc phải uống bia đâu,” Harry nói, đưa mắt ra hiệu cho Maja. “Trông thì có vẻ như vậy thôi.”
“Thật ra thì cũng đâu có tệ,” Beate nhấp một ngụm nhỏ. “Cha tôi bảo ông không tin người nào không uống bia.”
Bình cà phê và tách được đưa đến trước mặt Harry. Mặt Beate đỏ lựng đến tận chân tóc.
“Tôi từng hay uống bia,” Harry nói. “Tôi phải cai rồi.”
Beate nhìn chằm chằm xuống khăn trải bàn.
“Đó là thói xấu duy nhất tôi bỏ được,” Harry nói. “Tôi vẫn hút thuốc, nói dối, và hay ôm hận thù.” Anh nhấc cái tách lên để nâng cốc. “Cô mắc những tật gì, cô Lønn? Ngoài chuyện nghiện xem băng ghi hình và nhớ hết mọi khuôn mặt cô từng nhìn thấy?”
“Cũng không còn thêm nhiều lắm.” Cô cũng nâng cái cốc của mình lên. “Trừ chứng múa giật Setesdal.”
“Nghiêm trọng không?”
“Khá. Thật ra nó gọi là Hội chứng Huntingdon. Do di truyền và là chuyện bình thường ở Setesdal.”
“Tại sao lại là ở đó?”
“Đó là một… thung lũng hẹp nằm lọt thỏm giữa những quả đồi đá. Cách xa bất cứ nơi đâu.”
“Tôi hiểu rồi.”
“Cả cha mẹ tôi đều là dân Setesdal nên lúc đầu mẹ tôi không muốn lấy cha tôi vì bà nghĩ ông ấy có một bà cô bị mắc chứng múa giật. Bà cô tôi thường hay bất ngờ vung tay lên, vì thế mọi người thường giữ khoảng cách với bà.”
“Và giờ thì cô bị mắc chứng đó?”
Beate mỉm cười. “Cha tôi thường chọc mẹ tôi về chuyện đó hồi tôi còn bé. Vì khi ông và tôi chơi trò đấm nhau, tôi thường nhanh như sóc và đánh ông mạnh tới mức ông tưởng đó là cơn múa giật. Tôi chỉ thấy chuyện đó thú vị đến mức tôi ước… mình bị chứng đó thật, nhưng một ngày, mẹ tôi bảo tôi rằng người ta có thể chết vì bệnh đó.” Cô ngồi đó, nghịch cái cốc. “Và vào đúng mùa hè năm đó, tôi được biết chết là thế nào.”
Harry gật đầu với một thủy thủ già ở bàn bên nhưng ông ta không chào lại.
Anh hắng giọng. “Thế còn hay ôm hận thù? Cô có bị mắc tật đó không?”
Cô ngước lên nhìn anh. “Ý anh là sao?”
Harry nhún vai. “Nhìn xung quanh mình đi. Con người không thể sống nổi nếu thiếu điều đó. Trả thù và trừng phạt. Đó là động lực của những đứa nhỏ con hay bị bắt nạt ở trường rồi sau đó trở thành triệu phú, và của tên cướp ngân hàng nghĩ rằng hắn đã bị xã hội lừa bịp. Và nhìn chúng ta mà xem. Sự trả thù ghê gớm của xã hội ngụy trang dưới lớp vỏ trừng phạt lạnh lùng và lý trí - chẳng phải đó là cái nghề mà chúng ta đang làm sao?”
“Đó là chuyện tất yếu,” cô đáp, tránh ánh mắt của anh. “Xã hội sẽ không thể vận hành nếu không có sự trừng phạt.”
“Phải, đương nhiên là vậy, nhưng không chỉ có thế, phải không nào? Còn sự thanh lọc cơ mà. Trả thù là xóa sổ. Aristotle đã viết rằng nỗi sợ và lòng trắc ẩn mà bi kịch khơi dậy sẽ gột rửa tâm hồn con người. Chúng ta thỏa mãn nỗi khao khát thẳm sâu nhất của tâm hồn bằng bi kịch của sự trả thù, đó chẳng phải là một ý nghĩ khủng khiếp sao?”
“Tôi không đọc nhiều về triết học lắm.” Cô nâng cốc lên và uống một hơi dài.
Harry cúi đầu. “Tôi cũng vậy. Tôi chỉ đang cố gây ấn tượng với cô thôi. Nói chuyện nghiêm túc nhé?”
“Trước hết là tin xấu,” cô nói. “Việc phục dựng lại khuôn mặt sau chiếc mặt nạ đã thất bại. Chỉ có cái mũi và đường viền của cái đầu.”
“Còn tin tốt?”
“Người phụ nữ bị dùng làm con tin trong vụ cướp trên phố Grønlandsleiret cho rằng cô ta có thể nhận ra giọng tên cướp. Cô ta bảo nó cao bất thường, khiến cô ta suýt tưởng là giọng phụ nữ.”
“Ừm. Còn gì nữa?”
“Tôi đã nói chuyện với các nhân viên ở trung tâm Focus và kiểm tra vài thứ. Trond Grette tới lúc hai rưỡi và ra khỏi đó lúc khoảng bốn giờ.”
“Sao cô có thể chắc chắn đến thế?”
“Vì anh ta trả tiền thuê sân bóng quần bằng thẻ lúc tới. Khoản thanh toán đó được ghi lại lúc 14 giờ 34 phút. Và anh có nhớ chi tiết cái vợt bị lấy mất không? Dĩ nhiên là anh ta đã báo với nhân viên ở đó. Người trực ca hôm thứ Sáu đã ghi lại thời gian Grette ở đó. Anh ta rời khỏi trung tâm lúc 16 giờ 2 phút.”
“Và đó là tin tốt à?”
“Không, tôi sắp nói tới đó rồi. Anh có nhớ bộ đồ bảo hộ lao động mà Grette nhìn thấy đi qua phòng tập thể hình không?”
“Với dòng chữ POLITI sau lưng ấy hả?”
“Tôi đã xem cuốn băng. Có vẻ như có khóa dán ở cả phía trước lẫn phía sau của bộ đồ bảo hộ lao động của Kẻ Hành quyết.”
“Nghĩa là?”
“Nếu Kẻ Hành quyết là người mà Grette đã thấy thì hắn có thể đã dán dòng chữ đó lên bộ đồ bảo hộ lao động bằng khóa dán khi hắn đã ra khỏi tầm máy quay.”
“Ừm.” Harry húp đánh soạp.
“Điều đó có thể lý giải tại sao không có ai báo cáo là đã nhìn thấy người mặc bộ đồ bảo hộ lao động màu đen trơn trong khu vực đó cả. Ngay sau vụ cướp thì những bộ đồng phục cảnh sát màu đen hiện diện khắp nơi.”
“Ở trung tâm Focus người ta bảo sao?”
“Phần đó mới thú vị. Người phụ nữ trực buổi hôm đó quả có nhớ một người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ lao động mà cô ta tưởng nhầm là cảnh sát. Hắn đi qua rất nhanh nên cô ta đoán là hắn đã thuê trước sân chơi bóng quần hoặc đại loại thế.”
“Thế nên họ không hỏi tên hắn?”
“Không.”
“Thế thì cũng đâu có gì ghê gớm…”
“Phải, nhưng đây mới là phần hay nhất. Lý do khiến cô ta nhớ người đàn ông đó là cô ta nghĩ hắn phải thuộc một đơn vị đặc nhiệm nào đó, hoặc gì đó tương tự, vì phần còn lại của bộ quần áo hắn có vẻ Harry Cớm Bẩn[3] lắm. Hắn…” Cô dừng lại và nhìn anh vẻ kinh hãi. “Tôi không có ý…”
“Không sao,” Harry nói. “Nói tiếp đi.”
Beate xê dịch cái cốc của mình, và Harry nghĩ anh đã thấy cái miệng nhỏ của cô hơi nhếch lên cười đắc thắng.
“Hắn đội một cái mũ len kéo lên nửa chừng. Đeo một đôi kính lớn che đi phần còn lại của khuôn mặt. Cô ta bảo hắn xách theo một cái túi đen trông có vẻ rất nặng.”
Cà phê lạc vào đường thở của Harry.
○○○
Một đôi giày cũ được treo bằng dây giày vào sợi thép căng giữa những ngôi nhà ở khu Dovregata.
Những bóng đèn trên sợi dây đó cố hết sức chiếu sáng cho vỉa hè lát đá, nhưng dường như buổi tối mùa thu đã nuốt hết mọi ánh sáng của thành phố. Điều đó không khiến Harry bận tâm; có tối như mực anh vẫn có thể tìm ra con phố dẫn từ phố Sofies tới quán Schrøder. Anh đã làm vậy nhiều lần rồi.
Beate đã lập một danh sách tên những người đặt thuê sân quần hoặc phòng tập Aerobic ở trung tâm Focus vào lúc gã mặc bộ đồ bảo hộ lao động tới đó, và mai cô sẽ gọi tới một số nơi. Nếu không tìm ra được kẻ đó, thì vẫn có cơ may là ai đó ở trong cùng phòng lúc hắn thay đồ và có thể mô tả hắn.
Harry bước đi bên dưới đôi giày treo trên dây thép. Anh đã thấy chúng treo ở đó bao năm qua và từ lâu đã cam chịu là sẽ không bao giờ tìm ra câu trả lời cho cái câu hỏi là chúng lên đó bằng cách nào.
Ali đang cọ rửa bậc thềm khi Harry bước ra tới cửa tòa nhà.
“Chắc anh phải ghét mùa thu ở Na Uy lắm nhỉ?” Harry nói, chùi đế giày. “Toàn bụi bẩn và nước bùn.”
“Ở thành phố quê tôi bên Pakistan tầm nhìn chỉ còn có năm mươi mét vì ô nhiễm.” Ali mỉm cười. “Quanh năm.”
Harry nghe thấy một âm thanh xa xôi nhưng quen thuộc. Có một định luật phát biểu rằng người ta nghe thấy khi điện thoại bắt đầu kêu, nhưng người ta sẽ không bao giờ kịp chạy tới để nhấc máy. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Mười giờ. Rakel đã bảo rằng cô sẽ gọi cho anh lúc chín giờ.
“Cái buồng dưới hầm đó…” Ali mào đầu, nhưng Harry đã chạy như bay, cách bốn bậc mới để lại dấu giày Doc Martens.
Điện thoại ngừng kêu khi anh mở cửa ra.
Anh đá văng giày. Hai tay ôm mặt. Đi tới chỗ điện thoại và nhấc ống nghe lên. Số của khách sạn ghi trên mẩu giấy nhớ màu vàng dán trên gương. Anh cầm lấy và liếc thấy hình ảnh phản chiếu của email đầu tiên TBK gửi đến. Anh đã in nó ra và ghim nó lên tường. Thói quen cũ. Ở Đội Hình sự người ta luôn trang trí tường bằng những bức ảnh, lá thư hay những đầu mối khác có thể giúp họ nhìn ra sự liên hệ hoặc kích hoạt tiềm thức theo cách nào đó. Harry không thể đọc hình ảnh phản chiếu trong gương, nhưng anh cũng đâu cần phải đọc.
Cùng chơi chứ? Hãy tưởng tượng là mày vừa ăn tối, với một người đàn bà hôm trước thì hôm sau người ta phát hiện ra cô ta đã chết. Mày sẽ làm gì?
TBK
Anh đổi ý, đi vào phòng khách, bật ti vi lên rồi ngồi sụp xuống chiếc ghế bành. Rồi anh lại đứng phắt dậy, đi ra sảnh và bấm số.
Giọng Rakel nghe có vẻ kiệt sức vì lo âu.
“Ở quán Schrøder,” Harry đáp. “Anh vừa về đến nhà.”
“Em đã gọi đến mười lần rồi ấy.”
“Có chuyện gì không ổn sao?”
“Em sợ, Harry.”
“Ừm. Sợ lắm à?”
Harry đang đứng ở ngưỡng cửa phòng khách, kẹp chặt ống nghe giữa vai và tai trong lúc bấm điều khiển bật nhỏ ti vi.
“Không sợ lắm,” cô đáp. “Chỉ chút thôi.”
“Sợ chút không ảnh hưởng gì đâu. Một chút sợ hãi sẽ càng khiến em mạnh mẽ thêm.”
“Ngộ nhỡ em trở nên sợ lắm thì sao?”
“Em biết là anh sẽ bay sang đó ngay mà. Chỉ cần em nói một câu.”
“Em đã bảo anh không thể sang rồi mà, Harry.”
“Giờ đây anh xin trao cho em quyền được thay đổi ý kiến.”
Harry nhìn người đàn ông mặc bộ đồng phục ngụy trang và đội khăn xếp trên ti vi. Có gì đó trên khuôn mặt hắn trông quen kỳ lạ, rất giống với một người.
“Thế giới của em đang sụp đổ,” cô nói. “Em chỉ cần biết có ai ở bên.”
“Có người đang ở bên em đây.”
“Nhưng giọng anh sao nghe xa quá.”
Harry không nhìn màn hình ti vi nữa và dựa người vào khung cửa. “Anh xin lỗi, nhưng anh đang ở đây và nghĩ về em. Dù giọng anh nghe có xa xôi.”
Cô bắt đầu khóc. “Em xin lỗi, Harry. Chắc anh nghĩ là em động tí là khóc lóc. Đương nhiên là em biết anh đang ở đó.” Cô thì thào: “Em biết em có thể trông cậy vào anh.”
Harry hít một hơi sâu. Cơn đau đầu xuất hiện chậm rãi nhưng chắc chắn. Giống như một cái vòng làm cô đang siết lại quanh trán anh. Khi cuộc nói chuyện của họ kết thúc, anh có thể cảm thấy từng mạch đập nhoi nhói trên thái dương.
Anh tắt ti vi đi rồi bật một đĩa nhạc của nhóm Radiohead lên, nhưng lại không chịu nổi giọng Thom Yorke. Anh đành đi vào phòng tắm rửa mặt. Đứng trong bếp và nhìn chằm chằm vào cái tủ lạnh mà không biết mình đang tìm gì.
Cuối cùng, không trì hoãn được thêm nữa, anh bèn đi vào phòng ngủ. Máy tính khởi động, hắt thứ ánh sáng xanh xanh, lạnh lẽo vào phòng.
Anh đã liên lạc với thế giới xung quanh mình. Và cái thế giới đó báo cho anh biết anh vừa nhận được email. Giờ thì anh đã cảm thấy nó. Cơn khát. Nó khua những sợi xích ầm ầm như một bầy chó săn đang giằng xích để sổng ra. Anh nhấp chuột vào biểu tượng email.
Lẽ ra tao đã phải kiểm tra giày của cô ta. Tấm ảnh hẳn là để trên cái kệ đầu giường và cô ta đã lấy nó trong lúc tao nạp đạn. Tuy nhiên, điều đó khiến cho trò chơi thú vị hơn một chút. Một chút thôi.”
TBK
T/B: Cô ta sợ. Tao chỉ muốn nói cho mày thế.
Harry thò tay sâu vào trong túi áo và lôi ra một cái móc chìa khóa. Cái móc đeo một miếng đồng nhỏ có đúc hai chữ A.A.
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù