Books are embalmed minds.

Bovee

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Hữu Mạnh
Upload bìa: Son Vo Di
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7242 / 68
Cập nhật: 2016-04-22 16:44:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20: Dạy Dỗ Baree
ần đầu tiên bị tước mất những niềm vui của gia đình vì tấn thảm kịch trên Núi Mặt Trời, Kazan và Sói Xám vẫn không quên câu chuyện bi đát ấy.
Thoáng nghe có tiếng động nhỏ nhặt nào, Sói Xám lại rùng mình, run lên, sẵn sàng nhảy xổ vào kẻ thù không trông thấy sắp xuất hiện, và xé tan bất cứ kẻ nào ngoài Kazan và đứa con kia ra.
Kazan cũng không kém phần lo ngại và cảnh giác. Nó luôn luôn chồm dậy rình mò xung quanh. Nó nghi ngờ những bóng đen cử động trước gió, dưới ánh nắng hoặc ánh trăng. Một cành cây gãy, một nhánh lá đu đưa cũng làm cho nó co dúm môi, nhe hết nanh ra. Nó gầm gừ, đe doạ cả không khí trong lành, mỗi khi có mùi khác lạ thoảng đến mũi.
Không giây phút nào, dù là ban ngày hay ban đêm, nó sao nhãng chuyện canh gác. Chắc chắn như con người chờ đợi mặt trời mọc mỗi buổi sáng, nó cũng tin chắc rằng ngày một ngày hai, sớm muộn gì kẻ thù không đội trời chung của chúng, cũng sẽ xuất hiện, sẽ nhảy đến hoặc bò trườn đến. Chính cũng vào một giờ phút thế này con mèo rừng đã gây nên cảnh mù loà và chết chóc.
Nhưng trên đầm lầy, hoà bình đã giang đôi cánh mặt trời. Xung quanh Kazan và Sói Xám không có kẻ nào khác lạ, ngoài chú cà cưỡng mắt to kín tiếng miền địa, các con chim nai mắt tròn, những cô chim sẻ kêu ríu rít trong các bụi rậm, các chú chuột rừng dễ thương và các chú chồn nhỏ lông trắng.
Cuối cùng Kazan cũng thấy yên tâm. Thỉnh thoảng nó cũng sao nhãng canh gác, để lần mò trong bóng tối, đến ngửi ngửi đứa con trai, chú sói con độc nhất của Sói Xám.
Chú sói con này, nếu dân da đỏ vùng bờ biển Chó ở quá về phía Tây mà đặt tên cho nó, chắc chắn họ sẽ gọi nó là Baree, theo ngôn ngữ của họ có vừa nghĩa là “con một” vừa có nghĩa là “chó sói”, cả hai điều đều hợp với nó.
Ngay từ buổi đầu, nó là một chú bé hiền lành, nhanh nhẹn, được mẹ hết lòng nâng niu chăm sóc. Chú sớm lớn nhanh như sói chứ không chậm lớn như lũ chó con thông thường.
Ba hôm đầu, chú không làm gì khác ngoài việc co dúm thật sát vào bụng mẹ. Đói lại bú, ngủ thì li bì bằng thích, và cái lưỡi âu yếm của Sói Xám không ngừng chải chuốt liếm sạch cho chú.
Ngày thứ tư, tính tò mò của chú bắt đầu trỗi dậy. Cố gắng lắm, móng bám vào lông mẹ, chú mới trườn lên đến mõm mẹ. Rồi chú rời khỏi mẹ, lết ra ccáh vài bước, lảo đảo trên đôi chân mềm oặt, khi đó chú mới hốt hoảng hít hít thất vọng tưởng nguy to mất rồi.
Tiếp sau đó, chú biết Kazan cũng như là một bộ phận của Sói Xám. Chưa hết tám ngày, chú đã khoái trá đến nằm co tròn giữa hai chân trước của bố, ngủ một cách yên lành.
Lần đầu tiên chú làm thế, Kazan hình như ngẩn ngơ, đớ ra. Nó không nhúc nhích đến nửa giờ, cà Sói Xám sung sướng đến liếm liếm chú bé chạy trốn.
Mười ngày, Baree phát hiện ra trò chơi, và đối với chú, kéo kéo một mảnh da thỏ là một môn thể thao thích thú tuyệt vời.
Tất cả những chuyện đó hãy còn diễn ra trong nơi trú ẩn tối om của hốc cây. Mãi cho đến lúc chú sói con hiểu biết thế nào là ánh sáng và mặt trời.
Đấy là một buổi xế trưa trời nắng đẹp. Nhờ một lỗ thủng trong vỏ cây, một tia sáng lấp lánh xuyên qua và chiếu xuống chân cạnh Baree. Thoạt đầu Baree ngạc nhiên và nhìn chằm chằm cái vạch óng ánh vàng. Rồi lát sau, chú thử vờn đùa với nó, như chú vẫn đùa với miếng da thỏ. Chú không hiểu tại sao lại không nắm được, nhưng từ đó chú biết thế nào là ánh sáng và mặt trời.
Những ngày sau, chú lần ra cửa hang, chú thấy cũng có cái ánh sáng lấp lánh ấy. Hai mắt quáng loà, nhấp nháy, chú sợ quá, nằm xuống ở ngưỡng cửa cái thế giới bao la trước mặt.
Sói Xám, trong suốt thời gian đó, vẫn theo dõi chú, giờ đây thôi không giữ chú trong hốc cây nữa. Chính nó cũng ra nằm ngoài nắng và gọi con trai đến bên cạnh. Đôi mắt yếu ớt của chú sói con quen dần với ánh sáng mặt trời mà chú đang dần yêu mến. Chú yêu không khí ấm áp, chú yêu cuộc sống êm đềm, và chỉ chán ghét bóng tối mịt mù của cái hang hổ nơi chú sinh ra.
Cũng chẳng mấy lúc chú hiểu ra rằng trong trờiđất không phải mọi cái đều êm đềm tốt đẹp. Một hôm, dông bão nổi lên và Baree đang lần mò vô tư lự trên cái đảo nhỏ, Sói Xám gọi chú lại để chui vào cái hốc cây bảo hộ. Chú sói con không hiểu nổi tiếng gọi đó, cứ làm ngơ như điếc. Nhưng thiên nhiên nhận ngay phần dạy bảo nó. Một trận mưa trút ập xuống đầu chú, dưới ánh chớp chói loà và tiếng sấm rền vang. Đúng là rụng rời khủng khiếp, chú nằm bẹp xuống đất, ướt sũng đến tận xương, và suýt chút nữa bị chết đuối nếu không được Sói Xám đến ngoạm chú mang về ổ.
Cứ như thế dần dần hình thành óc suy lậun của chú và các bản năng tiếp tục nảy nở. Hôm cái mõm sục sạo của chú chạm vào một con thỏ vừa mới chết và còn roi rói máu tươi mà Kazan vừa mới đưa về, chú mới hiểu thế nào là mùi vị của máu. Chú nhận thấy ngọt ngào tuyệt trần. Từ đó, cảm giác ấy cứ tái hiện, mỗi lần Kazan trở về với một con mồi giữa hai hàm răng. Vì cũng phải học để tự mình đi săn giết, từ bỏ những mảnh da thỏ mềm mại xưa nay chú vẫn đùa nghịch, chẳng mấy lúc chú tiến đến đánh nhau với những cành gãy và những mẫu gỗ, để mài luyện hàm răng trở thành những chiếc nanh nhỏ vừa cứng vừa sắc.
Thế rồi thời cơ đến, vén mở cho chú thấy sự huyền bí vĩ đại của cái sống và cái chết. Kazan đã cắn về một con thỏ trắng tơ, còn sống, nhưng đã liệt không đứng được khi Kazan đặt nó xuống đất. Baree biết rõ thế nào là thỏ, là đa đa, bây giờ chú ưa thích thứ thịt roi rói máu tươi của chúng hơn dòng sữa ngọt ngào của mẹ. Nhưng luôn luôn đến với chú toàn thỏ và đa đa chết rồi.
Lần này, con thỏ gãy lưng, quằn quại giãy giụa trên mặt đất. Chú sói con thấy thế sợ hãi giật lùi. RỒi chú quay lại, tò mò rình ngắm con vật khốn khổ hấp hối nhảy giật, giãy chết.
Cảm thấy sự việc không tiến triển, Sói Xám đến bên con thỏ, hít kỹ mươi mười hai lần, nhưng vẫn không cắn chết giải thoát cho nó, cứ ngoãnh cái mặt mù về phía Baree. Còn Kazan thì uể oải nằm xuống cách đó mấy bước, tiếp tục quan sát có vể rất thích thú.
Mỗi lần Sói Xám cúi đầu, rà mõm lên con thỏ, hai cái tai nhỏ xíu của chú sói con lại vểnh lên, chăm chú và ở trong tư thế sẵn sàng. Thấy không có gì nguy hại đến mẹ, chú đến gần hơn tí nữa, dè dặt, hai chân cứng đờ. Một lúc sau, chú đánh liều chạm vào con thỏ, và cũng như mẹ, chú đặt mõm lên bộ lông dày đang lăn lóc, bề ngoài như vô tri giác.
Nhưng con thỏ chưa chết. Trong cơn giãy giụa, nó co chân sau đạp mạnh một cái, Baree ngã lăn lông lốc cách đấy những mấy bước, hoảng sợ kêu ăng ẳng.
Tuy vậy chú sói con đứng dậy rất nhanh. Chú tức quá muốn trả thù bằng được. Chú quay lại nhảy xổ vào tấn công không sợ hãi như trước nữa, lông lưng dựng đứng, và tự mình hoàn thành công cuộc dạy dỗ, cắm sâu hàng nanh nhọn vào cổ con thỏ. Chú cảm thấy sự sống đang thoi thóp trong cái thân hình rũ rượi, các thớ thịt của con thỏ hấp hối đang co rút dưới người chú, và chú nhất quyết không nhả ra trước khi nạn nhân đầu tiên của chú không còn chút dấu hiệu sống nào nữa.
Sói Xám sung sướng hả hê. Nó đưa lưỡi liếm liếm vuốt ve sói con. Kazan đứng dậy, biểu thị sự tán thưởng của mình bằng một tiếng khịt mũi khoái trá. Trong con thỏ, Baree thích chỗ nào thì ăn chỗ ấy; chưa bao giờ chú cảm thấy máu và thịt ngon đến thế.
Lần lần, tất cả mọi bí mật của cuộc sống hiện dần ra với chú. Từ nay, chú không còn sợ hãi tiếng rúc đáng ghét của con cú xám, tiếng cây gãy, tiếng sấm rền, tiếng nước đổ, tiếng mèo cá kêu the thé, cũng như tiếng gọi xa xa của những anh em Sói, tru rống giữa đêm khuya.
Chú ý thức về khứu giác của mình, đó là điều bí mật huyền diệu nhất. Một hôm, chú đang lang thang cách hang ổ độ năm mươi dặm, mũi chú bắt gặp trên mặt đất mùi ấm ấm của một con thỏ. Lập tức không cần suy luận về cảm giác của mình, cũng không phải vận dụng tư duy tí nào, chú biết ngay rằng, muốn đến được chỗ có món thịt sống ưa thích, chỉ cần lần theo cái mùi này. Thế là chú thực hiện ngay ý nghĩ, khấp khởi bằng lòng suốt dọc con đường phát hiện được. Chú đến một thân cây to đổ xuống đất, tại đây con thỏ đã nhảy qua. Dấu vết thế là bị đứt quãng, Baree mất phương hướng, đành quay lại.
Mỗi ngày, chú một mình bước vào những cuộc phiêu lưu mới; như một nhà thám hiểm không địa bàn, đặt chân lên một mảnh đất hoang vắng, chú cứ lao bừa vào chỗ chưa hay biết. Mỗi ngày chú lại gặp một điều mới lạ, thường thường hãi hùng, luôn luôn kỳ diệu. Nhưng bây giờ sợ hãi của chú ngày một bớt dần, còn tin tưởng thì cứ lớn dần vì thực tế chẳng có nguy hại gì quan trọng xảy đến với chú cả.
Song song với bộ óc, thân hình chú phát triển dần. Chú không còn là một khối tròn tròn phục phịch nữa. Hình dáng chú uyển chuyển dần, động tác chú nhanh nhẹn hơn. Bộ lông vàng sậm dần, một vệt xám chạy dài trên sống lưng chú, giống hệt cái vệt trên lưng Kazan. Đầu Baree dài thon, giống hệt đầu mẹ, nhưng toàn thân còn lại thì chú thừa hưởng của bố.
Chú hưởng được của bố bộ chân to khoẻ và cái ngực rộng dấu hiệu sưc khoẻ tương lai. Mắt chú mở rộng với một ít tia đỏ ở khoé mắt. Tất cả dân rừng đều biết ý nghĩa đó khi họ nhận thấy trong mắt những chú huski cái giọt máu ấy. Nó có nghĩa là con vật được sinh giữa lòng Sơn Lâm, và bố hoặc mẹ nó thuộc những bầy hoang thú ngoài vòng pháp luật của Đồng Trắng bao la. Cái tia đỏ ở Baree lại rất rõ. Nó nói lên rằng, tuy thuộc giống chó lai, Baree thật sự là con của Sơn Lâm; Sơn Lâm đã để dấu ấn trên mình nó.
Khi hoàn đảo tổ ấm của chú sói có dòng nước bao quanh đã được chú thám hiểm hết rồi, chú bèn nghĩ đến chuyện vượt qua bờ bên kia.
Sau nhiều lần quan sát, lần nào cũng không kết quả, và đi men men làn nước róc rách rì rầm bên bờ, trước chân, Baree đánh liều bước lên cái cây đổ vẫn dùng làm cầu cho bố mẹ. Sang được bờ bên kia, không gặp trở ngại mà cũng không mất thăng bằng, chú cảm thấy như được đột nhiên chuyển đến một thế giới mới. Chú còn do dự một lúc, rồi mạnh dạn cất bước lên đường. Đi được quãng năm mươi thước chú bỗng nghe gần chú có tiếng đập cánh. Một con chim cà cưỡng mắt to vùng bắc địa đang đứng ngay giữa đường.
Con chim không bay được nữa. Một bên cánh nó xệ xuống đất, hẳn là bị gãy sau một trận chiến với một con dã thú nhỏ nào đó của Sơn Lâm. Dù sao thoạt tiên đối với Baree, nó cũng là một trong những vật sống hồu hộp nhất, khêu gợi nhất.
Trên cái vạch xam xám ở lưng Baree, lông dựng cả lên và chú sói con tiến tới phía con chim.
Con cà cưỡng tử nãy vần đứng im, bắt đầu lùi chạy, vừa khập khiễng, vừa nhảy lò cò, lúc thấy Baree chỉ còn cách mình độ ba bước. Nhưng Baree không chút do dự, lao vút vào con chim bị thương, sủa lên một tiếng xé tai và tức tối. Một cuộc đuổi bắt nhanh gọn, sôi nổi diễn ra, rồi những cái răng nhọn của chú sói con cắm ngập vào lớp lông vũ.
Con chim dùng mỏ mổ tới tấp. Cà cưỡng vốn là niềm sợ hãi của loài có cánh nhỏ. Vào mùa làm tổ, nó dùng cái mỏ cứng của nó để mổ chết lũ con của chim sẻ, của chim nai có những cặp mắt hiền từ, và cả lũ con của những chú công binh có cánh của rừng sâu mà người ta gọi là chim gõ kiến.
Con cà cưỡng to mổ liên tục vào mõm Baree. Nhưng “cậu ấm” của Kazan đã khá lớn rồi nên không còn nhăn nhó trong cuyện đánh nhau nữa; càng bị mổ đau nó càng nghiến răng thật chặt. Cuối cùng nanh chạm đến thịt, và một tiếng gừ gừ sung sướng trẻ thơ cuồn cuộn trong họng chú.
Từ lúc đó sự chống cự của con cà cưỡng yếu dần và chẳng mấy chốc nó thôi không mổ, không vùng vẫy nữa. Baree nhả ra, nhè nhẹ lùi bước. Chú nhìn con chim nằm lăn quay trước mặt, bất động, rối bù. Con cà cưỡng đã chết.
Chú Sói con đã thắng trận đầu, một niềm kiêu hãnh nảy nở trong chú. Từ nay, chú không còn là một kẻ ăn bám của Sơn Lâm. Chú đã bước đầu tập sự trong guồng máy ác liệt của cuộc sống rừng núi. Chú đã giết.
Một giờ sau, Sói Xám, lần theo dấu vết, tìm thấy chú vẫn ở chỗ đó. Cả con cà cưỡng to chỉ còn mấy mẩu nhỏ; lông rụng vương vãi lhắp mặt đất. Còn Baree, mõm đầy máu, thì nằm nghỉ trước những gì còn lại của nạn nhân trong tư thế kẻ chiến thắng.
Sói Xám hiểu ngay và vuốt ve mơn trớn chú sói con. Chú cùng về với mẹ và đem về cho bố một cái cánh của con chim thua trận.
Từ đó săn bắt trở thành thú say sưa chủ yếu của Baree. Những lúc không ngủ ngoài nắng ấm hoặc ban đêm trong hốc cây, chú chỉ lo tìm kiếm những gì sống động, có thể tiêu diệt được.
Chú giết chết cả một gia đình chuột rừng. Lũ chim nai chú phải nấp rình cũng là thứ mồi dễ bắt và, trong có mấy ngày, chú giết được ba con. Nhưng trái lại với chồn trắng thì rủi ro hơn vì nó cắn rất đau và chạy mất, không hề gì cả, khiến chú được nếm mùi thất bại đầu tiên.
Sau lần thất bại đó, chú buồn bã mấy ngày và nằm im. Nhưng chú nhận thức được rằng: trong số thú vật của Sơn Lâm, nên dè dặt với những con có nanh như chú. Nói chung chú biết là không nên ăn thịt những loại đó. Thực tế ít lâu sau, gặp một chú mèo cá, cũng đang trên đường kiếm ăn như chú, chú để cho nó đi qua không ý kiến gì. Con mèo cá, cũng không kém thận trọng, làm y như thế.
Nhiều điểm khác đối với chú lại do trời phú cho. Theo bản năng, trước cả khi được nếm mùi nhức buốt, chú biết cần phải tránh đụng chạm với nhím. Càng ngày chú sói con đi săn càng xa và càng lâu. Lúc đầu thấy con về hang muộn Sói Xám còn lo lắng. Bây giờ nó cũng đã ít quan tâm hơn. Quy luật thiên nhiên, tiếp tục bước đi của mình.
Rồi một buổi xế trưa, Baree đi xa hơn thường lệ. Chú giết được một con thỏ, ngấu nghiến kỳ no rồi nằm luôn tại chỗ cho đến xẩm tối.
Trăng rằm mọc ảm đạm, vàng ối, như muốn thi với ánh ngày, toả sáng tràn ngập cánh đồng, ngọn cây, và đỉnh núi. Thật là một đêm tuyệt vời. Baree phát hiện ra mặt trăng. Chú cất bước lên đường dưới ánh trăng kỳ diệu, lưng vẫn nghoảnh về phía tổ ấm của gia đình.
Suốt đêm hôm ấy, Sói Xám thức chờ con trai. Đến khi ánh ngày trở lại, nó mới ngồi xuống, ngước lên trời đôi mắt mờ đục, rống một tiếng sủa dài.
Xa xa, Baree nghe tiếng mẹ nhưng không đáp lại. Sự phát triển của chú thế là hoàn thành. Thiên nhiên đã hoàn toàn giành lại uy quyền của mình. Một thế giới mới, một cuộc sống mới, từ nay mở rộng cho chú sói con. Chú đã vĩnh biệt bố mẹ.
Kazan (Ca Dăng) Kazan (Ca Dăng) - James Oliver Curwood Kazan (Ca Dăng)