Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Phần IV - Chương 20
V
ườn tược hầu như chiếm cả khu nhà của gia đình Parker. Đó là một loại vườn lộn xộn. Bà Parker say sưa trồng một bụi cây mà trước đấy bà đã nhìn thấy ở đâu đó và khát khao muốn có; bà đã trồng và rồi quên bẵng đi. Sau bỗng nhiên nó phát triển, tràn khắp chung quanh. Cơ man là hoa, là lá chằng chịt nhau trong khu vườn. Các bụi cây đua nhau nở hoa. Đôi khi bà Parker từ trong nhà đi ra và nóng nảy gạt các cành lá sang một bên, rồi đứng nhìn. Làn da nâu nhăn nheo phía mắt bởi những ngày dưới ánh mặt trời. Da bà thô ráp. Cành cây, bụi rậm vướng vào tóc bà và kéo nó ra. Lắm khi rối bù lên, nhưng biết làm thế nào? Bà luôn luôn cào và vuốt mớ tóc xuống với bàn tay nâu mang chiếc nhẫn xỉn màu. Bàn tay của bà hơi thô cứng nhưng đáng yêu. Ai cũng muốn nhìn vào đó.
Và họ muốn nhìn bà, khi vừa ló ra từ trong các cành trúc đào luôn bám bụi, mỗi mùa hè, hoặc khi bà rẽ, vạch các nhánh chè tìm chỗ ghép cành. Đôi khi bà Parker ngắm những người qua lại trên đường, nhưng bây giờ bà không nói chuyện với họ, chẳng nói mấy. Bà lặng lẽ quay trở vào nhà, leo lên các bậc cấp cẩn thận, thường khoác một chiếc áo len đan quanh thân hình đẫy đà, luôn nở nang hơn ở phần hông. Rồi bà đi vào trong nhà, một người đàn bà khá bí mật vào ngôi nhà màu nâu, không thể tách biệt khỏi khu vườn, khỏi phong cảnh xung quanh.
Ngôi nhà chưa hề có một cái tên nào. Ban đầu nó chẳng cần. Người ta biết đó là nhà vợ chồng Parker và cứ giữ nguyên như thế. Chẳng một ai trong vùng Durilgai, chẳng một ai trong các quận lân cận có thể nhớ hồi gia đình Parker chưa dọn đến. Mọi người cho là đương nhiên và chẳng bao giờ nhìn đến nó. Nhiều người nghĩ nó xấu xí. Dẫu sao nó cũng cũ kỹ và đã ngả màu nâu, chẳng có kế hoạch gì hơn là để nó tùy ý.
Tuy vậy ông Parker đã trông nom sửa sang khá gọn gàng. Ông giữ các máng rãnh luôn sạch, gỗ luôn được sơn lại và thay các tấm ván bị mối xông. Ông là hạng người tận tâm. Chậm chạp. Nom ông to lớn, mỗi khi ông leo lên dốc từ chỗ đàn bò hay đánh luống trồng ngô. Bây giờ ông phải mang kính, và nhớ lại cái ngày mới mang đôi kính nhỏ, gọng kim loại, vì bị đau đầu dữ dội. Thật là của nợ, nó bị gãy. Ông phải dùng chỉ bôi sáp buộc lại. Nhưng đôi kính bỗng hợp với khuôn mặt ông. Ông leo dốc cùng mấy cái xô, gật mạnh đầu chào mọi người, cả những người không quen biết để qua ngày. Mọi người mến ông. Nom ông rất trung thực.
Một ngày mùa đông, khi công việc ở trại đã thư thư, Stan Parker đi đến nhà Joe Peabody giúp anh ta rào cái vườn. Chàng trai Peabody vừa mua được cái nhà này ở Hungerford, nhưng vẫn chưa đâu vào đâu, gặp hết chuyện này đến chuyện nọ. Có năm anh ta bị gãy chân, có năm bị bò húc. Rồi đến bà mẹ vợ ốm, bà bị chứng đau tim, vợ chồng anh phải trả tiền cho bác sĩ chuyên khoa. Peabody đã lấy một cô em họ, bởi vì dạo ấy quanh đó chẳng có mấy con gái. Nhưng cô ta ngoan và khỏe mạnh, họ sinh con đẻ cái ở một bên của cái màn bằng bao tải ngăn đôi họ với bà mẹ vợ. Lũ trẻ làm anh vướng chân vướng cẳng, dù sao cũng chỉ nhất thời nhưng anh rất vui vẻ, đến nỗi chẳng ai nghĩ đến chuyện thương hại anh cả.
Stan Parker thỉnh thoảng cũng lên trên đấy, vì Peabody vẫn hay nhờ việc này việc nọ và hỏi ý kiến ông. Vì thế ông già rất thích chàng trai. Tình bạn bất ngờ này khiến ông cảm thấy khoan khoái và phấn chấn trong lòng.
Ông đang chuẩn bị đi giúp bạn rào vườn như đã hứa, đang tìm và mang cọ chiếc xà beng, bởi ông không thích dùng dụng cụ của người khác, thì vợ ông đến bên nói:
- Anh sửa soạn đi lên nhà Joe Peabody đấy sao!
Đó là một câu khẳng định, không phải một câu hỏi. Và bà đứng đấy, hai tay cho vào túi áo khoác len, nhìn chồng cọ rửa dụng cụ. Stan không trả lời, chỉ ậm ừ xác nhận, sống với nhau bao nhiêu năm rồi nên bà đã dịch được.
Cách đây một vài năm Amy Parker bực bội với quan hệ này giữa hai người. Bà phàn nàn là anh chàng ấy chẳng bao giờ nói thẳng với bất kỳ ai, mà chỉ đứng nghếch sang một bên. Đúng thế thật. Chàng trai Peabody rất ngại vợ bạn mình. Thế là Amy Parker bỗng đâm ghét hình thù cái mũi của anh chàng, và nói linh tinh chuyện này chuyện nọ về cô vợ trẻ của anh ta. Ôi dào, chẳng qua cũng chỉ là một cái máy đẻ, bà nói như vậy.
- Em không thích cậu ấy. Tại sao? - Stan hỏi. - Cậu ấy chẳng làm hại ai cả.
- Em không ghét cậu ta, - bà vợ ngạc nhiên nói. - Nhưng em không thể ưa nổi. Anh hiểu em định nói gì rồi.
Người chồng chẳng hiểu gì cả, hoàn toàn không.
Thế rồi Amy Parker nhớ lại chiếc ca-vat màu xanh mà Joe Peabody đeo vào cái ngày hôm ấy, vì thế bà chẳng bao giờ tha thứ cho anh ta. Đó là một cái màu sáng chói, như tố cáo người khác mà đàn ông chẳng nên đeo. Hoặc giả lúc đó bà chưa kịp chuẩn bị. Bà đã bị tố cáo.
- Em chẳng thù ghét gì cậu ta cả. - Bà nói, giọng quả quyết.
Nhưng rồi chồng bà vẫn tiếp tục đến chơi với Joe Peabody, và rồi bà cũng chấp nhận tình hình này, vì phần lớn tình hình cuối cùng đều được chấp nhận.
- Em không chuẩn bị bữa trưa cho anh đâu. - Bà nhìn chồng thu xếp dụng cụ, vừa nói.
- Đúng rồi. - Ông trả lời. - Họ chẳng thích thế đâu.
Bà nhìn cái đầu của ông. Chà, bà nhủ thầm, mình rất mến anh ấy. Nó dễ chịu hơn tình yêu.
Khi ông đứng thẳng người lên, và rõ ràng sắp sửa lên đường, một tình cảm yêu thương tha thiết tràn ngập lòng bà vì tất cả hành động của ông; bà cọ tay áo vào người ông và nói:
- Thế anh không hôn em sao?
Ông cười vang rồi hôn vợ, nhưng rất vụng về, với đôi môi khô khốc.
Vì môi bà ướt hơn nên bà nghĩ rằng mình tha thiết hơn. Thậm chí bà còn yêu ông nữa. Dĩ nhiên bà yêu chồng. Ông đang đi khỏi sân với đống dụng cụ nặng nề.
Rồi Amy Parker nhìn chồng nổ máy ô tô, một trong số những cái ô tô cũ, và lái đi, lưng thẳng đờ. Trong ngôi nhà mà lúc này bà thấy vui mừng được sống một mình, mặc tình thương yêu của bà hoặc có thể vì tình thương yêu đó, sự thanh bình dường như có thể đạt tới được. Thế là bà miệt mài, khéo léo lau chùi bàn ghế giường tủ trong nhà cho đến khi màu gỗ hồng tâm lâu năm thắp sáng ngày đông tháng giá. Rồi bà nhìn ra cửa sổ ngắm những lá cỏ lóng lánh, những cây keo vừa mới đâm chồi ở lưng chừng đồi. Lúc này, ít nhất bà chỉ đòi hỏi những cái gì bà biết.
Trong buổi sáng thanh bình ấy mọi người đều ngồi thoải mái, điều đôi lúc có thể thực hiện được vào những ngày đông yên tĩnh. Còn Stan Parker, đang lái xe chạy dọc con đường sỏi đá về hướng nhà Peabody, cũng vui mừng được tắm mình trong buổi sáng đó. Ông đã lái xe qua nhiều chỗ ông từng quen thuộc, trẻ con không nhận ra ông, mấy con bò giương mắt nhìn ông, một chú gà trống lông cánh sặc sỡ bay vút lên nóc nhà và đứng ở đó, dáng oai vệ.
Cuối cùng xe đã đến nhà Peabody, người chủ trại trẻ tuổi từ trong lán, nơi họ ở, chạy thẳng ra qua lũ trẻ và chó, tiếng hét và tiếng sủa. Hai người đàn ông, một trẻ một già, sải bước dài trên sương ướt đến chỗ dãy hàng rào đã dựng được một phần.
Họ bắt tay ngay vào việc, đào lỗ chôn cọc trong đất đỏ, mấy con chó chạy đánh hơi trong đám cỏ tìm thỏ. Vì nhờ ông hàng xóm làm không công nên anh chàng Peabody thấy mình buộc phải làm vất vả gấp đôi. Nếu không thì anh phải làm tất.
- Bác Stan, cho cháu cái xẻng. - Anh ta nói, sau khi ném cái xà beng xuống đất.
Nhưng Stan không thích như vậy. Đến lượt ông, ông cầm chiếc xẻng và hất tung đất lên.
Cứ như thế họ làm việc, tôn trọng nhau như hai kẻ cuồng dại.
Trời càng nóng và oi ả, một con diều hâu đen là là bay trên bầu trời quang đãng. Peabody cởi phăng áo, nhổ nước bọt vào hai bàn tay, rồi tiếp tục làm cật lực.
Stan Parker, vẫn mặc áo sơ-mi, ngắm nhìn thân hình của chàng trai, một thân hình cường tráng, đầy sự lãng quên và tự tin của một thân thể trẻ trung, trần trụi. Thế là ông mơ màng nhớ lại cái thời xa xưa trong khi đẵn cây và đào đá. Nhớ lại những kỷ niệm xưa, miệng ông nở một nụ cười mỉa mai. Ông còn nhớ lại được cái thời chỉ cần làm hàng rào chung quanh, đám đất sẽ là của ông. Niềm tin ấy biểu lộ rõ trong đôi mắt trong của chàng thanh niên vạm vỡ, người đang luôn tay đào lấp loang loáng như dao với sự tin tưởng mãnh liệt.
Cuối cùng hai người gặp phải một cái gì đó làm rung cả xương sườn của Peabody. Anh đứng đấy hồi hộp, thân hình bóng lộn như xoa dầu.
- Cái này đúng là chết người đây, - anh nói, bỗng thấy hoài nghi trong chốc lát. - Có khi phải cho nổ mìn.
Rõ ràng hai người đang đào quanh một tảng đá to vô tận.
- Đá à? - Stan Parker mỉm cười nhìn cái hố khá lâu, rồi nói tiếp - Còn có hòn gay hơn cơ. Ta quyết không chịu thua nó, một hòn đá choắt kia.
Ông cầm chiếc xà beng.
Joe Peabody đứng hai tay chống nạnh, thầm hy vọng ông già sẽ xử lý được việc này.
Stan Parker bắt đầu. Thanh xà beng rung lên khi đập mạnh vào đất, chẳng biết vì khinh miệt hay hy vọng. Ông tiếp tục. Phải chăng căm thù đang tuôn trào khỏi hai cánh tay ông? Chỉ biết ông đã phá lên cười một, hai lần. Một đôi lần tảng đá tóe lửa, những vết thương màu xám hiện ra. Thân hình khô khốc, mảnh mai của ông đang chọi với tảng đá ngoan cố. Ông nhớ ra ở dưới đáy rãnh có một dòng nước màu nâu, vào những ngày mát mẻ chảy từ trong lòng đất ra, và những dây thổ phục linh màu đỏ tía xoắn chặt lấy những bụi gai màu xám. Thình lình ông gập người lên trên chiếc xà beng, ép bụng vào đầu cán, mang hết sức mạnh và trọng lượng đè lên.
Tảng đá trong hố chuyển động.
Ông lôi xà beng ra và chọc liên tiếp vào các góc, sau khi thấy một chỗ yếu. Tảng đá nhô lên, hình dáng hiện ra rõ nét.
- Tuyệt quá! - Peabody vốn rất khâm phục ông bạn già hét lên - Sao bác làm được vậy!
Stan Parker mỉm cười.
Mặt ông hơi tái đi. Ông buông thanh sắt xuống, nó rơi đánh keng xuống đất. Người ta thoáng có cảm giác là chính người đàn ông này, mặc dầu vẫn đứng vững, cũng giống như tảng đá, đã bị loại bỏ. Sương mù màu xám trôi lơ lửng trong nắng sớm. Ông cảm thấy buồn nôn. Hơi thở dồn dập. Chứng đau lưng hay gì đó.
- Bác làm sao thế, bác Stan? - Chàng thanh niên tiến lại gần, sờ vào người ông bạn già. - Làm vừa thôi bác ạ. Bác có thấy trong người khó chịu không?
Anh ta rất lo lắng.
Stan Parker dụi mắt, đưa tay che kín gương mặt bối rối của mình. Toàn thân ông run lên cầm cập. Nhưng khi ông bỏ hai tay khỏi mặt, điều mà ông phải làm, ông lại mỉm cười và nói:
- Tôi chẳng làm sao cả, Joe ạ. Tôi không còn được khỏe như trước, thế thôi.
Chàng thanh niên nhìn ông già và nói:
- Bác không nên làm quá sức ạ.
Giờ anh hài lòng nắm quyền điều khiển, khi tảng đá đã hoàn toàn bị bẩy lên khỏi mặt đất, anh lệnh cho Stan ngồi lên trên, và Stan đã làm theo.
Stan ngồi đấy trong buổi sớm mai đẹp trời, đưa tay sờ nắn cái cổ đầy sụn và hai bên xương sườn già yếu. Nếu ông có thể đặt tay được lên linh hồn của mình xác định hình dáng, tuổi tác, độ cứng và độ bền của nó thì ông đã làm. Vì chẳng làm được nên ông cảm thấy xốn xang trong lòng, cảm thấy mình không tồn tại nữa, mặc dù ông vẫn mỉm cười trong cơn mệt mỏi lơ mơ, nhìn chàng thanh niên làm việc theo nhịp độ bình thường, bởi chẳng còn ai cạnh tranh nữa, lắng nghe ông góp ý về việc làm hàng rào, điều với người nghe bắt đầu có vẻ là chắc chắn chứ không phải huênh hoang nữa.
Lát sau, một chú bé con chạy trên mảnh đất bị giày xéo, nó chạy hơi quá nhanh so với sức, nhưng buổi sớm mai đẹp trời đã thôi thúc nó. Hai bàn chân đi đất chạy thình thịch, đôi chân đầy vẩy sẹo loáng loáng, nó chạy đến gần. Nó cầm một mẩu vỏ bánh mì mà đã thôi không nhai, một miếng vụn còn dính trên đôi má ửng đỏ.
Nó đến và lắp bắp điều gì đó.
- Cháu nó nói cái gì thế? - Stan Parker bây giờ đã già rồi không nghe rõ.
- Nó bảo mẹ đã làm cơm trưa xong. - Ông bố trả lời, tranh thủ xúc thêm mấy xẻng đất nữa, theo nguyên tắc.
Chú bé đứng nhìn Stan Parker, vẻ trầm ngâm, chỗ vụn bánh vẫn còn dính trên má.
- Ông Parker làm sao thế hở bố? - Chú bé hỏi. - Tại sao ông không làm việc?
- Không việc gì đến con. - Joe Peabody nói. - Ông nghỉ tay một tý.
Ông bố trẻ mặc áo. Anh có một vệt lông nhỏ, đen chạy suốt từ ngực đến rốn, chia thân hình làm đôi. Anh không để ý nhiều đến thằng bé mà anh đã sinh ra nó trong túp lều tăm tối. Anh coi điều đó là nghiễm nhiên, đặt tay lên lưng người bạn, nói:
- Nhanh lên bác Stan. Chúng ta phải kiếm gì cho vào bụng chứ.
Thế là Stan được dắt đi, ông cảm thấy hài lòng. Thằng bé vừa nhảy lò cò đằng trước vừa nhá mẩu bánh mì, rồi quay ngoắt lại, nhảy lùi về phía sau để nhìn cho rõ, đoạn kêu lên:
- Thế ông Parker ốm à?
Ngay khi bị bố nó đập vào người, thằng bé hét lên vờ khóc, đùa nghịch khoái trá, và bố nó cũng thích vậy.
Trong cái lán đông đúc, mà người vợ trẻ vừa cho đứa bé nhất ăn xong, họ ngồi xuống dùng món hầm có lõng bõng vài ba miếng cà rốt. Trên cái đĩa của hai người đàn ông có một đống khoai tây.
- Tôi đoán các ông đói lắm. - Cô Joe Peabody nói, cô có nước da bánh mật, mang nét mặt rạng rỡ, vui vẻ, vì mọi điều.
- Ông Parker, ông ăn khỏe vào nhé. Mẹ tôi và tôi dùng đủ rồi.
- Hôm nay tôi ăn không ngon miệng. - Bà cụ nói. Cụ cũng tên là bà Peabody. - Ông Parker cũng vậy, tôi chắc thế. Chỉ có cánh trẻ là ăn như hùm. Cũng may mà còn có khoai tây.
- Tôi chẳng bao giờ bỏ bữa cả. - Stan Parker nói, mặc dù lúc này ông chẳng thể nhìn nó được.
- Cái gì đến thì sẽ đến thôi - bà cụ Peabody nói với vẻ kinh tởm. - Ông không còn trẻ nữa, tôi nói thật đấy, chẳng có ý gì đâu.
Ông khách hoàn toàn không thể tự vệ. Một vài đứa trẻ thôi không còn kính trọng ông nữa.
- Kìa, mẹ đừng nói đến chuyện ấy. - Người chủ nhà nói, mồm đầy thức ăn. - Để cho mọi người được yên.
- Bà không ăn được kẹo nữa. - Người con gái nói, đưa mắt nháy ông khách.
- Các người đừng có mà bắt nạt tôi. - Bà cụ than vãn, tóc dựng lên từng túm hoa râm trên làn da nhăn nhúm. - Tôi đã nuôi bảy đứa con gái, đứa này nối đứa kia chuyển tôi đi. Như một gói hàng.
- Mẹ thế là may lắm, - vợ Peabody nói - mới sinh được nhiều như thế. Nếu không thì mẹ chẳng được lâu như thế. Chắc chắn cái gói đã rơi rụng rồi.
Chị khẽ đập vào lưng mẹ một cách hóm hỉnh và trìu mến, khiến bà cụ bật khóc, vì mọi ân huệ bà nhận được, rồi đi ra qua bức rèm bao tải, đến góc phòng bà sống.
Một lát sau Stan Parker gạt đĩa sang một bên.
Vợ Peabody nhìn mấy củ khoai tây lềnh bềnh trong món hầm.
- Kìa, - chị nói, nhưng không tiếp tục nữa.
Chị có ý nghĩ rằng người bạn của chồng là một đối tượng phải được che chở, vì thế chị vòng tay qua người ông để lấy cái đĩa, và khi chị lướt qua người ông, Stan Parker cảm thấy sự che chở ấm áp của chị.
- Tôi sẽ pha cho ông một chén trà. Ông sẽ thích uống trà thôi. - Vừa nói chị vừa quay lại phía ông già.
Stan Parker cảm thấy nhục nhã, không phải vì trước nay ông vốn là con người kiêu hãnh. Mà ông xấu hổ nhìn hai đầu gối quần, và nhìn cái nền đất nhà Peabody, nơi có một khuôn mặt trẻ con đang nhìn ông chằm chằm. Đến cuối đời, ông lại bị đứa trẻ trong sáng lôi cuốn. Ông muốn nói với nó một điều, nhưng nó ở xa quá.
- Trà đây ông, - người mẹ trẻ nói, đặt chén nước trà đầy tràn lên bàn. - Có đường đấy. Ông tự cho đường nhé. Đừng giục ông, anh Joe ạ. Để ông lão thưởng thức một chén trà ngon.
Chẳng ai thúc giục Stan Parker nữa. Đôi môi chậm chạp của ông nhấm nháp chén trà. Ông ngồi trao đổi những chuyện xa xăm, rồi đi cùng Joe đến chỗ hàng rào, nhưng công việc tiến hành mà không có ông tham gia. Suốt chiều hôm ấy ông thơ thẩn, và trong thâm tâm Joe cảm thấy hài lòng, anh nhủ thầm: “Ông lão đã trở thành của nợ rồi, chẳng còn làm được mấy, nhưng là một ông lão tốt bụng”.
Khi Stan Parker về đến nhà, vợ ông nói mà không ngẩng mặt lên nhìn.
- Anh về sớm thế?
- Ừ, anh thấy khó chịu trong người.
- Sao, khó ở à?
Bà giật lùi, tuy ông không đánh đập gì.
- Chả là bọn anh cố bẩy một tảng đá để đóng cột, bỗng anh cảm thấy mình yếu như một đứa trẻ. Lúc đầu chỉ hơi chóng mặt. Song cứ thế mãi không dứt. Hôm nay anh không được tích sự gì, Amy ạ.
Nhưng đến tối ông trở lại là người đàn ông khỏe khoắn và lạc quan. Dưới ánh sáng gay gắt của ngọn đèn điện trong gian phòng vuông vắn, hai người vui vẻ đùa nhau về tuổi già. Ông lại khỏe đến mức mà có lúc bà đấm một cái vào người chồng.
- Ta nên bán mấy con bò khốn kiếp kia đi. - Bà nói. - Suốt đời ta làm cái gì nào? Chỉ lặn lội lên xuống con đường mòn kia để vắt sữa một đàn bò khốn khổ.
Bà theo dõi xem ông lão có xót không. Nhưng ông vẫn bình chân như vại.
Sau khi phơi chiếc khăn ướt lau bàn cho khô, bà đến cạnh ông. Mùi hương từ khoảnh vườn lạnh giá lùa vào qua cửa sổ, mùi hoa thanh thảo và hoa violet đầu mùa. Hôm ấy bà đã chải tóc thật mượt để cho ông thấy, hoặc nhớ lại nhan sắc của bà. Hai người hôn nhau, khá mãnh liệt, và cả hai đều cảm thấy dễ chịu khoan khoái với cái ảo tưởng là thể xác họ đã trở lại như xưa. Người đàn ông may mắn thiếp ngủ trong ảo tưởng kia, còn người đàn bà nằm thao thức lâu hơn trên chiếc giường họ đã nằm ngủ suốt đời, không rõ vì biết ơn hay tò mò bà đưa tay sờ nhẹ đầu ông.
Bà sờ cái sọ của ông, vì hình như trong giấc ngủ da thịt đã tiêu biến. Ông không phản đối nhưng nằm xa ra thở. Một lát sau bà cũng ngủ thiếp đi trong khuôn khổ gò bó của ngôi nhà. Lần này đến lượt bà ráng sức bẩy tảng đá đang nằm bên cạnh bà, nặng nề trên giường.
Ban ngày, dĩ nhiên, lấy lại sự tin cậy vào thể xác hoàn toàn chẳng khó khăn gì. Trong những ngày đông thanh bình, vào lúc xế trưa yên tĩnh, Amy Parker thường ngồi ở hành lang phía trước ngắm nhìn cảnh vật từ sau giàn nho và những thân già cỗi của một khóm hồng phải vứt bỏ đi, vì chiếm quá nhiều chỗ và đã quá già. Khi ấy bà ngồi ngóng chờ một cái gì sẽ xảy ra, tuy phần lớn chẳng có gì.
Trừ một hôm, vào tháng Sáu, một cơn gió lạnh thổi rạp những lá cỏ trong vườn, ánh nắng yếu ớt chưa chiếu đến mục tiêu thì đã tan biến, nhưng hôm đó một chiếc ô tô đi qua, một chiếc ô tô nhỏ, gọn gàng, được lau bóng với niềm tự hào và sự cẩn thận. Bà Parker uốn cong một cành cây xuống để nhìn. Xa quá bà không thể nhìn được chi tiết. Mắt bà ngày càng yếu đi. Bà không thể. Chỉ thấy có một phụ nữ bước ra, nhìn quanh như để tìm kiếm một lời xác minh. Người ấy mặc áo lông đen.
- Xin bà bảo giùm, - người phụ nữ gọi to, sau khi dừng xe lại, - có phải bà Parker ở đây không?
- Xin lỗi bà. - Bà Parker thận trọng trả lời.
Bà chưa muốn xuất đầu lộ diện, xem sao đã.
- Trước kia có một bà Parker. - Người phụ nữ đứng yên nói, giọng bà ta vang lên và lạc lõng trong chốn thôn quê giá lạnh mà bà vừa dừng xe lại.
Bà ta đã già như thế mà còn lái xe đi xa thế này, Amy Parker nghĩ thầm.
- À, vâng, có đấy. - Bà nói, rồi cân nhắc, hắng giọng.
Người phụ nữ này có một gương mặt vàng vọt, giống xà phòng. Giọng bà xoáy vào người Amy Parker, như bới tìm một cái gì.
- Thế bà không phải là… - người phụ nữ nói, - đúng bà là bà Parker rồi phải không?
Bà Parker đỏ mặt.
- Vâng, - bà nói - bà Gage đó phải không?
- Tôi không nhận ra bà, - bà Gage nói. - Bà béo ra nhiều quá.
- Bà cũng đẫy ra đấy. - Bà Parker nói, vừa đưa mắt nhìn phong cảnh chung quanh.
Nhưng hình như bà hài lòng về điều bà nhìn thấy.
Rồi cả hai cười vang lên, tiếng cười vút cao, nghe như tiếng vợt gỗ mỏng đập vào nhau trong không khí.
- À, tôi làm gì có chuyện ấy. - Bà cựu trưởng trạm bưu điện nói, sau khi hai người đã cười đến mệt cả người.
Amy Parker ngắm nhìn khuôn mặt kia, khuôn mặt vàng vọt và linh hoạt kỳ lạ, như đong đầy nước xà phòng. Bà thấy bà Gage đã thoải mái trở lại, và hy vọng bà cựu trưởng trạm bưu điện sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện. Ngay sau đó bà ta kể thật, vừa lấy ngón tay mân mê những núm cửa bằng kền của chiếc ô tô con, và mơ màng hồi tưởng lại quá khứ.
- Khi tôi làm đơn xin chuyển khỏi Durilgai, - bà nói, - sau khi ông Gage tự sát, như bà biết đấy, tôi được cử đến Winbin.
Ở cái quận miền nam khủng kiếp ấy, băng đóng răng rắc trên vũng nước mưa. Có thể nghe thấy tiếng. Có thể nhìn thấy trận mưa vàng vọt, dầm dề đổ xuống thung lũng và quật mạnh đám cỏ vàng. Ở đấy có con đường với cái lò rèn và quán rượu. Có một lần đã xảy ra án mạng, nhưng đã là nhiều năm trước rồi, và chẳng bao giờ xảy ra nữa. Văn phòng màu nâu, dựng trên những cái cọc, trên thùng phuy rỗng và ghế gãy, gió đã làm xiêu vẹo một vài đồ gỗ. Trong căn phòng màu nâu mà bà Gage đứng có mùi bếp lò và mực viết khô. Mực, cặn mực thì đúng hơn, thường xuyên đóng băng, khiến người ta chẳng muốn chấm vào. Thứ mực đông lạnh ấy chỉ làm người ta phát kinh. Vì thế bà Gage, vừa xoa chỗ bị cước vừa lắng nghe tiếng sột soạt của cánh tay áo bằng giấy nâu, đã đưa cho mỗi người một cái bút chì.
- Ở Winbin tôi gầy hẳn đi, - bà trưởng trạm bưu điện nói. - Thật sự cũng vì ông Gage qua đời theo cách đó. Từ ấy tôi bị căng thẳng thần kinh. Rồi bắt đầu gặp khó khăn với giấy má. Bà có thể tin được không, tôi chẳng biết mấy tập tem để đâu mất? Chán nhất là thỉnh thoảng khi ghi điện báo tôi ngã lăn đùng ra, mà tôi tỉnh, thế mới phiền bà ạ. Tôi nghe rõ tiếng bút chì nảy trên bàn gỗ. Tôi nom thấy rõ cái trần nhà trên cao. À, nhiều người không thích chuyện đó. Bởi vì họ không biết phải làm gì khi một người ngã xuống. Vì thế tôi xin thôi việc.
Bà Gage lấy mùi soa chấm nhẹ môi. Cuộc đời bà qua lời kể luôn luôn cỏ vẻ chân thực.
- Ông Goldberg bảo tôi: “Đã đến lúc rồi đấy. Nếu không thì bao nhiêu thông tin có giá trị sẽ mãi mãi mất đi.” - Bà Gage nói.
- Ông Goldberg? - Amy Parker hỏi, hai tay vòng trước ngực, tựa như cẩm thạch.
- Lúc nào đó tôi sẽ kể cho bà nghe. - Bà trưởng trạm bưu điện nói. - Khi tôi về hưu và rời Winbin, tôi đến nhà bà Small, người chị em họ ở Barangoola. Bà ta tốt với tôi đến phát sợ, mùa đông ăn xúp, mùa hè cá nấu đông. Bà ta phải tật nói lắp, thật khổ thân, vì hồi con gái bị bỏng nước sôi. Bà biết đấy, Barangoola là một nơi nghỉ mát, vào những dịp đông khách bà Small có nhận một, hai người ở trọ. Do đó chúng tôi quen ông Goldberg, một con người phong nhã, có học vấn, ông đọc rất nhiều sách và còn làm thơ, ông cho tôi xem một vài bài, rất hay.
Vào những buổi tối mùa hè, trên cái đê chắn sóng, mà thực chỉ là một đập đá nhọn hoắt, chẳng ra sao, nhưng được cái kín đáo, ông Goldberg ưu ái lắng nghe câu chuyện rủi ro của bà Gage. Ông lắng nghe tiếng tảo biển sột soạt và ngắm những cái mõm của mấy con hải quỳ, thỉnh thoảng cho chúng một con cua. Đôi khi ông Goldberg ngẩng đầu lên tựa một con ngựa và như muốn hí lên trước cơn điên của chồng bà Gage.
- Bởi vì, dĩ nhiên, - bà nói, - tôi phải kể lại cho ông ấy nghe tất cả chuyện đó. Nhưng thoạt tiên tôi không cho ông ta xem các bức họa mà tôi đã mang từ Durilgai đến Winbin, rồi từ Winbin đến Barangoola, buộc bằng một sợi dây thừng, vì tôi hầu như chẳng biết làm gì với chúng.
- À, - bà nói vừa nhổ nước bọt, - nếu cuối cùng mà tôi đưa cho ông ta xem các bức họa thì sự việc đã xảy ra như thế này. Một buổi sáng, chúng tôi ở ngoài thành phố, trên đường đi đến thư viện cho mượn sách mà ông Goldberg đỡ đầu, thì một người tiến đến gần, một người ông ấy quen, hình như thế, họ cùng quen nhiều người với đủ kiểu tên khác thường. Người đó đứng lại nói chuyện một lát lâu, nhưng nhìn tôi và mỉm cười, rồi lại nhìn, tuy nhiên theo kiểu một quý bà sang trọng. Dĩ nhiên, tôi nhìn vào một cửa hiệu vì tôi biết rõ hoàn cảnh của mình. Thế rồi bà ta đến gần tôi, bà ăn mặc rất trang nhã, cầm hai tay tôi, hết sức kích động. “Bà Gage,” bà ta nói, “chính là bà, tôi cứ phân vân mãi, những bức họa chồng bà vẽ thật sự đã ám ảnh tôi bao nhiêu năm nay”. Bà chẳng bao giờ đoán được đâu, chẳng ai xa lạ mà chính là bà Schreiber, người đã ở đấy vào cái hôm ông Gage qua đời, đã xem những bức họa cùng với bà và những người khác, chắc bà sẽ nhớ ra, gương mặt bà ta nom khác hẳn, nhưng không thể nói là không thanh tú. Thế là những bức họa bị lộ. Chỉ còn có cách là đưa cho ông Goldberg xem. Ông ấy ép tôi. Ban đầu tôi từ chối. Nhưng cuối cùng phải đưa cho ông ấy xem.
- Ôi, - bà quả phụ nói, mặt tươi hẳn lên, - xem ra ông Gage nhà tôi là một thiên tài, bà có tin như thế không? Mặc dù những người quen biết nhà tôi, tội nghiệp cho ông, đều biết là ông hơi khác thường. Bà không biết chồng tôi đâu.
- Vâng, - Amy Parker nói, tuy bà có biết.
- Chẳng bao lâu tôi thành đối tượng được chú ý, - bà trưởng trạm bưu điện nói tiếp, tay gỡ một cái gì dính vào áo lông, - nhờ sự nhiệt tình của ông Goldberg và một số quý ông khác đối với những bức họa sơn dầu của nhà tôi. Ông Gage tội nghiệp mà ở đó thì chắc chắn sẽ ngạc nhiên. Tôi chỉ tiếc là ông ấy đã ra đi, vì tôi thấy rõ là chúng tôi có thể làm ăn được đôi chút. Dẫu sao, tóm lại, tôi đã bán những bức họa. Tôi phải nói với bà là tôi đã làm đúng. Tôi bán tất trừ một bức mà tôi không thể dứt ra được vì lý do tình cảm, và cũng vì đó là một tác phẩm nghệ thuật, ông Goldberg bảo, có một không hai. Tôi treo nó trên lò sưởi trong phòng khách. Riêng cái khung đã trị giá mười lăm bảng rồi. Đó là bức họa về một người đàn bà, nhưng chắc bà không nhớ đâu. Người đàn bà đang đứng đấy, đúng thế, bà ta khỏa thân, nói thật với bà. Nhưng mà tại sao lại không? Bây giờ tôi phóng khoáng rồi, vì tôi biết như thế là đáng thôi.
- Tôi còn nhớ bức tranh ấy. - Amy Parker nói.
- Thật ư? - Bà Gage nói, như bị khiêu khích. - Thế bà có thích nó không?
- Tôi chẳng biết. - Người đàn bà thô kệch nói. - Tôi không hiểu ý nghĩa của nó.
Bà không hiểu bản thân mình, nặng nề đứng giữa đường, vào lúc đó hay bất cứ lúc nào. Bà không hiểu con mắt của người ta. Và người đàn ông quá cố, liệu ông ta có nhìn thấy bà như bà đã không thể lĩnh hội được bức họa không? Lúc ấy, đi giữa hàng cây ban đêm, liệu bà có nên yêu ông ta không, khi hai cánh tay ông chẳng còn xương xẩu nữa? Bà cảm thấy mình không yêu ai cả. Bà thấy xốn xang. Bà thấy sờ sợ.
- Dẫu sao, - bà cựu trưởng trạm bưu điện nói, - sau đó ít lâu tôi đã có được ngôi nhà riêng. Rất hiện đại. Tôi vừa mới trả xong tiền cái tủ lạnh. Còn bà thế nào? - Bà ta hỏi, nhìn quanh có vẻ ngạc nhiên. - vẫn như xưa. Còn bà O’Dowd?
- Tôi chẳng biết bà O’Dowd có khỏe hay không. - Bà Parker nói một cách trịnh trọng.
- À, - bà Gage nói.
- Ồ, chúng tôi chưa bao giờ điều qua tiếng lại. - Bà Parker vội vàng thanh minh. - Nhưng tình bạn cứ nhạt dần.
Rồi bà trưởng trạm bưu điện hỏi han đến con cái, bằng cái giọng để nói với trẻ con.
- Thelma tốt lắm. - Bà Parker trả lời một cách chính xác. - Nó cưới một ông cố vấn pháp luật. Nó làm ăn rất khá.
- Còn Ray, phải không nhỉ? - Bà Gage hỏi.
Vì cũng phải hỏi chứ.
- Thằng Ray, - bà Parker thở dài, nhẹ nhàng vuốt cái tạp dề theo những nếp từ trên xuống. - Thằng Ray cũng đã trưởng thành. Nó chuyên bán ô tô, nghe nói thế. Nó cũng sắp lấy vợ rồi, con bé nết na lắm.
- Ai vậy?
- Elsie Tarbutt, - Bà Parker nói. - Quê ở Sydney.
- Ồ, thế à? - Bà Gage nói.
Thật kỳ lạ hơn nữa là người khác cũng sống cuộc đời của họ. Cuộc đời của bản thân bà Gage chiếm vị trí nổi bật. Bà không thể tin nhiều vào cái khác. Lúc này bà bắt đầu ấn và lôi những núm bạc trên cửa chiếc xe con của mình. Bà nói:
- Nếu tiện đường xuống Drummoyne, bà phải ghé lại chỗ tôi đấy, tôi sẽ rất mừng được gặp bất cứ ai để nhắc lại thời xa xưa.
Vì bà biết khá chắc là bà Parker sẽ chẳng bao giờ ghé thăm, lời nói đó chỉ làm tăng thêm tính hào phóng đơn thuần của bà. Còn đối với bà Parker, người dứt khoát sẽ không bao giờ ghé thăm, nghĩ mà thấy buồn cười, bà cũng đã quá thỏa mãn. Bà đứng thì thầm một cách hài lòng giữa những tảng đá.
Vừa lúc đó một luồng ánh sáng lạnh lẽo của buổi chiều hôm chiếu sáng bầu trời và gương mặt bà Gage đã tươi tỉnh lại sau khi chuyện trò.
Bà ta nói:
- Được chuyện trò thật dễ chịu. - Bà mạnh dạn nói tiếp. - Rốt cuộc tôi cũng hạnh phúc.
Rồi bà ấn một cái gì đó và trườn vào chiếc ô tô hào nhoáng của bà.
Amy trầm ngâm trở lại hàng hiên. Suốt buổi chiều bà đứng đợi các nhân chứng khác của quá khứ, nhưng chỉ thấy những người trai trẻ chưa hề từng trải và những người xa lạ lạnh lùng hoặc tử tế. Vì bà biết nhiều hơn những người này, nên bà như thấy hơi thở khó nhọc, hay mũi thở phì phì, cố trấn tĩnh và đứng thẳng, không lắng nghe, do đó nom bà rất dữ tợn. Một vài người nói rằng bà Parker là một mụ già khó tính.
Đúng thế mà cũng không đúng. Bà từng chờ đợi một điều gì đó xảy ra, một hành động có tính chất khai sáng, và vì điều ấy đã không xảy ra hay đã qua đi mà không ai nhận ra, nên bà trở nên cau có. Những lúc đó bà thường gãi chân hết sức bực tức. Bà nghển cổ nhìn một cảnh tượng dễ chịu xa xa, mà thị lực bà dĩ nhiên không cho phép. Do vậy lắm lúc nom bà như người dở hơi và xấu xí. Hoặc đôi lúc bà thấy khuây khỏa với quá khứ. Bà trở nên thanh thản và thậm chí khôn ngoan với những tấm ảnh chụp nhanh mà bà có thể đưa ra tùy thích từ ống tay áo. Dĩ vãng là một điều kỳ diệu của các tiểu môn thần.
Khi Thelma Forsdyke về chơi, dạo này cô hay về hơn mong đợi, cô kinh ngạc thấy mẹ ngồi đấy, lại có vẻ hoạt bát nữa.
- Mẹ ơi, mẹ có khỏe không? - Cô thường hỏi.
Bản thân vốn thụ động, cô không chịu được tính thụ động ở những người khác. Từ ngày phát hiện sự tồn tại của văn học, cô thường ngụy trang tính lười nhác của mình bằng một cuốn sách. Tuy nhiên cô cũng đọc, đọc khá nhiều. Cô rất mê môn đạo đức và đang nghiên cứu nhân chủng học. Nhưng cứ ngồi trơ trơ như thế cũng dễ khiến người ta nghi ngờ hoặc là một dấu hiệu của bệnh tật. Đôi khi cô hoảng hốt lo mẹ mình có thể bị ung thư vào tuổi già và cần chăm nom gần gũi. Dĩ nhiên con gái bà sẽ trả được hết các khoản ấy, vì cô giàu. Nhưng làm sao mà chịu nổi bao thứ mùi bệnh tật kinh người trong một căn phòng con con được. Vì thế Thelma cố tìm trên khuôn mặt mẹ những dấu hiệu của bệnh tật.
- Mẹ không ốm, - Amy Parker nói. - Mẹ vừa ngồi một tý vì mẹ thích thế.
Bà mỉm cười ngờ vực nhìn con gái, nhìn thứ vải áo cô và chuỗi hạt trai. Hai mẹ con áp má vào nhau. Bà cảm thấy khá dễ chịu. Bà chẳng còn khát vọng chiếm lấy con gái mình, bởi vì bà đã thất bại rồi. Nhưng bà đã tham dự vào câu chuyện của đời Thelma Forsdyke, bà đã gián tiếp tạo ra nó, vì thế đôi khi bà đòi quyền chỉ trích hoặc góp ý về một số vấn đề thuần túy tự nhiên.
- Con nên có con, Thel ạ. - Một lần bà đã nói như vậy.
Và người đàn bà, con gái của bà, quay mặt đi chỗ khác nói:
- Con chưa sẵn sàng, vấn đề không chỉ là có con. - Cô nhún vai, bực tức.
- Mẹ có biết đâu. - Bà mẹ nói, trễ môi.
Bà nhìn đôi bàn tay con gái. Bà mẹ đương nhiên là hơn hẳn con gái. Bà ngờ vực đôi bàn tay đang đặt trên lòng, bắt chéo nhau như quạt giấy kia. Nhưng bà không nói gì thêm về chuyện đó nữa.
Thỉnh thoảng bà hỏi thăm ông con rể.
- Forsdyke thế nào? - Bà thường hỏi.
Forsdyke đang chuẩn bị đi câu cá thư giãn với các doanh nhân khác, hoặc đang bị viêm xoang, một lần anh bị loét hành tá tràng. Hầu như lần nào anh cũng gửi lời thăm hỏi mẹ vợ, bởi vì anh vốn là người lịch thiệp. Đam mê không biến anh thành một con người thô lỗ.
- Con vô cùng biết ơn Dudley, - Thelma thường nói vậy, mắt cô ươn ướt.
Cô ngạc nhiên về sự khiêm nhường của mình, nhưng cảm thấy dễ chịu. Cô đã giành được quá nhiều, về mặt vật chất, nên chẳng còn chỗ nào nữa để kiếm thêm, do đó cô quay lại quan tâm đến việc nâng cao đời sống tinh thần. Cô sẵn sàng xả thân cho một người nào đó, đặc biệt là chồng cô, người không tạo cho cô một cơ hội, ngoại trừ trong cái cung cách anh hắng giọng, và lúc nào cũng lo bị gió lùa. Không chắc cô sẽ có con, vì những lý do tế nhị, điều này đôi lúc làm cô buồn phiền vào những buổi chiều hôm hay đêm tối, khi cô một mình ngồi lại với đôi bàn tay, cho đến lúc nhận thấy mình sẽ chẳng biết làm gì với những đứa trẻ đập phá lung tung đồ đạc trong nhà, hoặc với những đứa lớn hơn khám phá ra ham muốn tình dục. Dĩ nhiên cô còn phải lo sức khỏe, cô bị hen, nhiều người vẫn nhớ hỏi thăm, nhất là những người mang ơn cô.
Thỉnh thoảng ông mục sư đến thăm. Thelma Forsdyke quyên cho nhà thờ nhưng không ủng hộ cha xứ, vì ông này không phù hợp với ý đồ xã hội của cô. Cô trở nên rộng rãi, cố tình. Cô biếu đồ quý hiếm, hoặc tiền vượt quá mức yêu cầu, mỗi lần làm như thế mắt cô đỏ hoe. Do cô e ngại, hoặc không thể xả thân, sự ham thích hào phóng đã trở thành một nhu cầu. Đó là thói tật bí mật của cô, là rượu gin giấu trong tủ quần áo, là mũi kim tiêm dưới da. Cho đến nay chưa ai phát hiện. Trừ mẹ cô.
Cô thích nhất là mang quà về cho bố mẹ, những món quà đắt tiền, khiến người ta phải trầm ngâm, phải day dứt. Ngồi trong chiếc ô tô riêng mà cô đã tập lái, cô nhíu mày vút qua những biệt thự và những lò mổ, đi về vùng nông thôn dành cho cô nhiều điều kinh ngạc nhưng trong đó cô không dự phần. Xuôi theo con đường ấy, con đường toàn dây kẽm gai lỏng lẻo, cây cối đầy bụi, không giống với những con đường khác chỉ vì bố mẹ cô ở đấy, cô lái xe từ từ thận trọng, nhớ lại một lão già có lần đã khoe thân trong bụi rậm. Cô e ngại rằng sống mãi trong khuê phòng cũng chẳng ngăn chặn được những biến cố cần phải ngăn chặn.
Cô đã đến nơi. Những cuộc thăm viếng này thật phi lý, cô gượng gạo nhận ra, tuy rất cảm động, khi phủi bụi bám vào áo. Không gian vang tiếng chim ác là.
Có một lần cô mang đến cho mẹ một quả dứa, một con cá tươi, và một bộ khăn bàn thêu cảnh săn bắn mà cô đã mua ở một gian hàng từ thiện. Cô mở ra cho mẹ xem, trải dài tấm khăn, bởi vì đây là một phần của trò chơi, được lao vào cơn khoái lạc của tình thân ái. Cô quá tốt bụng.
- Mẹ xem này, - cô vừa nói vừa đặt con cá vảy bạc lên đôi tay trần. - Đẹp thật mẹ nhỉ?
Con cá quả là đẹp. Nó óng ánh. Sự tồn tại của nó không thể kết thúc bằng cái chết.
Mắt bà mẹ dạo chơi giữa đám quà, bà thốt lên:
- Ôi, mẹ biết làm gì với những thứ này, Thelma?
- Mấy chiếc khăn bàn ư? Đẹp đấy chứ, mẹ? Rồi sẽ có dịp dùng đến, mẹ ạ. Cứ cất đấy rồi xem.
- Con thật chu đáo với mẹ, Thelma. - Bà mẹ nói, đưa mắt nhìn con gái, nhìn thẳng vào cô.
Và cô con gái, nay đã trở thành một thiếu phụ mảnh khảnh và phong nhã, cầm con cá lên đi ra ngoài, đặt nó ở một nơi mát, trong ngôi nhà mà cô biết tận chân tơ kẽ tóc nhưng không còn thuộc về nó nữa. Cô quả quyết mẹ mình đã có chiều vị kỷ khi coi mọi chuyện là nghiễm nhiên. Dù đúng như thế hay không, bà lão vẫn tiếp tục nhìn một cách mỉa mai, không nhìn mấy chiếc khăn, mà nhìn con gái, lúc đó đã vào nhà trong. Bà vẫn nhìn đứa con gái bé nhỏ ép sát miệng vào tấm gương soi cho đến khi cái miệng trong gương sát cái miệng ở ngoài.
Tuy vậy, khi bà Forsdyke trở lại, vừa đi vừa kiểm tra hai bàn tay sạch trên chiếc mùi soa trong suốt, bà lão cảm thấy lòng tràn ngập một niềm biết ơn hiền dịu. Bà nói:
- Con cá đẹp lắm, Thelly ạ. Mẹ sẽ mang bỏ lò. Bố thích ăn như thế lắm.
Hai người, mẹ và con gái, vừa chơi một trò chơi thân ái. Bà Forsdyke rất khoái cái cảnh đó và bỏ qua việc mình được gọi là “Thelly”, điều làm cô nhớ đến những hòn đá cuội giấu trong cặp đeo sau lưng mỗi giờ tan trường.
Đôi khi Thelma Forsdyke đi quanh phòng khách và đóng chặt các cửa sổ khi nhớ lại nguồn gốc lai lịch bần cùng của mình. Đó là một cái gì không thể trốn thoát được. Nó lẽo đẽo theo suốt đời. Vì thế khuôn mặt của cô không thuyết phục được cô, ngay cả những lúc nó xinh tươi nhất. Mỗi lần bàn luận về âm nhạc, giọng cô đều ngập ngừng. Sự tiến hóa của một tâm hồn giả tạo luôn mang vẻ kinh tởm. Cô nhớ lại gia đình Bourke, nhớ lại nhung Genoa mịn màng, và hương vị kẹo lạc khi cô ngồi đánh móng tay.
Một lần người hầu bước vào, một bà đứng tuổi, cung cách nhẹ nhàng, đã từng được ai đó dạy dỗ chỉ bảo.
- Thưa bà, có một ông xin gặp bà. Ông ấy bảo là có việc riêng gấp. Ông ấy không chịu nói tên. - Bà người hầu đội mũ trùm kín nói.
An tâm làm sao, đáng kính làm sao, thậm chí cả những người hầu đứng tuổi cũng thế.
Ông khách đó là Ray Parker, anh trai của bà Forsdyke.
- Anh đoán thế nào em cũng ngạc nhiên, Thel ạ. - Ray cười vang, vừa bước vào phòng khách vừa tung cái mũ hắn mang theo, một cái mũ mới, màu nâu, nom rất gớm. - Anh thích làm người ta ngạc nhiên. - Hắn lại cười phá lên. - Làm thế người ta mới ra khỏi đường mòn. Nhưng em đang ở trong đường mòn còn khá tốt. - Hắn vừa nói vừa đảo mắt nhìn quanh.
- Chúng em chọn ngôi nhà này để ngắm cảnh chung quanh. - Cô vừa nói vừa bước tới phía trước để đón khách. - Ba mặt đều có nước. Anh có thể nom thấy cảng ngay, và phía này, nhìn ra Hội đua thuyền.
Rồi cô nhìn ông anh, cố đoán xem anh cần cái gì. Khuôn mặt của cô trơ xương. Sau này, người cô sẽ dài ngoẵng như sợi dây. Cô cũng cứng rắn lắm, mặc cho sức khỏe hom hem, cái chứng hen khò khè ở cô có thể làm người ta sợ hãi. Cô phải cứng rắn để có được gần như mọi điều cô muốn. Điều cô muốn, ấy là tột đỉnh của khát vọng, đã lẩn tránh cô, do đó cô chỉ biết đoán mò, vẻ khó chịu bên ngoài, khi cô hỏi:
- Anh cần cái gì, anh Ray?
Người đàn ông vừa ngồi phịch lên chiếc đệm bọc gấm bạc màu của cô, dạo này hắn béo ra, muốn trêu Thelma một tí. Hắn phồng má lên, đôi má mang màu da thị thành, làm hiện ra hai lúm đồng tiền. Một số người cho là chúng rất hay. Hắn nói:
- Anh đến đây để ngắm em một chút, Thelma ạ. Chúng ta là họ hàng thân thích. Nhưng người nào chỉ biết em hoặc chỉ biết anh thì không biết chúng ta là anh em.
Cô cười vang.
- Thế những con người giả định đó mà biết là chúng ta là anh em thì có lợi gì nào?
- Nếu đó là chuyện có lợi, - hắn nói, vừa nhún bộ vét bắt mắt, hy vọng cô sẽ mời uống thứ gì đó.
Hắn là một con người ham xác thịt, cô thấy vậy, mà cái thú nhục dục làm cô lo lắng, tuy hắn không nhận thấy. Chắc là hắn cũng ngu đần trong nhiều chuyện, nếu không phải trong mọi chuyện. Điều mà cô ngại nhất là hắn, như cô hơi nghi, là một người anh trai trung thực, vì cô biết hắn là một người bất lương.
- Dẫu sao, - cô nói, thoáng mỉm cười và ngồi xuống, - anh cũng có ở đây.
- Còn hơn thế nữa kia, - hắn nói ồm ồm, vẻ cợt nhả. - Thế anh chàng luật sư mà anh chưa hề gặp bao giờ thì về?
- Còn tùy, - cô nói. - Các chuyên gia làm việc không theo đồng hồ.
- Anh có thể chờ được. - Ray Parker nói.
Nếu cái phòng tăm tối này không giết hắn. Mọi người làm gì trong những căn phòng yên tĩnh thiếu vắng những con ruồi vo ve?
- Bởi vì anh muốn gặp anh ta.
- Em thấy hai người chẳng có điểm nào chung cả, - Thelma Forsdyke cười vang, không cân nhắc các khả năng.
- Em chẳng hiểu đâu, - Ray Parker nói. - Anh quen nhiều gã trên xe lửa và trên thùng các xe tải. Chắc em ngạc nhiên lắm.
- Dudley, - Thelma nói, - chắc là chẳng bao giờ lao vào những chuyến đi nguy hiểm như thế.
- Anh ta có ẻo lả không?
Thelma không trả lời.
- Chỉ cần ngồi trong phòng này anh cũng tìm hiểu em được.
Cô không trả lời.
- Em gầy lắm. Gầy quá thể.
Mồ hôi bắt đầu toát ra ở hai bên thái dương cô, dưới mái tóc vừa mới làm ngày hôm kia. Hắn tiếp tục:
- Anh không thể chịu được sự gầy gò. Lẽ ra anh phải làm được một cái gì to tát, nhưng chẳng bao giờ tìm ra được cách làm, anh đành hài lòng với việc thiến một con ngựa hay phá một cái tủ két. Ồ, em không phải lo, Thelma ạ. Bây giờ thì anh lương thiện rồi. Tức là, anh đang buôn bán làm ăn. Anh buôn ô tô. Anh đã tiếp rượu một số người sang trọng nhất đấy. Nhưng mọi thứ đều tốn kém. Và anh đã cạn túi rồi. Hôm nay sở dĩ anh đến đây, mong em hiểu cho, là để phiền em hai chục đồng. Thứ Ba tới anh sẽ cưới một cô tên là Elsie Tarbutt.
- Cô ta có ý thức được điều mình đang làm không? - Bà Forsdyke hỏi, đi đến chỗ cái tủ con mà cô đã trả rất nhiều tiền để mua với cảm nghĩ thứ đồ đáng yêu đó đúng là đồ cổ chính cống.
- Có, - Ray Parker nói. - Cô ta sẽ cải tạo anh đấy. Cô ta là người theo hội Giám lý.
- À. - Người em gái nói.
Cô viết một ngân phiếu, ký một chữ duyên dáng mà nay cô không cần phải tập nữa.
- Em phân vân không biết có nên gặp cô ta không. - Cô mỉm cười nói, khi đưa tiền để tống khứ ông anh đi.
Cô lại nghĩ thầm: “Ray khó mà làm nên đại sự. Quả là món tiền ít ỏi.”
- Gặp Elsie ư? - Hắn nói, đưa mắt nhìn con số cô vừa viết. - Đừng. Không hay đâu. Trong gia đình có một tên vô lại là đủ rồi.
Thế là họ đứng đấy căm ghét nhau, mà không hiểu được vì sao.
Rồi trong gian phòng im lặng mà hai người trao đổi tâm tư, họ bỗng cảm thấy xúc động vì nhau. Có những lúc người đàn ông đần độn và ghê tởm này bỗng dưng run lên, người đàn bà nhận thấy vậy. Liệu anh có bình tâm lại nếu ta hôn anh ấy, mặc cho mùi rượu và thuốc lá nồng nặc hay hàm răng cải mả, hôn anh ấy thắm thiết, như ta vẫn ngại không dám hôn một người nào, hay anh lại cộng cái bí mật này vào những điều mà anh đã khắc cốt ghi tâm? Vì thế người đàn bà tiếp tục xoắn vặn những chiếc nhẫn của mình. Và người đàn ông thương hại cô, nhớ lại mình đã run bắn như thế nào trên một chiếc tàu hỏa chở hàng xình xịch chạy về phương Bắc trong đêm tối, biết rõ ở đây chẳng có gì cả.
- Anh đi đây, - Ray Parker nói, nhặt chiếc mũ diêm dúa lên. - Thế này tạm ổn.
- Tạm biệt, Ray. - Cô nói.
Cô để mặc cho hắn tự tìm lấy lối ra, sau khi đã suy nghĩ kỹ, nhất quyết rằng việc đó đơn giản thôi và chả có gì hắn có thể thó được.
Hắn vừa đi khỏi, cô vội ngồi xuống ghế.
Cơ thể cô lặng yên, nhưng bên trong cô đang lao về phía mình, như thể cô là một cái tủ, để lôi các đức tính ra khỏi ngăn kéo, và tìm một cái gì tốt đẹp. Nhiều người hàm ơn cô, những người tốt, thấp kém đã nói rằng cô là người tốt, vậy thì cô phải là người tốt. Con mắt người đời nhìn rõ hơn mắt của bản thân, hay mắt của anh trai mình. Chẳng qua đó là điều bỗng dưng nhảy vào đầu anh ấy, cô tự nhủ, và chỉ nói để tỏ ra thông minh. Nhưng một mùi vị kim loại đã tràn vào mồm cô. Cô chỉ muốn nhổ cái lưỡi ra, cái lưỡi bằng kim loại mỏng và đắng. Thế rồi cô bị đau đầu. Cô cảm thấy mình hâm hấp sốt. Cô uống một viên aspirin. Cô lấy một vài cuốn sách.
- Thưa bà, tôi mang trà lên, - người hầu đứng tuổi nói. Bà ta đặt khay trà lên chiếc bàn con.
Những thói quen Thelma Forsdyke đã chọn lựa hết sức cẩn thận không có tác dụng bao nhiêu. Có một tội ác nào đó mình đã quên, cô cảm thấy như vậy, trong khi cô tìm kiếm giữa những dòng chữ, vì cô thường liếc mắt vào sách khi dùng trà, tay phủi khỏi trang sách những mẩu bánh và bơ rất bé. Hoảng lên - cô tự nhủ - bởi một tên ngu dốt và thô lậu, thật vô lý. Cô đọc vài ba chữ. Song cô hoàn toàn thất bại. Vậy bên trong cô có gì? Cô tự hỏi. Mấy ngón tay thon dài của cô run lên. Những đợt sóng hoài nghi rúng động tâm hồn cô khi cô đọc một cuốn thơ mua bừa trong một cửa hiệu, cô hài lòng về sự lĩnh hội của mình:
“Kìa, như một trận gió qua rừng cuồng loạn,
Thổi ào ào cơn bão của đời;…”
Đó là một bài thơ lạnh giá. Những lời thơ như thổi mạnh qua chiếc áo mềm mại của cô, quét lên tâm trí cô, để lại một cảm giác tê dại, nhưng cũng là một sự sáng tỏ kỳ lạ. Cô đọc với sự mê hoặc ảm đạm.
“Cây người đó chẳng hề yên tĩnh
Xưa là người La Mã, nay tôi”.
Có lẽ, cô cảm thấy, phải trí thức, chứ không phải aspirin hay ephedrine[5] mới mang lại sự khuây khỏa. Vì thế cô đọc tiếp qua kẽ răng:
“Cơn bão lốc thổi cây non gập lại
Thôi điên cuồng, nhưng sẽ chóng nguôi tan:
Người La Mã với nỗi đau quằn quại
Dưới Uricon còn lại nắm tro tàn[6].”
[5] Thuốc điều trị hạ huyết áp, viêm mũi, viêm xoang.
[6] Trích bài thơ On Wenlock Edge của A.E. Housman, nhà thơ người Anh nổi tiếng thời Edward.
Đọc xong bài thơ cô vẫn ngồi lại. Chẳng có gì để cô có thể gọi điện và yêu cầu. Chưa cảm thức được hết bài thơ, cô cay đắng oán trách cha mẹ đã đặt cô vào cái tình cảnh hiện nay. Cô cũng oán trách Chúa đang lừa dối cô.
Cuối cùng chồng cô bước vào với tờ báo buổi chiều. Ông nói:
- Tối nay nom em xanh xao quá, Thelma ạ.
Tay sửa lại vị trí của một bản tranh khắc treo trên tường, ông hỏi:
- Em thấy khó ở phải không?
Tay sờ vào bản tranh khắc. Vợ chồng Forsdyke mua nó bởi vì họ chẳng dám chọn một bức họa.
- Gió mùa đông bắc đấy thôi.
Đúng là có một đợt gió khó chịu. Những lớp sóng nhỏ xám xịt tô điểm cho làn nước trong vịnh. Cát cào vào các khung cửa sổ.
- Ray vừa ở đây, - cô nói. - Ray, anh trai em ấy mà.
- Anh ta cần gì? - Viên luật sư hỏi, ưỡn cái bụng lên, vẻ bực tức.
- Chẳng có gì cả. - Cô nói.
Bây giờ mà luyện tập trò lương thiện thì quá muộn rồi, cô quyết định, biết làm sao đây.
- Chúng em trao đổi vài chuyện, - cô nói. - Anh ấy sắp lấy vợ.
- Thế hai người bàn những gì? - Dudley Forsdyke hỏi. Anh ta quên bẵng tờ báo buổi chiều.
- À, chuyện gia đình ấy mà. - Cô nói.
- Thế tại sao em lại bối rối vậy, em thân yêu?
- Ray bao giờ cũng nhiễu sự. Anh ấy tác động tới em. Anh ấy xung khắc với em. Kiểu như thế. - Thelma Forsdyke nói.
Viên luật sư đặt tờ báo vẫn còn nóng trên tay xuống. Anh đi đi lại lại, vừa xoa tay. Anh rất mong muốn gặp người anh vợ của mình. Bất cứ ai chưa từng xâm phạm hay bị xâm phạm, cũng giống nhau, đều có lúc tò mò. Dudley Forsdyke là một người khô khan, nhưng chân chính. Vì thế ông run sợ cho những mảnh sự thật, để xé chỉ một lần thôi, hay bị xé.
- Anh tiếc là không được gặp anh ấy.
Ray Parker chắc chắn phải nổi một đường gân trên trán.
- Anh ấy thực là một con người thô bạo. - Thelma nói.
- Dẫu sao, anh ấy cũng là anh rể.
Hai anh em, em rể và anh vợ, sẽ trao đổi những kinh nghiệm thân mật gì với nhau khi đi xuống bậc thềm đá? Viên luật sư đã đoán được qua một vài nhận xét của vợ rằng Ray Parker là một người béo tốt.
Anh cảm thấy như có một bàn tay đặt vào hông.
- Dẫu sao, em cũng mừng là anh không gặp anh ấy. - Người vợ nói.
Cô cảm thấy mệt lả.
- Em đi nằm đây. - Cô nói. - Em không bận tâm về bữa tối đâu.
Anh hôn cô, như họ vẫn làm vào những khoảng thời gian trống, và đi vào phòng ăn món cá. Trong sự im lặng của người hầu đứng tuổi, tên là Dorothy, anh không còn bị sự tự hủy hoại ám ảnh nữa. Sự thận trọng trở lại, còn cao hơn sự thận trọng của người đàn bà cứng nhắc đang cúi xuống và thở trên người anh, cho đến khi hai tính thận trọng sinh đôi gặp nhau, quyện vào nhau trong sự thán phục lẫn nhau. Bằng cách đó viên luật sư được đưa trở lại bề mặt mà anh vẫn quen nổi trên đó.
Sau đó ít lâu, bà Forsdyke thấy cần thiết phải đi thăm mẹ một lần nữa. Tuy có những lúc cô oán trách mẹ vì đã sinh ra mình, song cô vẫn khát khao được trở về lòng mẹ. Thế là cô lái xe về nhà, và hai mẹ con lại trò chuyện với nhau trên hiên nhà, nơi gặp gỡ quen thuộc của hai người.
- Mẹ rất tiếc là con đã không đến dự đám cưới. - Bà mẹ nói, bắt đầu thích chuyện trò, thắt chặt thêm quan hệ, trong đó ngay cả những vết rạn cũng trở thành thú vị.
- Con không được mời, - cô con gái nói, băn khoăn không rõ mình có hơi bị xúc phạm không.
- Mẹ vẫn nghĩ rằng mọi bất đồng đều được bỏ qua để chuẩn bị cho đám cưới. - Bà lão nói. - Song mọi người vẫn giữ ý kiến của mình. Ray đã làm lại cuộc đời.
Người mẹ đã quyết định điều này. Bà vốn không hiểu rõ bản thân mình nên cũng chẳng nghi ngờ gì. Hoặc giả bà cụp mí mắt xuống mỗi khi nghi ngờ, cụp xuống trên chính cuộc đời mình, do đó vẻ mặt bà nom thật thà. Khi đăm đăm nhìn ra bên ngoài, bà quyết tâm nhìn tất cả những gì mang đến cho bà niềm hy vọng. Bà nói:
- Đám cưới vui lắm. Ông Tarbutt là một người bán tạp phẩm ở Leichardt. Có nhiều tặng phẩm đẹp. Có người tặng cả một hộp dao dĩa bằng bạc. Dĩ nhiên Ray phấn khởi ra mặt. Mọi người rất thích Ray. Nó còn hát nữa. Con có biết là Ray biết hát không? Hình như bây giờ nó khấm khá lắm.
Thelma Forsdyke lúc đó đã ngồi xuống rìa hành lang, giờ cô tự tin làm những cử chỉ kém trang nhã; nét mặt cô lộ rõ vẻ hoài nghi mà ánh nắng chiều đông thường mang lại. Ánh nắng, cô phát hiện ra với lòng biết ơn, là một kho báu không hề bị thời gian làm giảm giá trị.
Mẹ cô nói tiếp:
- Có cả một khúc giăm bông to tướng, thái thành lát mỏng để mọi người tự đến lấy ăn.
- Thế còn Elsie? - Thelma hỏi.
- Elsie không xinh đẹp, - bà Parker nói. - Nhưng con bé đúng là người Ray muốn. Nó sẽ là một bà vợ cừ.
- Chị ấy là người theo Hội Giám lý. - Thelma nói.
- Con cũng biết à?
- Và mẹ không thích chị ấy.
- Điều đó thì con không hiểu rồi, bởi vì nó không đúng. - Amy Parker nói, xoay người trong chiếc ghế khiến nó kêu cót két. Bà xem xét chiếc gậy như để lần đầu mối. - Hoặc giả điều đó là đúng thì chẳng mấy chốc mẹ sẽ làm cho nó không còn như thế nữa. Elsie quả là một cô gái tuyệt vời.
Những người khác cuối cùng đã thắng thế. Amy Parker đã dự các đám cưới, đám cưới con trai bà, và đám cưới của những thanh niên khác. Bà dõi nhìn những người đang khiêu vũ. Bà ăn bánh kem màu hồng, nghe nó lạo xạo trong mồm. Một vài chiếc có cát. Bà đi dự đám cưới nhưng không thích lắm, mặc dù những đám cưới đó rất vui và đẹp. Mấy dịp ấy, những động tác khiêu vũ và những cuộc đàm thoại diễn ra phức tạp, đã tách quá xa khỏi bức tranh khảm yên tĩnh hiện tại của bà. Chính bà đã ghép bức tranh khảm đó. Bà không tin vào cái mình không tạo nên, như bánh ngọt hay tập quán.
Bởi vậy bà dõi theo Elsie. Dưới cánh hoa cam, ở hai bên thái dương, những lỗ chân lông nom khá to trên là da dày thô màu kem. Elsie có khuôn mặt bèn bẹt nhưng hiền lành. Cô đang chờ đợi điều gì đó khi cô tiến gần lại để nói chuyện. Cô cười vang khi nghe bông đùa, vì nó là như vậy. Rồi nín thinh, bởi nó đã chấm dứt. Cô có một khuôn mặt kín đáo chờ đợi được mở ra. Suốt thời gian đó, làn da sữa màu kem của cô khao khát được âu yếm nâng niu.
Amy Parker nhận ra rằng Elsie thật bơ vơ. Bà nhìn thẳng vào đôi kính của Elsie, xuyên qua những mắt kính dày cộm mà cô buộc phải đeo, và thấy cô gái chẳng có gì để che giấu. Điều này khiến cho bà già bối rối. Bà không thể tin được.
Thelma Forsdyke ngồi ở thềm hiên. Cô mang đôi bốt bằng da cá sấu, do hiệu Tennyson thửa riêng cho cô. Cô che mặt cho khỏi chói nắng, Elsie và toàn bộ buổi lễ của đám người bình thường kia cũng ám ảnh cô. Cô cũng có thể tự xoay tròn, với những động tác nhanh thoăn thoắt, tự bảo vệ mình trước chàng rể kia! Đám đồ bạc kia chắc là mạ, cô ngẫm nghĩ, với những tay cầm chạm nổi, kiểu gì cũng chóng mờ.
Nhưng tại sao anh ấy lại cưới Elsie? Thelma thắc mắc.
Ray Parker cưới Elsie Tarbutt như thế đó. Một tối hắn đi qua công viên ở ngoại ô nơi Elsie sống. Đó là một đêm trắng, trừ những thân cây đen bóng cũng vững chãi và đầy chất nhựa. Một con ngựa già ăn cỏ ở khoảnh đất hình trái xoan đang gặm nhấm cái yên tĩnh, vẻ ngây thơ nặng nề và mệt mỏi của nó theo đuổi, trêu chọc người đàn ông đang đi bộ. Hắn nhìn thấy những sợi lông buông xuống từ nách cành cây, những chiếc bẫy chim dài và bất động. Hắn bắt đầu không thể chịu nổi. Hắn xoay xoay số tiền trong túi. Bằng giờ này ngày mai ta sẽ tự do, hắn nói một cách ngớ ngẩn. Hắn đi qua công viên rộng lớn, dọc theo đường rải nhựa, tiếng bước chân dài, bèn bẹt nện vào tai hắn.
Rồi có tiếng bước chân khác. Hắn nghe thấy. Tiếng bước chân của hắn pha lẫn tiếng bước chân ấy. Sau đó là một cuộc đấu tranh dữ dội để tìm ra hay để mất, trong khu công viên trống trải màu trắng.
Khi hắn tiến lại gần, điều mà hắn đang cố sức làm, người đàn bà hay cô gái ngoảnh mặt đi chỗ khác để tránh nhìn một cái gì khiến nàng khiếp sợ. Nàng đội một cái mũ to, màu đen, mà lúc này nàng đang kéo sụp xuống mặc dù không có gió, bóng dáng nàng cồng kềnh và đen sẫm, tuy có lẽ không đen. Sự trong sáng bình lặng của ánh trăng đã tẩy trắng mọi màu sắc bằng sức mạnh của nó.
- Tôi muốn đi cùng cô, - Ray Parker nói, sánh vai người con gái.
Nàng nín thở. Nàng run lên vì kinh hãi.
- Để chuyện trò với cô. - Hắn nói.
Tại sao chẳng bao giờ có thể nói điều ấy?
- Đi đi, - cô gái nói. - Rời ngay.
Tất tả cất bước.
Hắn rơi lại đằng sau. Hai bắp chân nàng nom chắc nịch trong đôi tất dài sẫm lại dưới ánh trăng. Hắn nhìn thấy khuôn mặt của nàng, một lần thôi, với những nét hư ảo dưới mặt trăng.
Cô gái vội vã bước đi, và khi họ đi đến cuối công viên, hắn cảm thấy mình sẽ không bao giờ có thể đổ tội của hắn cho bất cứ ai. Khi điều này trở nên cấp bách. Phải nói cho cô gái này nghe.
Lúc đó cô gái lẻn vào một ngôi nhà vuông ở rìa công viên, đằng sau vài cây ngô đồng, cạnh một cửa hiệu. Nàng đi đến đó và ngoái lại nhìn. Gương mặt bèn bẹt trắng bệch của nàng những muốn lắng nghe. Nhưng cánh cửa đã nuốt chửng nó.
Ray Parker trở lại nơi ấy, quẩn quanh ngôi nhà và cửa hiệu tạp hóa. Một lần, từ một ngõ hẻm ở sau nhà, hắn dõi nhìn cô gái đang rửa bát đĩa. Nàng là một cô gái giản dị, nhưng nàng đã trở nên cần thiết đối với hắn. Khi nàng lau khô tay, hắn thấy rõ chẳng còn có lý do gì mà nàng cứ nán bên cửa sổ, hắn băn khoăn không biết mình sẽ tiếp tục làm gì.
Rồi dần dà do quen thuộc, và vì bản thân người ta cũng không tin vào tội lỗi đủ để từ chối hắn, hắn được cho vào nhà. Thế là tối tối, hắn ngồi tiếp ông bố bán tạp hóa, vốn thích nói chuyện. Khi hắn cầu hôn cô con gái, thậm chí thú nhận với nàng về mấy tội vặt của mình, nàng cân nhắc vấn đề này rất nghiêm túc, nàng cầu kinh trong phòng về chuyện đó, giữa những sách báo về tôn giáo và những vật kỉ niệm của thời học trung học. Tầm quan trọng của vấn đề đè nặng lên khuôn mặt tha thiết của nàng, nhưng nàng quyết định nhận lời, cho dù nàng bị giày vò biết mấy. Elsie Tarbutt là loại con gái như thế. Nàng mong muốn làm một điều gì đó quá sức mình, và chắc hẳn việc này là điều ấy. Trở thành một nhà truyền giáo có lẽ ít bẽ mặt hơn, vì thế nàng chọn Ray Parker.
- Em sẽ kết hôn với anh, Ray ạ, - nàng nói, ngẩng khuôn mặt mơ màng như thể đang ngủ.
Hắn không hề mong đợi sự việc xảy ra như vậy và hầu như giật nẩy người, nhưng cuối cùng hắn đã hôn nàng.
Hai người sống trong nhà, hay dinh thự, như nhiều người vẫn gọi, của người chủ hiệu tạp hóa, bởi vì ông là một người có của nhưng không kiêu căng. Đôi vợ chồng trẻ, như người ta vẫn gọi không hề có ác ý, có phòng riêng của họ, nơi người chồng cố gắng để sống. Buổi tối người vợ khâu vá hoặc đọc sách. Nàng đọc cho hắn nghe những đoạn trong sách Phúc âm. Một ngày gần đây ta sẽ kể cho nàng tất cả về ta, hắn tự nhủ, rồi xin nàng tha thứ. Trong khi nàng đọc, hắn cố gắng đi lại nhẹ nhàng qua các tấm thảm màu nâu, hay ngồi rướn về phía trước trên ghế, đôi bàn tay đan vào nhau giữa hai đầu gối dạng ra, gân nổi trên vầng trán.
Hắn lắng nghe, những sự thực về niềm tin là những thắt nút không thể gỡ được. Bản thân hắn cũng bị thắt nút chặt.
Nhưng Elsie Parker rất hạnh phúc, nàng tin như vậy. Ngay cả ở cái tuổi này, nàng cũng vẫn vững tin rằng buồn đau là một niềm hạnh phúc ta phải gánh chịu. Vì thế thân hình mập mạp của nàng tỏ ra ngoan ngoãn, nếu không phải là quy phục, trái với bản chất của nó. Dĩ nhiên nàng mang thai rất nhanh, và sinh được một chú bé mảnh khảnh được đặt theo tên của bố nó.
Căn phòng nơi người bố và người mẹ sống bắt đầu đượm một mùi hương ngây thơ non trẻ, khiến người đàn ông không thể chịu đựng được hơn. Hắn có nghĩa gì đối với đứa bé này, ngoài gốc gác ra? Trò đùa khủng khiếp về trách nhiệm đè nặng lên người hắn. Những tối mùa hè, dưới lùm cây lốm đốm, người qua lại trên đường phố, cười vang qua cửa miệng lặng thinh. Hoặc ngẩng lên nhìn ra xa, như thể hắn không tồn tại, nhìn hắn bằng đôi mắt mù lòa. Có một lần hắn chạy xuống, băng qua các con phố, để gặp một anh chàng tên là Kennedy, trước đây từng làm ăn với hắn, và đi một chặng đường dài trên cỗ xe ngựa của Kennedy, để thực hiện một vụ giao dịch cũng của Kennedy, ở một ngôi nhà hẻo lánh. Ray Parker, người bạn đi cùng, ngồi đờ trong xe, trong mùi dạ nỉ nóng bức, đợi người kia quay lại. Hắn không thuộc về nơi đó. Hắn không thể thoát khỏi cuộc đời mình. Chẳng ai thèm đưa hắn vào cuộc đời họ.
Nhất là Elsie. Thế nhưng nàng cầu nguyện cho hắn, sau khi chải tóc.
Một lần, đứng thẳng trong chiếc váy ngủ có dây viền rất dài, nàng nói:
- Em muốn chúng ta cùng cầu nguyện, Ray ạ.
- Không. - Hắn nói.
Hắn trở lại với bản chất thô bỉ của mình.
- Anh chẳng chịu để em giúp đỡ anh gì cả. - Nàng nói, vừa cầm tay hắn.
Hắn thở phì. Hắn nổi giận vì thấy mình không thể tự giúp mình. Hắn nói:
- Các người thích nghĩ rằng bọn này đang đắm mình trong tội lỗi để đợi các người cứu vớt.
Nhưng nàng không muốn lòng tin của mình bị xúc phạm. Thế là nàng bỏ đi chỗ khác.
Một lần, sau khi đứa con ra đời, sau khi nàng trở lại làm việc, nàng thuyết phục hắn đi với nàng đến một cuộc họp. Cuộc họp này được tiến hành trong một hội trường, gần đây trông xập xệ đi, nhiều đồ đạc bằng gỗ bị rộp, xi măng giữa những hàng gạch bị lở. Khi họ vào bên trong, đôi vợ chồng trẻ ngồi xuống chiếc ghế dài màu nâu, hay đúng hơn là Ray đã ngồi xuống, vì Elsie đứng dậy ngay, để chia sẻ ánh hào quang của nàng với các sinh viên, với các cô gái và các bà đứng tuổi, những người đến đây làm nhân chứng. Nàng cảm thấy khuây khỏa - hắn nghĩ rằng hắn nhận ra điều đó - khi được nói thứ ngôn ngữ bí mật với những người học nó, hay đúng hơn, vừa đẻ ra đã thạo. Thế rồi anh chồng trở nên ủ rũ, nhìn mấy ngón chân, di mạnh hai bàn chân thành tiếng trên sàn gỗ ram ráp, như thể đang nghiền tắt cái đầu thuốc lá. Hắn ngồi thườn thượt trên chiếc ghế dài, giận dữ hỏi thầm: những kẻ này thì biết được cái gì, có thể có được lòng tin gì, một khi họ chưa hề sống? Hoặc các bà đứng tuổi. Hắn nhìn thấu họ qua những cổ áo sơ mi kín đáo, đến tận bộ ngực, những bộ ngực không hề gợi cảm. Hắn thở phì, chặc lưỡi, đụng vào một chiếc răng lẽ ra đã được hàn, chỉ vì hắn hoãn lại.
Trong suốt thời gian đó những người đến dự cuộc họp tiếp tục nói cười, cho đến khi những người thực thi sứ mệnh tập họp trên cái sân khấu nhỏ. Elsie, một người trong số đó, mỉm cười với chồng, nhưng nụ cười xa xôi quá, như thể nàng phải căng mắt nhìn những thứ ấy. Và họ đã hát về tội lỗi và nước thánh. Cũng có những người cầu kinh, nhưng ở chốn ấy họ vụng về. Thế là Ray bắt đầu trở nên hung hăng. Tính dâm đãng của hắn bốc lên. Hắn khám phá ra những hành động bạo lực kỳ lạ mà hắn đã phạm và đã quên. Toàn bộ ý niệm về việc cải tà quy chính, dường như từng là một điều ao ước, đã trở nên ghê tởm khi được đưa ra như một sự cứu rỗi.
Có lẽ Elsie đã bắt đầu cảm thấy điều này trước khi nàng đứng lên, khi đến lượt nàng hát. Nàng có một giọng nữ trầm chân chất, dễ nghe, nếu không phải là xuất sắc, làm xúc động một số người. Chồng nàng đứng đấy đánh một nhịp khác với mũi giày, khiến ống quần đung đưa. Mệt mỏi vì sự thờ ơ, hắn ghê tởm nhận thấy chiếc váy len dài màu xanh lục nàng mặc mỗi khi có dịp, và chiếc vòng tay bằng vàng thô nặng mà bà nàng, một phụ nữ người Anh, đã để lại. Hai cổ tay nàng căng lên khi hát. Jerusalem này là cái gì? Hắn tự hỏi, sao vững chãi thế, để mà làm gì. Song mọi người đều bị thuyết phục, mọi người trừ Ray, và bây giờ có lẽ cả Elsie. Hắn không thể thôi không bàng hoàng nhìn vợ.
Cuộc họp chấm dứt đúng lúc, sau bài phát biểu của một vị mục sư bên chiếc bàn con, mà trên đó một người đàn bà nào đó đã bày một chiếc cốc thủy tinh cắm hoa hồng nở xòe.
Ray đi ra ngoài để hút thuốc và để thư thả duỗi chân. Hắn nhả khói thuốc lên các vì sao. Hắn hút mấy điếu thuốc liền, cho đến khi ngửi thấy mùi nicotine trên đầu ngón tay. Trên ngón trỏ của hắn cũng có một vết chai, hắn cắn vào đó rồi phun ra miếng da cứng và đắng. Hắn không biết hắn đang ở đâu, chỉ biết là một cái sân sau nào đó. Đối diện với hắn, trong khung cửa sổ một ngôi nhà, một ông lão đang thận trọng bọc một cuộn tiền và giấu nó dưới đáy lọ đựng thuốc lá. Kẻ quan sát vừa thở qua làn khói thuốc vừa nhủ thầm: Cái đầu của lão già kia sẽ bị bổ đôi như chiếc cùi ngô. Đoạn hắn khẽ run, vì cảm thấy bồn chồn, lo ngại rằng ngay cả hắn cũng có thể là hạng rẻ mạt.
Sau khi hắn trở lại trong phòng và thấy vợ - nàng đã khoác chiếc áo ngoài lên bộ váy màu xanh lục, đang ngồi đợi trong căn phòng hầu như trống trải, họ cùng nhau đi về nhà, nơi mẹ nàng vừa chợp mắt ngủ và đứa trẻ đang khóc.
Elsie bắt đầu thay khăn ăn, đi đi lại lại, làm những việc cần thiết cho đứa bé. Nàng vốn không hay hỏi chồng, nhưng lần này nàng nói bằng một giọng yếu ớt - vì hắn đã làm nàng yếu đi khi cứ chăm chăm nhìn nàng:
- Thế anh không thích cuộc họp à?
Hắn đang ngồi bên mép giường hút điếu thuốc cuối cùng.
- Đó không phải là cái ta có thể thích hay không thích, - Hắn vừa nói vừa xê dịch hai bàn chân trần. - Nhưng anh đã ngấy đến tận cổ.
Chiếc áo pyjama của hắn phanh trước ngực, một bộ ngực đầy lông.
Nàng tự nhủ: mình sẽ không nhìn anh ấy. Còn một số bổn phận phải hoàn thành. Nàng ngồi xuống và cho con bú.
Nàng cũng muốn được phấn chấn. Song mình chẳng nhận được bao nhiêu ưu ái - nàng tự nhủ - có lẽ số mình là bị người đàn ông này đánh bại sớm. Nàng cho con bú xong và bắt đầu gấp các thứ. Dưới ánh sáng lúc ấy da nàng biến thành màu kem, nhưng sau này có thể nói là nàng có vẻ mặt nhợt nhạt.
Elsie Parker thường hay đưa con đến Durilgai thăm ông bà, cố làm mình thích thú cái bổn phận này. Nàng khoan thai đi xuống con đường đất ấy, con đường mà chẳng xe buýt nào chạy qua. Nàng xăm xăm bước, tay ôm đứa bé ủ trong chiếc tã nàng giữ rất sạch. Hay sau này, khi đứa bé đã chập chững đi, chính nàng cũng bước chập chững, bế hờ đứa bé bên hông. Thỉnh thoảng dừng lại để thở, nàng đưa tay vuốt ngược mấy sợi tóc xõa xuống đôi mắt trong sáng của đứa bé để ngắm nhìn nó. Về sau này nàng vẫn đi thơ thẩn, nhìn vô định trên những cánh đồng, trong khi đứa bé, lúc này đã thành một thằng cu, chạy bên cạnh, hoặc lang thang, hoặc dừng lại, rồi tung tăng chạy lại với mẹ, hỏi tên các côn trùng và cây cối.
- Mẹ chẳng biết những thứ này đâu. Ông có lẽ biết. - Nàng nửa như nói với con nửa lại không, đồng thời tự hỏi có điều gì thì mình biết.
Nhưng thằng bé không bị sự dốt nát của mẹ đánh lừa. Nó không quan tâm lắm đến những câu trả lời. Bản thân sự vật đã đủ rồi. Thế là nó chạy tiếp, tay cầm cành lá, hay cọng lông chim, trong khi mẹ nó chỉ tập trung vào đi đến nơi, những phát hiện mới kéo dài vô tận sự tồn tại của nó.
Gần như lần nào hai mẹ con về, bà nội cũng vừa lấy mẻ bánh hạnh nhân ra khỏi lò, bà ra cửa đón, người sực mùi bánh ngọt và nói: “Mẹ con đã về rồi.”
Người mẹ trẻ bắt đầu kể lại vài chi tiết của chuyến đi, chính xác mà nhạt nhẽo, chẳng ai buồn nghe. Nhưng nàng vẫn kể say sưa vì cảm thấy người ta mong đợi ở nàng điều gì đó. Bà mỉm cười nhìn ra ngoài cánh đồng. Thằng bé cũng mỉm cười, vừa lôi bít tất ra khỏi chân vừa thở hổn hển. Suốt từ lúc nó đến, bà nội không hề hỏi nó câu nào, hay nhìn thẳng vào mặt nó, chắc chắn bà cũng không hôn nó, bởi cả hai đều kìm nén vì những giây phút thân mật tế nhị hơn.
Amy Parker không có ý định chiếm hữu đứa bé xa cách này, nhưng rốt cuộc nó lại trở nên thân thiết hơn đứa con của bà. Bà rất bình thản với nó. Bà đương nhiên là một bà già. Như thế dễ dàng hơn. Ngay cả trong những giây phút trớ trêu, hay khi bà có linh tính rằng chú bé này cuối cùng sẽ làm hoặc nói một điều tàn nhẫn nào đó, hoặc mang trong người nó một điều bí mật bà không sao giải đáp được, sự viên mãn của bà vẫn không bị quấy rầy. Bà đi bộ trong vườn, vuốt ve hai cánh tay áo len.
Đôi khi bà đưa đứa bé vào nhà và cho nó xem thứ này thứ nọ. Có một thuyết thần bí về đồ vật, mà một số người vừa mới thụ giáo, như bà cụ và chú bé này.
- Lại đây, - bà nói, - bà cho cháu xem cái này.
Bà không gọi tên nó, cái tên giống bố nó. Chỉ có người lạ mới gọi nó bằng cái tên ấy.
- Cái gì đây ạ? - Nó hỏi.
Bà vừa thở mạnh vừa mở cái hộp.
- Cái gì vậy? - Nó hỏi, lấy ngón tay sờ vào, hàng mi đổ bóng trên đôi má.
Bà nhận thấy thằng bé xanh xao.
Trong hộp có mấy bông hoa đã khô giòn, đó là hoa cúc La Mã, đúng thế, bà đã hái để pha trà chữa đau dạ dày. Có cả những mảnh thủy tinh vỡ màu đỏ.
- Mảnh thủy tinh gì thế ạ? - Nó hỏi.
- Của một chú bé mà người ta vớt được trong trận lụt, - Bà nói. - Vào một đêm ở Wullunya, ai cũng đến để xem nước lũ, và ông cháu đang cứu vớt những người bị nạn. Bà nghĩ rằng ông bà có thể giữ đứa bé lại. Cháu biết rồi đấy, nhận làm con nuôi. Nhưng ông cháu không đồng ý. Dẫu sao thằng bé cũng bỏ đi. Một buổi sáng nó biến mất. Nó không thích ở đây. Và nó để lại mảnh thủy tinh này.
- Thế nó làm gì với mảnh thủy tinh ạ? - Đứa cháu hỏi. Nó cầm mảnh thủy tinh lên và nhìn qua đó. Một màu đỏ thắm chảy trên khuôn mặt nó, trừ ở các gờ màu xanh lục nhạt. Đó là màu xanh xao mà miếng thủy tinh màu đỏ thắm không tài nào hút hết được.
- Đứa bé cũng nhìn qua miếng thủy tinh, giống hệt như thế. Cháu xanh lắm. - Bà nói, đưa tay sờ chân tóc ở cái trán nham nháp mồ hôi của nó.
- Cháu không xanh đâu. - Nó thét lên, vung miếng thủy tinh. - Hoặc nếu cháu xanh xao thật, là do đẻ ra đã vậy.
- Đương nhiên là thế. - Bà nói với một giọng mỉa mai, đặc biệt đối với chú bé. Và điều đó không làm nó tự ái.
- Cháu có thể giữ miếng thủy tinh này được không? - Nó hỏi, mắt vẫn nhìn vào đó.
- Cháu sẽ làm gì? - Bà hỏi.
- Cháu sẽ giữ nó, như một vật bí mật. - Nó vừa nói vừa vụng về di di hai bàn chân.
- Nhưng bà cần phải biết về điều đó.
- Chẳng hệ trọng gì lắm. Dẫu sao bà cũng già rồi.
- Bà cháu ta sẽ có một bí mật chung. - Bà nói, với niềm vui thú bà không muốn giấu, vì chẳng có ai khác ở đây.
Hồi tưởng lại, bà không nhớ mình đã từng chia sẻ với ai điều bí mật nào. Điều bí mật của bà được giữ kín trong lòng bà, giống như những thỏi chì.
Bà đưa nó vào chạn thức ăn thông với nhà bếp, phòng này là một trong những phòng vừa mới xây thêm, đúng ra là một hành lang đầy giá treo. Ở cuối phòng có một cửa sổ để đón không khí mùa hè, sau khi nó được lọc qua những phiến gỗ, hay đón một tia sáng mỏng manh, thận trọng vào mùa đông. Ở đây bà nội trỏ cho con trai mình, quả thật đã nó như con trai của bà, xem các cái vại và chum muối thịt, cùng một chiếc bẫy bằng thủy tinh để bắt ruồi. Có rất nhiều vại, kim quất hoặc châu báu lấp lánh bên trong. Thằng bé dán mắt vào cái vại, nhìn đăm đăm vào quả kim quất cho đến khi thấy hoa cả mắt.
- Còn nguyên cả. - Nó tự nói cho mình nghe.
- Phải rồi, - bà cụ thở dài, bà đã phát ngấy cái trò chỉ trỏ và chỉ muốn đi ra, ngồi xuống nghỉ ngơi. - Cháu lấy chiếc kim khâu len mà chích vào nó. Như thế sẽ giữ được vị ngọt. Nếu không thì ăn sẽ đắng lắm. Rát lưỡi lắm. Cháu thử xem.
- Không. - Nó nói. - Cảm ơn bà.
Nó nhìn những vật khác.
Liệu thằng bé có khác người không? Bà tự hỏi. Con trai đứa nào cũng ăn kim quất, nước đường chảy ròng ròng hai bên mép. Hai môi của Ray, bố nó, cứ đỏ hồng. Hễ ăn kẹo hay chất mỡ là cứ bóng nhẫy lên. Trước kia nó vẫn thích ăn mỡ trên thịt lợn xông khói. Còn thằng bé này thì gầy gò, xanh xao.
- Cháu xem bên trong cái ống bơ trên kia có được không? - Nó hỏi.
Đó là một hộp sắt tây có hình những bông hoa nhỏ. Quà tặng của người chủ hiệu tạp hóa, có lẽ là một món quà Noel, bà quên mất rồi. Bà lấy hộp xuống. Trong đó có một ít hạt giống, có thể là hạt mẫu đơn. Bà cắn vỡ mấy hạt, để thử xem, và phun ra.
- Đấy là những thứ vứt đi, - bà nói, - bà quên khuấy mất.
Có những thứ khác bà đã quên, như các vại đựng đồ đã trở mùi mà thằng bé lục lọi thấy, những khi nó ở một mình, chẳng nói gì cả. Nó yêu bà, yêu thầm lặng, đó là lẽ đương nhiên. Có lần nó nghe bà nó ợ vào một buổi chiều, rồi giấu kín điều ấy, thậm chí cả với bản thân.
- Cháu có thể giữ chiếc hộp này không? - Nó hỏi.
- Nếu cháu muốn. - Bà nói, hoặc ngáp, vì bà buồn ngủ và thường hay chợp mắt vào giờ ấy, không hẳn là ngủ, bởi vì bà chưa già hẳn, tuy nhiên bà muốn ngả lưng vào ghế, mắt nhắm lại. - Cháu sẽ làm gì với một chiếc hộp như thế? - Bà hỏi.
- Cháu sẽ đựng bút chì. Cháu có mười lăm chiếc không kể bút chì màu.
- Cháu làm gì mà có lắm bút chì thế? - Bà hỏi, bà cũng có một mẩu trong ô kéo và vẫn dùng khi cần thiết.
- Để viết. - Nó trả lời.
- Viết cái gì? - Bà hỏi.
Nhưng nó đang mải nhặt nhạnh trong đám đồ gỗ.
- Bà sẽ cho cháu một cuốn vở để cháu viết. - Bà nói. - Bà mua cho bố cháu, nhưng bố cháu không dùng. Thế là ông giữ, bà chẳng biết tại sao.
Ông bảo để làm danh sách gì đó. Thế rồi bà tìm thấy nó trong ngăn kéo, vẫn chẳng viết chữ nào.
Nó cảm ơn bà. Nhưng nó mệt chẳng buồn chuyện trò nữa.
Bà cũng mệt. Vậy là hai bà cháu rời khỏi cái chạn với những vại quả. Nó là một chú bé trầm lặng và xanh xao, bà nói, nếu nó có mệnh hệ nào thì sẽ ra sao. Nếu bà mà năng trò chuyện với bà O’Dowd thì hẳn bà sẽ lo sợ cái điều mà bà hàng xóm cuối cùng rồi sẽ nói ra. Tuy với Thelma mọi việc đều ổn cả.
Bà và cháu đi bộ xuyên qua ngôi nhà. Hồi ấy, trong con mắt của đứa bé, đó vẫn là một ngôi nhà lớn. Chẳng bao lâu, bà lão ngủ thiếp trong chiếc ghế vừa với thân hình bà. Đứa bé mon men qua đám cây con vào những gian phòng quan trọng hơn, bên kia mái nhà và kèo nhà màu xanh lục sủi nhựa là một mái vòm, mà đứa bé nhìn chăm chú đến nỗi có thể biến nó thành một bức tranh khảm màu xanh biển.
Amy Parker ngồi trong chiếc ghế bện, trầm tư hay gà gật. Bà đang nói chuyện với con trai bà. Thật buồn cười, bà nói, chúng ta lại có thể nói chuyện với nhau, điều này thường là bất khả với người khác. Dưới cây tiêu. Những hạt này là những viên đạn, hắn nói. Đừng bắn vào mẹ, Ray ơi! Con không phải là Ray, hắn cười vang. Con là Ray. Chúng không phải là đạn, chúng là những lời nói. Lời nói là đạn, bà nói, nếu con muốn thế, ta sẽ bắn nó, bắn liên tiếp, và hắn lại đứng lên để nhận thêm đạn. Con đang bắn mẹ đây, hắn nhe răng cười. Những từ ngữ khủng khiếp bắt đầu đối chất với bà, từng tràng dài. Raaaaay. Ăn miếng trả miếng, thằng bé cười vang, bắn vào ai mặc kệ. Bà toát mồ hôi. Stan không phải người Ray yêu, không phải. Thế ông cháu là gì với cháu, ngoại trừ là một lão già suốt ngày đóng đinh trong xưởng mộc, chẳng chịu về dùng bữa trà? Nào nhanh lên, ngoan nào. Bà trề môi ra, nom đến ngốc nghếch.
Amy Parker chạm vào chiếc ghế mây. Bà vừa tỉnh khỏi một giấc ngủ khốn khổ, chỉ được vài phút, nhưng ẩm ướt lạnh lẽo. Bà muốn được gặp một người nào đó bà yêu.
Mà buổi trưa sao vắng vẻ thế.
Thằng bé đã lỉnh đi rồi. Bà nghĩ thầm, đến lúc nào đó mình sẽ không hiểu được nó. Một người đàn ông cao lớn từ con đường mòn tiến lại và coi bà như một trò đùa. Những người có học vấn thường vắt sạch ý nghĩa trong các từ ngữ, đến nỗi chẳng còn sót lại chút màu sắc gì.
Bà lẩm bẩm và liếm đôi môi.
- Gì thế, mẹ? - Cô con dâu hỏi. Nãy giờ cô đang mải lau mấy cái cốc thủy tinh, bỏ chúng ra một bên, thay giấy lót trên giá đã bẩn, và làm những việc linh tinh.
- Thằng bé đã đi đâu rồi ấy, - Amy Parker nói. - Nó có làm sao không?
Ta có làm sao không? Ý là như thế. Những giấc mơ ban trưa, khi xảy ra, đều tàn nhẫn hơn những giấc mơ ban đêm. Chúng được cuộc sống chung quanh tiếp sức, hành hạ kẻ nằm mơ một cách tàn bạo, vì người ấy bị bức phải từ bỏ giấc mơ.
- Nó chẳng sao cả, con nghĩ thế, - Elsie nói. Lòng tin của cô không cho phép cô dự đoán một điều bất hạnh, trừ cái điều cô gặp phải. - Thằng bé ngoan mà mẹ.
Người thiếu phụ cũng muốn làm cái gì đó để bà mẹ chồng cảm thấy thoải mái hơn, suy tính rằng làm như thế hai người sẽ có thể gặp nhau ở một điểm chung. Cô nhìn bà lão, nghĩ xem có thể làm cái gì đó, nhưng cô thấy ngay không thể được.
Bởi vì Amy Parker không thích Elsie.
Bà ngồi nhìn Elsie đang móc sợi. Bà nhìn chăm chăm vào làn da dày màu kem của cô. Elsie vẫn không ngẩng lên, vì cô luôn cắm cúi vào công việc của mình và vì chẳng có gì phải đề phòng. Đôi lông mày đen bóng không bao giờ nhíu lên để tra vấn, chỉ mang vẻ ngây thơ.
Có một lần nét mặt cô rạng rỡ hẳn lên. Cô cười vang và đỏ mặt. Điểm mạnh của cô là trình bày, chứ không phải là tự thuật, tuy hình như lúc này có một điều gì đó cô cần nói ra.
- Con có biết một cô gái luôn luôn móc sợi. Lúc nào cô ta cũng bỏ que móc xuống và đếm các mũi móc, nhưng rồi cô lại quên. Vì thế chẳng đi đến đâu cả. Song cô lại bắt đầu, đủ mọi thứ, lúc thì cái chăn, lúc thì mũ trẻ con, cô móc cho các cháu gái. Ô, hình như có một lần cô ấy hoàn thành một món. Đó là một cái khăn lót, vì sau đó bà mẹ đã giúp cô. Tên cô ấy là Ethel Bonnington.
Thật là chán ngắt.
Trời ơi, Amy Parker nhủ thầm, mình chẳng thể hiểu gì cả.
Vào thời kỳ này trong năm, cỏ úa đứng thẳng trên đồng cỏ, hoặc nằm bẹp xuống. Hầu như ngày nào cũng có gió. Chim chóc lượn lờ trong không gian, kêu những tiếng dài và chậm rãi, gần như bị giam hãm, trong khi hai người phụ nữ ngồi trong ngục tù của cảnh bầu bạn.
Trời ơi, Amy Parker nhủ thầm, có lúc mình như muốn nổ tung.
Nhưng Elise vẫn tiếp tục đến thăm cả ngày trời, hoặc suốt những ngày cuối tuần, hoặc mấy tuần liền. Mang thằng bé theo, đương nhiên rồi. Cô cũng vẫn làm việc. Cô giặt các tấm chăn. Một lần cô gỡ đệm bông gạo, cô biết cách làm nó bung ra. Và cô yêu quý mẹ chồng, cô đã bắt đầu yêu và sẽ chẳng bao giờ ngừng.
Thế rồi Amy Parker đứng lên, bà buộc phải làm thế để xem mình có thể gây một ấn tượng nào trên gương mặt phẳng lì của Elsie không.
Họ ngồi trên hành lang, như nhiều lần trước đó, Elsie đang móc sợi.
Amy Parker nói:
- Cô Ethel mà con kể có họ hàng gì với con không?
Elsie cười vang và đỏ mặt:
- Ồ, không ạ.
- Hình như cô ấy là một cô gái ngốc nghếch.
- Tội nghiệp Ethel, - Elsie nói. Cô chẳng thù oán gì Ethel. - Hồi đi học cô ta rất sáng dạ. Thi cử mọi thứ cô ta đều đỗ cả. Cô ta thạo lý luận lắm. Nhưng cuộc sống dĩ nhiên chẳng phải là lý luận. Thế là Ethel cứ rối tinh lên. Cô ham say cái trò móc sợi. Mà cô rất tốt với mẹ mình.
- Hay gớm, móc sợi. Giá đan len thì còn được.
- Con thích móc sợi. Nó xoa dịu tâm hồn. - Elsie đỏ mặt.
- Công việc ấy có vẻ tủn mủn lắm. - Amy Parker nói.
Elsie thở mạnh.
- Mẹ cũng chẳng biết mình có đặc biệt cần được xoa dịu không, - Amy Parker nói. - Ray bây giờ ở đâu, Elsie?
- Anh ấy có công việc của anh ấy - Elsie nói.
- Ray bỏ con rồi ư? - Amy Parker hỏi.
- Con không biết. - Elsie trả lời. Đối với cô, cái mẫu hình đã trở nên phức tạp, cái mẫu đôi hoa hồng nhỏ trên tấm lụa màu be bóng mà cô đã chọn. - Anh ấy đã trở lại.
Thế là Amy Parker bắt đầu thương hại Elsie. Làn da của cô thảm hại quá, vừa dày vừa thô. Nó như phồng lên từ cổ. Trong mối thương cảm, sự thất bại của bà lão dường như giảm đi và trở nên gần như thắng lợi. Bà bắt đầu mến Elsie.
- Con đừng quản chặt thằng Ray. - Amy Parker nói.
Bà đã từng đi Glastonbury vào một cái đêm tương tự, đen như mực và đầy sấm chớp, để cho hắn vào một cái hộp, trong đó bà đã đặt cả tình thương con người, vì sự an toàn.
- Nhưng con không có ý định quản Ray, - Elsie nói. - Hay bất cứ ai.
Bất kỳ cái gì cô cũng không biết, song điều này cô biết rõ.
Nhưng bà lão nhìn cô gái.
Bầu trời phía trên cuộn lên những khối mây đen và những vệt sáng màu đồng, buông thấp xuống, lơ lửng trên đầu họ. Bà lão không thích thú lắm vì nó mang đến những mối đe dọa cho cá nhân hà. Còn cô gái thì vẫn bình thản, hoặc quá xúc động đến mức khiếp sợ. Trong tâm trạng vô ngã, cô tưởng chừng như bị xé toang. Gió thổi vào mái tóc cô, để lộ hai thái dương kín đáo. Trong giây lát gương mặt cô nom đỡ bẹt.
Nhìn Elsie, hay nhìn thấu Elsie, dù chỉ trong chớp nhoáng, Amy Parker biết là bà đã bắt đầu yêu cô. Bà tự nhủ, Chúa Trời phù hộ, có lẽ Elsie mạnh mẽ.
Rồi cơn bão hoành hành quanh hai người phụ nữ. Ghế ngồi của họ kêu cọt kẹt. Họ cười vang và trấn tĩnh lại, đuổi theo cuộn chỉ tơ cứ chực trốn chạy, gió thổi gập thân hình họ khiến họ biến dạng và nom mềm mại lạ thường. Mắt họ ngời sáng trước cơn bão ẩm ướt và ánh chớp màu xanh lục.
Mãi sau bỗng nhiên bà nội sực nhớ và kêu lên:
- Thằng bé đâu rồi? Nó không chạy ra ngoài lúc mưa bão thế này chứ?
Nhưng người mẹ vẫn được tâm trạng của mình che chở.
- Chắc là cháu chui vào xó xỉnh nào đó. - Cô nói, như an ủi, vừa đưa tay vuốt tóc.
- Còn Stan nữa.
Bà lão sực nhớ đến chồng, mà bà đã quên bẵng. Bây giờ cả ngày bà quên ông.
Hai người đàn bà đi như một cái máy qua ngôi nhà đang rung chuyển để tìm kiếm những gì họ định tìm kiếm.
- Hai ông cháu vừa làm xong. - Stan Parker nói, vừa lau nước trên khuôn mặt rắn đanh. Ông đang đứng bên cửa ra vào ở sau nhà, lưới thép ở cửa còn đang run rẩy.
Thằng bé áp mặt vào kính cửa sổ cho đến khi mũi nó trắng bệch, và nó nhìn ra bên ngoài qua làn nước.
- Xem này, - nó phấn khích gọi, quay nhìn vào căn phòng. - Cuộc sống dưới nước chắc giống như thế này. Đối với một con cá. Đến đây xem. Mọi người sẽ thấy.
Nhưng chẳng ai chia sẻ niềm tin của nó, thậm chí cũng chẳng nghe những lời nó nói. Những điều phát hiện chẳng bao giờ được truyền đạt một cách chính xác như khi phát hiện được. Thế nhưng thằng bé biết vậy.
- Cháu không bị ướt, - nó phản đối, ẩy bà nó ra. Bà đưa tay sờ vào người chồng bà, trong lòng ít lo lắng hơn, nhưng cốt để xác lập quyền lực của mình.
- Cả hai ông cháu đều ướt sũng, - bà nói, - ít ra tay tôi cũng cảm thấy như thế.
Và bà giận dữ. Đó là quyền của bà.
- Mưa rào thôi. - Stan Parker nói. - Ướt một tí chả hại gì.
Ông bắt đầu vê thuốc lá và cuốn một điếu.
- Thế ai phải trả giá? - Người đàn bà giận dữ hỏi.
Bà cảm thấy bất lực, song bà oán giận cái tính lì lợm của ông chồng hơn tất cả.
- Bà chứ còn ai nữa, - Stan cười vang, liếm tờ giấy mỏng.
Thằng bé lúc này cảm thấy toại nguyện trong căn phòng khô ráo, sực mùi khói thuốc, nó đến ngồi cạnh ông. Nó thích xem những công việc tỉ mỉ. Nó thích cái mùi của cái túi cao su nhỏ ông đựng thuốc.
- Cháu châm nhé? - Nó hỏi khi ông đã cuốn xong cái vật bé nhỏ và leng keng.
- Được thôi, - Amy Parker nói, mắt bà rực nóng bởi những gì bà đã chịu đựng, và còn phải chịu đựng vì Stan.
Một lần, bà đã nghĩ đến chuyện lấy một con dao, không phải để đâm chồng, như thế sẽ ít đau đớn, mà để đâm mình, đúng vào chỗ giữa hai cái vú, phập mạnh vào. Lưỡi dao sẽ vấp phải cái gì, bà băn khoăn tự hỏi trong lúc nhàn rỗi, và ông ấy sẽ thốt ra những lời gì khi họ chăm chú nhìn những giọt sám hối to rỏ xuống sàn nhà?
- Kìa, ông, - Elsie nói, đối với cô chẳng có gì là kinh khủng cả. - Ông đi thay quần áo đi.
Thằng bé đang mải nhìn tờ giấy bắt lửa. Nó bùng lên, rồi cháy đều.
Ông lão đi thay quần áo ngay.
So với phần lớn những người khác, quần áo ít làm thay đổi Stan Parker hơn. Đối với vợ ông, mỗi thứ quần áo khác nhau lại có những điều bí ẩn khác. Nhưng ông chồng thì trung thực hơn, điều này khiến ông làm cho người khác bực mình. Dẫu sao, ở lứa tuổi này, ông có thể nhìn nhận một đồ vật đúng với bản chất của nó và lý giải một cử chỉ theo ý nghĩa của nó. Cuộc đời của ông không vì thế mà kém kỳ diệu. Nếu vợ ông chết, ông tự nhủ, ông sẽ sống trong một căn phòng có một cái giường và một chiếc ghế, ông có thể đựng gia sản trong vài chiếc rương, treo các thứ vào móc trên tường. Song vợ ông không chết, chẳng có vẻ gì là sắp chết, ông vui vẻ chấp nhận điều đó. Ông rất yêu vợ, mặc dù bà thường làm ông suýt gãy quai hàm vì nghiến chặt răng.
Suốt cả đời họ sống bên nhau, đã có những thói quen đơn giản nhất định. Họ thích ăn thịt luộc hơn vì nó dễ tiêu. Bà vợ thường tỉnh giấc giữa đêm, nghe tiếng ông dò dẫm trong bóng tối, ông thường thức dậy khoảng một giờ sáng, đi giải, sau đó hai vợ chồng lại chìm sâu hơn vào giấc ngủ cuối cùng.
Vào cái đêm bão tố hay mưa rào ấy, khi Stan Parker ướt đẫm, ông chưa bao giờ nhìn thấy sự vật rõ hơn. Sau khi thái xong thịt bò, ông ngắm nhìn vợ, nơi tóc bà đã thưa đi đường rẽ; lúc cãi nhau bà chẳng chịu ngẩng lên, chẳng chịu nói gì. Ông nhìn đứa cháu nội đang dùng mấy đầu ngón tay ẩm ướt nhặt các mẩu bánh mì và thè lưỡi liếm sạch. Mẹ nó đang ở đấy sẵn sàng bảo vệ một người nào đó.
Rồi ông lão buông chiếc dao thái thịt xuống. Nó kêu đánh xoảng.
- Ối giời, - bà vợ than vãn, tay đặt chỗ tim.
Dưới ánh điện mọi thứ đều rõ mồn một.
Elsie đã bắt đầu kể lể về một người nào đó mà cô quen biết.
Nhưng ánh đèn rực rỡ của ông lão thách thức mọi thứ khác. Mọi thứ bắt đầu trôi lơ lửng trong thế giới ánh sáng của ông. Ông nhớ lại những giá sách ông đang đóng; mấy năm gần đây ông đam mê làm mộc, bây giờ ông có thể nhìn rõ thớ gỗ của tấm gỗ ông đang làm, cái khía nhỏ gần mộng đuôi én, vốn làm ông lo lắng vì nó thường để lại một khuyết tật. Mặt khác, sự giản đơn và độ chính xác của những vật ông làm khiến người ta hết sức mãn nguyện.
Sau khi ngồi ngắm vật này một lúc, và nở một nụ cười trên đôi má dày dạn đầy thông cảm, đột nhiên ông nói:
- Tôi đi vào nhà trong đây, ngủ sớm một tí.
- Đấy, - Amy Parker nói khi ông đã đi khỏi. - Ông ấy bị lạnh rồi.
Bà đã biết rõ điều đó, bản thân bà cũng ngây ngấy sốt từ nãy đến giờ. Bà sẽ là trung tâm của bất kỳ thảm kịch nào xảy đến tiếp theo.
Bà đã lắng nghe chồng mình trong đêm tối, đôi lần chạm vào ông. Ông ngủ say hay định trêu tức, bà không rõ.
Rồi bà ngủ thiếp đi. Bà đang ngủ thì chồng tỉnh giấc và nằm cứng đờ trên giường, nhìn vào bóng đêm. Cơn sốt không làm ông trống rỗng. Tất cả những gì ông đã sống, tất cả những gì ông đã thấy, đều mang vẻ tử tế giản dị đến tột cùng. Mọi hành động ông hồi tưởng lại trong bóng tối thênh thang của căn phòng đều được thực hiện với sự thành thực của gỗ mới bào. Thế nhưng khuôn mặt cứng đơ của ông không tin. Nó xoay đi xoay lại và kêu loạt xoạt trên gối. Cái miệng khô khốc của ông nhẽ ra phải chất vấn, dĩ nhiên không phải hỏi vợ ông vì bà không biết, mà hỏi một nguồn tri thức bí mật nào đó ông chưa khám phá ra được. Thế rồi thứ ánh sáng nóng sốt, trong suốt, trong đó ông nằm suy nghĩ, và nhìn thấy sự vật, bắt đầu mờ nhòa. Ông thích đọc những thông điệp in to, rõ ràng. Nhưng khi không có tín hiệu nào cả, ông đành cọ má vào gối và sờ các khớp xương. Bây giờ ông đã mệt, lắm khi cảm thấy đau đớn nữa. Cơn đau ngắn ngủi. Đôi lúc, ông nói một đôi lời để biểu thị nỗi đau đớn và buồn khổ của mình. “Lạy Chúa, lạy Chúa,” thỉnh thoảng ông thốt lên, nhưng rất khẽ khàng và mịn màng như mùn cưa.
Một lần, người đàn ông nhìn thấy dưới mi mắt mình rằng họ đang đứng trong xưởng mộc, giữa những bào cưa cuộn tròn nơi mắt cá. Thằng bé ở bên ông, đương nhiên là thế, vì ở cái tuổi này, đứa cháu nội là mối quan tâm lớn nhất của ông, tuy ông chưa bao giờ thừa nhận điều ấy. Mối quan hệ của họ thật diệu kỳ, hầu như chỉ giới hạn trong xưởng mộc. Bên ngoài xưởng mộc hai người đối với nhau như không hề tồn tại. Họa hoằn lắm mới nói một câu. Nhưng trong xưởng mộc mỗi cuộc đàm thoại giữa họ đều mang tính chất tâm tình.
- Xem này, - ông lão vừa nói vừa mạnh tay đưa một nhát bào lên mặt gỗ. - Nó giống như một bản đồ. Đây là những dãy núi. Kia là một mỏm núi. Cái tròn tròn ấy. Đó là mỏm cao nhất.
- Phải rồi, - thằng bé nói. - Còn đây là sông và vịnh.
- Ngày còn bé, - ông cụ nói, - thỉnh thoảng ông vẽ bản đồ và tô xanh các vịnh. Vịnh Mexico, đó là một vịnh rất lớn.
- Cháu chẳng vẽ mấy, - thằng bé nói.
- Cháu tính sau này sẽ làm gì?
- Cháu sẽ làm thơ. - Thằng bé nói.
- Cháu biết gì về thơ? Cháu đã đọc bài thơ nào chưa?
- Chưa ạ, - thằng bé nói, nhai nhai bên trong má. - Nhưng cháu biết.
Thằng bé dang hai cánh tay ôm cả bầu trời trong buổi trưa ngái ngủ. Hai mắt nó mở to.
- Chỉ biết thôi là chưa đủ, hở ông?
Lúc này ông đã bị giam hãm trên chiếc giường, nên không trả lời được. Cổ họng ông sao mà khô đến thế.
Trong cơn ngây ngấy sốt và tâm tính trẻ con của mình, có cái gì đó ông vẫn còn phải làm, còn phải biết. Thế là ông lại vùi đầu vào gối, nghiêng ngả bóng tối, hy vọng niềm tin sẽ được tưởng lệ bằng một điều phát hiện.
Song, chỉ có ánh đèn bừng sáng.
Đến giờ rồi, Stan ạ, mí mắt nặng trĩu của bà vợ nói.
- Anh cảm thấy khó chịu kinh khủng, Amy ạ. - Ông già nói. - Em gọi Jack Finlayson đến giúp một tay lo cho mấy con bò.
Sau đó, Stan Parker ốm một thời gian. Ông bị sưng màng phổi. Mọi người chăm sóc ông suốt. Jack Finlayson đến, bằng lòng giúp đỡ. Anh ta là người tử tế, cứ tự làm công việc rối tinh lên, chị vợ Merle cũng đến giúp những việc vặt, và đang vừa kéo sợi ở lối cửa ra vào vừa uống trà pha sữa. Stan Parker cảm thức mọi điều này, mọi thứ người ta đang làm. Ông để mặc họ. Ông không vội vã, ông đứng lên khi họ bảo, được họ xốc nách, và chẳng bao lâu ông đã đi lại trong bộ quần áo rộng thùng thình.
Tuy nhiên, ông đã đi sâu thêm một bước vào nội tâm mình. Trong thời gian an dưỡng, ông thường liếc mắt nhìn mọi người. Phần lớn họ vội quay đi và trò chuyện với vợ ông. Đương nhiên ông chưa hoàn toàn khỏe. Ông có thói quen nhìn người chung quanh, như thể có cái gì đó đằng sau họ, và họ không thích vậy, bởi họ không thể dễ dàng quay lại để xem có cái gì.
Nhưng Stan Parker rất đỗi ngạc nhiên về cái những điều mới mẻ ông nhìn thấy.