Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 18 - Cái Giếng Và Chim Bồ Câu
O
ng Leonard Minaxo và Jason đánh bạo lao vào công viên trên chiếc xe độc mã. Đại dương thấp thoáng những vệt màu xanh dương giữa các hàng cây và, nhìn từ trên đồi, Kilmore Cove chỉ còn là những mái nhà sẫm màu nhấp nhô.
“Ông từng quen ông Ulysses Moore ạ?” Jason hỏi.
“Ta không thích nói về chuyện đó.”
“Còn cháu thì lại thích.”
“Tại sao?”
“Để biết chuyện gì đã xảy ra với ông ấy.”
“Ông ấy đã mất tất cả và đã bỏ lại nhà của mình.”
“Ông ấy là kiểu người thế nào ạ?”
“Ông ấy yêu nơi này.”
“Còn tính cách?”
“Bất trị.”
“Tức là sao ạ?”
“Ông ấy chẳng thể ở yên lấy một phút và cháu không bao giờ có thể bắt ông ấy làm gì, hoặc thay đổi suy nghĩ của ông ấy.”
“Hai người từng cãi nhau ạ?”
“Ta không thích nói về chuyện đó, ta đã nói với cháu rồi còn gì.”
“Ông chẳng muốn giúp cháu gì cả.”
“Giúp gì cơ?”
“Tìm ông ấy ạ. Hoặc tìm bóng ma của ông ấy.”
“Cái này thì...” Ông Leonard thốt lên. “Bóng ma của ông ấy thì có liên quan gì?”
“Cháu tin là ông ấy ở Biệt thự Argo.”
“Đúng là lũ trẻ! Hóa ra đó là thứ chúng tin, những bóng ma.”
Lẽ ra Jason muốn phản bác lại, nhưng cậu quyết định không làm vậy. Cậu sợ mình sẽ trở nên nực cười. Ông Leonard quá tự tin trong nhận định của mình đến mức khiến cậu sợ.
“Ông này, cháu về phe ông. Cháu ở phe ông Nestor, y như ông. Và cháu chống lại Oblivia.” Cậu nói.
“Cháu chỉ cần nói với ta một điều thôi. Cháu đã du hành chưa?”
Jason im lặng một lúc. Câu hỏi của người gác ngọn hải đăng có thể chỉ mang một ý nghĩa duy nhất: cháu đã từng lên tàuMetis và băng qua đại dương thời gian chưa?
“Rồi ạ.” Cậu thừa nhận.
“Một mình à?”
“Với chị cháu và Rick ạ.”
“Cháu từng ở đâu rồi?”
“Ở Ai Cập và Venice ạ. Nhưng ở Venice mọi chuyện đã trở nên rất tệ. Còn ông?”
Ông Leonard không trả lời, nhưng Jason tin chắc rằng cả ông ấy cũng đã từng du hành.
“Tuyệt lắm ạ.” Jason nói thêm.
“Cháu thấy gì ở Ai Cập?”
“Cháu đã ở Xứ Punt, để tìm kiếm Căn phòng không tồn tại.”
“Và cháu không tìm được nó...”
“Có chứ ạ, cháu đã tìm thấy nó. Và cháu tìm thấy tấm bản đồ... mà ông Ulysses Moore đã giấu ở đó cho bọn cháu. Nhưng sau đó mụ Oblivia tới và đánh cắp nó khỏi tay bọn cháu.”
“Còn ở Venice?”
“Bọn cháu đi tìm ông Peter Dedalus. Nhưng sau đó hai tên ăn xin kia xía vào và...”
“Hai thành công vang dội, có thể nói là vậy.”
Jason không trả lời và ông Leonard tự lẩm bẩm một mình.
“Nestor đã mắc vài lỗi.”
“Nếu ông ám chỉ bọn cháu, thì ông ấy chẳng mắc lỗi gì cả! Bọn cháu đã tự mình khám phá ra mọi thứ và...”
“Vậy sao? Thật đáng kinh ngạc.”
“Hơn nữa đó là ý định của ông chủ cũ...”
“Cháu thì biết gì về chuyện đó, nhóc?” Ông Leonard cắt ngang lời cậu bé một cách thô lỗ.
Sau một chỗ cua gấp, ông dừng cỗ độc mã lại.
“Chúng ta đến nơi rồi.”
Jason nhìn ngó xung quanh. Họ đã lên gần đến đỉnh đồi. Bên phải họ, thấp thoáng xa xa giữa những hàng cây là mái của Biệt thự Argo.
“Chúng ta phải làm gì ạ?”
Leonard xuống xe và bắt đầu tháo dây buộc những thùng hắc ín ra.
“Chúng ta sẽ mang chúng lên miệng giếng. Và chờ chim bồ câu tới.”
Họ lăn những thùng hắc ín dọc theo đoạn đường mòn tới một ngôi nhà nhỏ không có cửa, bị vùi trong thảm thực vật. Ông Leonard phải cúi xuống để đi qua dầm đỡ.
Bên trong có một lò sưởi đắp thô, lớp vữa trên tường đã bị muội than phủ đen kịt và những chữ viết bằng than.
“Đã lâu rồi ta không quay lại đây...” Người gác hải đăng làu bàu trong lúc nhìn quanh ngôi nhà.
“Chỗ này là chỗ nào ạ?” Jason hỏi.
“Khi còn ở tuổi của cháu, bọn ta thường tới đây chơi. Đây là nơi bí mật của bọn ta.”
Jason nhìn những vết đen in trên tường bởi rất nhiều bàn tay trẻ con và cố đọc một vài dòng ghi chép, phần lớn trong số đó giờ đã trở nên không thể hiểu được. Tim thắt lại, cậu bé nhận ra những ký tự trên Đĩa Festo, lẫn lộn trên tường với những ký tự bình thường của bảng chữ cái. Cậu bé kinh ngạc, đưa ngón tay khẽ chạm vào chúng.
“Ông... cũng từng biết những biểu tượng này ạ?”
“Như những cô cậu bé khác thôi,” ông Leonard trả lời bình thản. “Đó là bảng chữ cái bí mật của bọn ta. Ở chỗ này viết: Ta chỉ là thủy thủ trong mộng...”
“Tàu chiến, mỏ neo, chỉ huy, không!” Jason đọc nốt phần còn lại. “Vẫn là Shakespeare ạ?”
“Không.” Leonard cười, rất ấn tượng khi cậu bé mau chóng dịch được câu đó. Ông lắc đầu và đi ra khỏi ngôi nhà, trở lại chỗ hai thùng hắc ín. “Giờ thì giúp ta với mấy cái thùng này nào.”
“Cháu tới đây.” Jason trả lời, nhưng cậu vẫn nán lại nhìn những dòng chữ viết trên tường.
Cậu thấy cái tên Ulysses được viết nguệch ngoạc bằng tay, khác với nét chữ cậu có thể nhận ra trong những cuốn sổ tay. Không có tên của bà Penelope, nhưng phía trên một chút có dòng chữ Mùa hè tuyệt vời. Và bên cạnh đó có ít nhất ba chữ ký còn có thể nhận ra được: Peter, Clio, Black, tiếp đó là chữ ký thứ tư, gần như đã bị xóa hoàn toàn.
Những cái tên đó đứng chung với nhau làm gì ở đây nhỉ? Nếu ông Peter là thợ đồng hồ và bà Clio là chị của bác Cleopatra Biggles... thế thì ai là Black? Rùng mình, Jason nhìn những dấu tay trên bức tường của ngôi nhà bí mật. Đã bao nhiêu năm trôi qua kể từ khi họ để lại đây những dấu tay này? Hai mươi? Ba mươi? Hay nhiều hơn thế?
“Nhóc!” Ông Leonard gọi cậu bé từ bên ngoài. “Cháu có giúp hay là không đây?”
“Ông đã không ký tên.” Jason nói khi tiến lại gần chỗ mấy cái thùng.
“Có lẽ chữ ký của ta đã bị xóa rồi.” Ông Leonard lầm bầm nói.
“Mùa hè tuyệt vời là sao ạ?”
“À, đó thực sự là một mùa hè tuyệt vời...” Ông Leonard đáp. “Mùa hè đầu tiên mà Ulysses trải qua ở đây. Mùa hè mà nhóm chúng ta thành lập.”
“Sau đó thì sao ạ?”
“Sau đó thì có người đặt quá nhiều câu hỏi. Và nhóm đã tan rã.”
Ở phía sau ngôi nhà nhỏ có một hiên đá, chính giữa là tấm lưới hoen gỉ đậy trên một miệng giếng.
Ông Leonard và Jason lăn những thùng hắc ín đến tận miệng giếng, sau đó người gác hải đăng chộp lấy tấm lưới, gồng tay và nhấc bổng nó lên.
“Bây giờ đến hắc ín.” Ông nói.
Jason đi lấy con dao và giúp ông mở nắp thùng. Mùi khét của hắc ín lan tỏa trong không khí.
“Có gì ở trong giếng ạ?” Jason hỏi và cố nhìn xuống tận đáy giếng. “Nó có sâu không?”
“Bọn ta từng tin rằng nó có thể dẫn thẳng tới trung tâm Trái đất đấy,” ông Leonard đùa. “Thế là bọn ta quyết định thám hiểm nó, vì tin rằng mình có thể thực hiện một chuyến phiêu lưu như của Verne... Cháu nhớ truyện đó chứ? Bên trong miệng núi lửa. Chính Black là người xuống đầu tiên. Không phải ngẫu nhiên mà kể từ đó bọn ta gọi cậu ấy là Black Vulcano - Núi lửa Đen. Ta và những người khác giữ dây ở trên.”
“Và chuyện gì đã xảy ra ạ?”
“Black dừng lại khi xuống dưới đó chừng sáu mét. Ban đầu bọn ta rất thất vọng, nhưng sau đó bọn ta bắt đầu thực hiện những cuộc thám hiểm còn thú vị hơn. Cái hang dẫn lối vào những đường hầm mà một thời được sử dụng làm nhà tù và sau đó làm kho chứa đạn dược, phòng khi quân Đức xâm chiếm trong suốt Thế chiến thứ hai.”
“Nhưng cháu vẫn không hiểu mình đang làm gì ở đây.” Jason nói.
Ông Leonard lại gần một cái cây to.
“Cháu có nhìn thấy lối mòn kia không? Nếu ông Nestor đã nói với cháu rằng ông ấy muốn thử kế hoạch chim bồ câu trong giếng, lát nữa ông ấy sẽ tới từ phía đó và vào trong hang nằm dưới chỗ này. Bây giờ ta đi lấy Ariadne đây.”
“Còn cháu thì sao ạ?”
“Cháu sẽ chỉ phải ngắm cho thật tốt thôi.”
Một lát sau, cách họ không quá xa, Dieguita đổ nhào xuống đất, ở đoạn giữa của con đường mòn.
“Làm ơn, đủ rồi! Em không thể đi tiếp được đâu!”
Don Diego, ở trước đó một chút, ném xuống đất bọc đồ buộc trong chăn vốn đang vác trên vai rồi đứng thẳng lưng và ấn ấn ngón tay cái vào vùng thắt lưng.
“Dieguita có lý. Nghe này, ông già! Còn bao lâu nữa mới đến được chỗ con ngựa chết tiệt đó?”
Ông Nestor chỉ tay về phía khoảng trống ở đầu dốc, cao hơn chỗ đó một chút.
“Chỉ vài bước nữa thôi. Đã trông thấy cái hang rồi.”
Don Diego lại gần người làm vườn và nhìn theo hướng ông chỉ.
“Một cái chuồng ngựa và một cái hang, ông đang đùa tôi à?”
“Anh bảo tôi đưa anh tới chuồng ngựa gần nhất chứ không phải cái tốt nhất. Nếu anh muốn, chúng ta có thể xuống làng, nhưng tôi báo cho anh biết...” Ông chìa cổ tay bị trói ra. “Nếu người ta trông thấy tôi bị trói thế này và biết được hai người đang vận chuyển cái gì, thì các người sẽ không thể bỏ đi dễ dàng đâu.”
“Đi nào, đi nào! Đồ đạc sẽ ở cùng chúng tôi. Còn ông nữa, đừng có láu cá.”
“Em mệt lử rồi! Mệt muốn chết!” Dieguita than thở.
Đúng lúc ấy có nghe tiếng ngựa hí.
“Đấy!” Ông Nestor reo lên hài lòng. “Tôi đã nói với các người rồi, con ngựa chỉ cách đây vài bước chân thôi.”
Tiếng ngựa hí dường như tiếp thêm sinh lực cho hai kẻ ăn xin. Don Diego túm lấy cái túi-chăn của mình và quảy nó lên lưng, sau đó động viên cô bạn đồng hành. “Cố lên, tình yêu của anh! Chúng ta gần tới nơi rồi. Chỉ cần chịu khó chút xíu nữa thôi là bọn mình sẽ giàu to!”
Họ tới một cửa hang có vô số chim bay ra, bên trong thoảng mùi lưu huỳnh.
Cái hang thực ra là một tổ chim mòng biển, chim ó và vô số loài chim khác, chúng ùa ra cả lượt vì bị sự ghé thăm của những vị khách mới làm phiền.
Diego và Dieguita nhận ra mình đang đi trên một tấm thảm lông vũ và phân chim khô.
“Eo ơi!” Cô nàng đi sau ông Nestor thốt lên. “Làm thế nào có một cái chuồng ngựa ở đây cơ chứ?”
“Xin chào!” Đúng lúc ấy, một giọng nói vang lên ở cuối đường hầm.
Ngay khi mắt của họ quen với bóng tối, cả ba người thấy một người đàn ông lực lưỡng đứng bên chú ngựa bờm trắng.
“Tôi phải hiểu chuyến viếng thăm này là vì điều gì đây?”
Ông Nestor vừa dợm lên tiếng, thì Don Diego đã cướp lời.
“Ngựa. Chúng tôi đang đi tìm ngựa. Con nào đẹp và nhanh, nếu được.”
“Ngựa, tất nhiên rồi!” Ông Leonard thủng thẳng đáp và tiến lại gần. Tia sáng từ khe hở ở phía trên trần hang chiếu sáng dải băng trên mắt ông. “Các vị sẽ trả tiền thế nào?”
“Bằng một chiếc đĩa bạc.” Dieguita đáp gọn.
“Ổn đấy. Các người tới đây lựa đi!” Leonard nói và lùi một bước về phía sau.
“Ồ, cuối cùng cũng có người nói lý lẽ!” Don Diego reo lên, hài lòng về cách cư xử của người đàn ông khổng lồ chột mắt kia. “Dieguita, để cái túi ở đó và đi cùng anh nào!”
Tuy nhiên, Dieguita lại tỏ ra đa nghi hơn anh bạn mình, cô ta đi qua ông Nestor mà không chịu buông chiến lợi phẩm.
Hai tên ăn xin tiến về phía mà ông Leonard biến mất. Họ đi qua nơi sáng sủa duy nhất của lòng hang, dừng lại nhìn lên cao rồi nhìn ra xung quanh.
“Kỵ sĩ ơi? Anh ở đâu rồi?”
“ĐẾN LÚC RỒI!” Ông Leonard hét to.
Ghé mặt vào tấm lưới, Jason nghe thấy tiếng hét của người gác hải đăng, cậu huých vai vào chiếc thùng đầu tiên khiến một dòng chất lỏng sền sệt chảy vào trong giếng. Không chờ tiếng hét thứ hai, cậu bé trút cả chiếc thùng còn lại xuống.
Khi nghe thấy những tiếng la hét đầu tiên, cậu bé lao xuống khỏi con đường mòn và tới cửa hang, nơi một đám chim điên cuồng đang bay ùa ra ngoài.
“Leonard, chim bồ câu thế nào?” Ông Nestor hét lên.
Jason chạy vào bên trong và bị trượt trên sàn hang trơn tuột.
“Ông Nestor!” Cậu reo lên khi nhìn thấy người làm vườn già vẫn bình an vô sự. Cậu rút con dao của ông Leonard Minaxo ra và, với chỉ một động tác, cậu đã giải thoát ông khỏi mảnh vải buộc cổ tay.
“Này, từ từ! Cháu muốn cắt bỏ một bàn tay ta sao?” Ông Nestor đùa và ôm lấy cậu bé.
Một âm thanh nặng trịch vang lên, rồi cái bóng đen đúa của Don Diego đổ rầm trên đất, trong một vũng hắc ín và lông vũ của các loài chim. Dieguita thì đã sõng soài trên mặt đất bất tỉnh. Ông Leonard Minaxo đang cúi xuống chỗ họ đầy vẻ hăm dọa, hắc ín dây đầy quần, áo sơ mi và giày của ông.
“Nào, cậu bé!” Ông gọi với ra. “Để ông già ấy lại và giúp ta một tay trói chúng nào. Ta không muốn là người duy nhất bị bẩn tay đâu...”
Mười phút sau, Jason cũng bị dính đầy hắc ín và lông vũ của chim mòng biển từ đầu đến chân. Cậu bé đã giúp ông Leonard trói và bịt miệng hai tên ăn xin vẫn còn đờ ra vì cơn mưa đen ụp xuống đầu mình và vì viên thuốc ngủ mà ông Leonard đã dùng ngay sau đó để khiến chúng bất tỉnh hoàn toàn. Sau đó hai người đặt chúng ở phía sau cỗ độc mã cùng những đồ vật chúng cố lấy cắp.
Trong lúc ấy, ông Nestor chỉ đứng một bên và để cho Leonard quyết định phải làm gì và làm như thế nào. Hai người chỉ trao đổi với nhau vài câu trong lúc ngắm nghía đống hắc ín và lông vũ trải dài ở phía sau cỗ độc mã.
“Ông lên đó đi,” rốt cuộc ông Leonard cũng khuyên ông Nestor và cầm lấy dây cương Ariadne. “Tôi và thằng bé sẽ đi bộ.”
“Bây giờ kế hoạch là gì ạ?” Jason hỏi.
“Chúng ta sẽ quay về Biệt thự Argo và...” ông Nestor tránh ánh mắt của Leonard, “mang chúng trở lại nơi xuất phát rồi đưa Julia và Rick về. Cháu có những chiếc chìa khóa bên mình phải không?”
“Tất nhiên rồi ạ.” Jason móc trong túi ra bốn chiếc chìa khóa bị dính đầy hắc ín.
“Tốt.” Ông Nestor lẩm bẩm.
“Thế nếu cháu không mang chúng theo mình thì sao? Rick và chị Julia sẽ mắc kẹt ở Venice ạ?”
“Ta tin là vậy.” Người làm vườn trả lời.
“Còn Cánh cửa Thời gian sẽ đóng lại mãi mãi sao ạ?” Cậu bé vẫn tiếp tục hỏi.
“Ồ, không đơn giản mà giữ cho nó đóng đâu!” Ông Leonard chen ngang không hề do dự.
“Nếu là vì thế thì cũng chẳng dễ để mở được nó.” Ông Nestor trả lời vẻ hơi mỉa mai, như để gợi cho ông Leonard nhớ về một việc xưa cũ có liên quan đến họ.
“Cháu không hiểu...” Jason lẩm bẩm.
“Bốn chiếc chìa khóa luôn luôn quay trở lại. Vì thế chúng sẽ không ở lâu cùng Rick và Julia. Bọn trẻ sẽ đánh mất chúng, hoặc ai đó sẽ đánh cắp chúng.”
“Còn sau đó ạ?”
“Rồi ai đó ở Kilmore Cove sẽ nhận được một gói bưu phẩm với bốn chiếc chìa khóa. Và tất cả sẽ lại bắt đầu lại từ đầu.” Người gác ngọn hải đăng kết luận ngắn gọn.
“Đó đúng là những gì xảy ra với bọn cháu hai ngày trước!”
“Ta tin là thế!” Ông Leonard nói tiếp không hề nao núng. “Mọi chuyện bắt đầu theo cách này đấy. Tình cờ.”
“Đừng để tâm tới những gì Leonard nói với cháu.” Ông Nestor chen ngang và lên cỗ xe độc mã, muốn chấm dứt cuộc tranh luận. “Ông ấy chỉ thích nói kiểu thơ ca và câu đố.”
“Còn cháu đừng để tâm tới những gì ông Nestor nói. Đã một thời gian rồi, ông ấy chẳng thích nói về cái gì cả. Cháu có biết Ulysses nói gì về ông ấy không?”
“Leonard, đủ rồi!”
Jason nhìn người gác ngọn hải đăng với ánh mắt khẩn khoản, ông già liền nói tiếp:
“Sáng ra không thấy vườn xinh,
Chắc quên ông ấy người mình đã thuê.”
“Rất thú vị!” Ông Nestor lẩm bẩm và cho Ariadne cất bước. “Thực sự rất thú vị.”
“Cả ông Ulysses Moore cũng thích nói kiểu thơ ca và câu đố.” Jason nhận xét.
“Có lẽ ông ấy học từ ta.” Ông Leonard cười.
Jason và ông Leonard lặng thinh lắng nghe tiếng bánh xe của cỗ độc mã và tiếng vó của Ariadne nện trên con đường mòn dẫn xuống Biệt thự Argo.
Sau vài phút, Jason hỏi người gác hải đăng:
“Ông đã bao giờ nhận được chìa khóa qua đường bưu điện chưa ạ?”
“Có lẽ...” Ông trả lời, khuôn mặt đanh lại.