Nguyên tác: Горячий Снег
Số lần đọc/download: 811 / 9
Cập nhật: 2017-05-19 13:24:54 +0700
Chương 18
K
hẩu pháo của U-kha-nốp, dường như do một phép lạ là khẩu duy nhất còn nguyện vẹn, đứng ở cách cái đầu cầu bị đạn trái phá đốt cháy rụi và làm cho vênh váo khoảng một ki-lô-mét rưỡi, đến chiều tối khẩu pháo cũng câm bặt khi bắn hết số đạn lấy được từ ba khẩu pháo bị bắn hỏng.
Cả Cu-dơ-nét-xốp lẫn U-kha-nốp đều không thể biết chắc chắn rằng xe tăng thuộc tập đoàn quân của thượng tướng Gốt đã cường tập vượt được qua con sông Mư-scô-va và ở hai địa điểm trên cánh phải của tập đoàn quân và không giảm sức tiến công, vào lúc chập tối đã thọc sâu vào tuyến phòng ngự của sư đoàn Đê-ép, chia cắt sư đoàn này ra, siết chặt trung đoàn Trê-rê-pa-nốp vào gọng kìm ở khu làng phía Bắc bờ sông. Nhưng họ biết rõ rằng một bộ phận xe tăng địch, khó đếm rõ là bao nhiêu chiếc, tới chiều đã đè bẹp các tiểu đoàn pháo bên cạnh, chà nát tuyến phòng ngự của các tiểu đoàn bộ binh ở phía trước và bên trái rồi xông tới các vị trí pháo binh của ta, trong đó có đại đội của Đrô-dơ-đốp-xki, đi qua cầu sang bờ sông bên kia, sau đó chiếc cầu này đã bị giàn “Ca-chiu-sa” của ta phá hủy và bắn cháy.
Điều khó hiểu hơn cả là lúc trời tối trận đánh bắt đầu lùi ra xa, dần dần lặng đi ở phía sau lưng họ, nơi quầng sáng dâng lên, phình ra đỏ lóe trên khắp dải bờ phía Bắc, mới đây hãy còn là hậu phương. Ở đây, trên dải bờ phía Nam, trước tường hào đầu tiên của bộ binh bị xe tăng địch cào xới lên khủng khiếp, trước những hỏa điểm bị đè bẹp của các khẩu đội, trận đánh cũng lặng đi một cách khó hiểu, các cuộc tiến công ngừng lại mặc dầu ngọn lửa vẫn cháy phần phật; ở khắp nơi xăng tổng hợp bùng cháy như những đảo lửa, những chiếc xe tăng đơn độc hoặc cụm lại từng đám vẫn cháy nốt trên các gò cao, những chiếc xe vận tải bọc thép trúng đạn trái phá bị cháy đen thui, ngọn lửa lan rộng trên những khung thép của các xe tải Ô-pen mà lúc chiến đấu Cu-dơ-nét-xốp không nhìn thấy, có lẽ chúng đi theo sau xe tăng.
Những bó tia lửa phụt ra từ các xe đang cháy bị gió cuốn lên bờ khe, tắt lụi trong gió tuyết mịt mù thổi sát đất; những mảnh tuyết nhọn hoắt và những ngọn lửa cháy lặng lẽ gở lạ đó trong thảo nguyên làm cho mắt cay xè. Ba chiếc xe tăng hãy còn bốc khói ngay phía trước hỏa điểm của trung đội từ vỏ thép cháy rụi thành than làn khói đặc quánh tuôn xuống đất và khắp nơi bốc lên nồng nặc mùi sắt tây, mùi cao su dìu dịu, mùi thịt người bị thiêu cháy.
Cái mùi lờm lợm gây buồn nồn đó xộc vào mũi làm cho Cu-dơ-nét-xốp tỉnh hẳn. Anh nôn ọe hồi lâu, nằm vắt mình qua bờ công sự, nghẹt thở, ho nhưng dạ dày trống rỗng, không thấy dễ chịu vì những cơn nấc làm thắt cả ngực lẫn họng. Sau đó anh lau môi, tụt khỏi bờ công sự, hoàn toàn không ngượng ngùng vì U-kha-nốp và anh em pháo thủ đã thấy được sự yếu đuối của anh, điều ấy chẳng có ý nghĩa gì.
Giờ đây hình như một người nào khác đã cảm nghĩ và làm tất cả những gì Cu-dơ-nét-xốp đã nghĩ và đã làm, anh đã mất đi những cảm giác trước đây,-tất cả đã thay đổi, bị đảo lộn trong ngày hôm ấy, tất cả đều đã được đo bằng những thước đo khác với hôm trước. Có cảm giác như tất cả đều bị bóc trần trụi hết mức.
-Tôi chịu không thể,-Sau cùng Cu-dơ-nét-xốp khẽ thốt lên.-Ruột gan cứ như bị lộn trái ra.
Vẫn chưa hiểu nổi sự im lặng đan lan tới trung đội, anh đưa tay xoa lồng ngực bị siết chặt một cách vô ích sau những quai da đeo chéo, đưa mắt nhìn anh em pháo thủ hầu như tai đã bị ù đặc khi chiến đấu.
Thượng sĩ U-kha-nốp ngồi trên mặt bằng hỏa điểm, mệt lả đến cùng cực, ngả đầu vào vách công sự, cặp mắt bất động hé mở tựa hồ như anh ngủ mà không nhắm mắt. Nửa giờ trước đây, sau khi Nết-trai-ép la lên rằng đạn đã hết, anh đã cất tiếng cười vang một cách lạ lùng, sụp xuống đất gần khẩu pháo và cứ ngồi như vậy với nụ cười vô nghĩa, chiếc ống nhòm lủng lẳng trên chiếc áo bông mở phanh, mắt đờ đẫn nhìn về phía chân trời rực lửa, nhìn những đường đạn thưa thớt ở phía bên kia sông nơi cuộc chiến đấu đã chuyển sang.
Nòng pháo nóng bỏng vì bắn nhiều tóe ra những tia lửa xanh lè, giống như những con đom đóm, bay đi và tắt lụi trong bóng đêm, những mảnh tuyết rơi lanh canh xuống lá chắn.
-U-kha-nốp!... Cậu có nghe thấy không?-Cu-dơ-nét-xốp gọi khẽ.
U-kha-nốp không nghe rõ tiếng gọi đó vì cũng bị ù tai lúc chiến đấu, anh rời cặp mắt dửng dưng khỏi đám cháy ở chân trời, nhìn Cu-dơ-nét-xốp hồi lâu rồi uể oải đưa một tay lên khoanh một vòng tròn trong không gian và Cu-dơ-nét-xốp gật gật mái đầu đang ong ong của anh như một người say rượu.
-Có thể nghe được,-anh đáp. Và anh thong thả liếc nhìn anh em pháo thủ, có ý tìm hiểu qua nét mặt xem họ có hiểu rằng cuộc chiến đấu dẫu sao cũng đã kết thúc rồi không.
Trong bảy anh em pháo thủ ở đây chỉ còn lại có hai người là Nết-trai-ép và Tri-bi-xốp, cả hai đã kiệt sức đến cùng cực, sau nhiều giờ chiến đấu, đã mất hẳn cảm giác hiện thực, thể lực suy sụp đến tột độ, họ không hỏi gì và cũng không nghe thấy gì cả. Trắc thủ Nết-trai-ép vẫn không rời khỏi kính ngắm, anh quỳ trước ống kính, trán tựa vào khuỷu tay gấp lại, ngáp đến sái cả quai hàm: “Á-á-á-á…”. Tri-bi-xốp nửa nằm nửa ngồi ở phía bên kia ổ nạp đạn, co ro, rụt đầu trong áo choàng, chỉ trông thấy một phần má bác râu ria lởm chởm, màu lơ xám, bẩn thỉu nhô ra khỏi cổ áo và chiếc mũ lót, miệng bác bật ra những tiếng phì phò mệt mỏi đều đều, rền rĩ, tựa hồ như bác cũng không thở được.
-Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, tôi kiệt sức rồi…
Cu-dơ-nét-xốp nhìn Tri-bi-xốp đang nhắc lại những tiếng lảm nhảm đó như lời cầu kinh khi bất tỉnh nhân sự; anh cảm thấy mình bắt đầu bị cóng: quần áo lót dính chặt vào người, chiếc áo va rơi đã không còn ấm áp nữa, gió luồn qua áo choàng. Tiếng ngáp ngột ngạt của Nết-trai-ép, gió thổi lạnh buốt pha lẫn với mùi thịt cháy hăng hắc vẫn còn đọng trong không trung làm cho quai hàm anh co lại. Anh kinh tởm nuốt nước bọt, bước lại gần Tri-bi-xốp, khẽ hỏi:
-Bác Tri-bi-xốp, bác không ốm đấy chứ? Bác thấy trong người như thế nào?-Và anh bẻ cổ áo choàng che mặt cho bác.
Đôi mắt tròn xoe vì bất ngờ sợ hãi ngước nhìn lên như cái nhìn của kẻ bị săn đuổi nhưng lập tức mắt bác nhấp nháy, bác đã nhận ra Cu-dơ-nét-xốp, trông có vẻ tỉnh dần và những tiếng thét của Tri-bi-xốp vang lên làm cho chính bác cũng hết sức phấn khởi:
-Tôi khỏe, khỏe, đồng chí trung úy! Tôi vẫn đứng vững. Vì Chúa, xin đừng nghi ngại! Tôi phải đứng dậy à? Không à? Đứng dậy à? Tôi có thể bắn được…
-Chả có gì mà bắn,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên, lờ mờ nhớ lại hình ảnh Tri-bi-xốp lúc chiến đấu-những động tác của bác ở ổ nạp đạn khi kéo giật tay cò về phía sau, bộ mặt bối rối như thể chả còn chút sinh khí cuối cùng, khuôn trong lần mũ lót mà bác chưa hề tháo ra từ lúc hành quân và đồng thời cả tấm lưng của bác co rúm lại như thể sẵn sàng đón nhận điều khủng khiếp. Có lẽ bác nạp đạn không kém và cũng không hơn những người khác nhưng tấm lưng đó của bác đập vào mắt Cu-dơ-nét-xốp, làm nhói lên trong lòng anh một nỗi thương xót độc hại và khiến cho anh lúc nào cũng muốn la lên: “Sao bác cứ co ro thế, để làm gì hả?”-Nhưng lúc nào anh cũng nhớ rằng Tri-bi-xốp gấp đôi tuổi anh và có năm con.
-Lúc này thì chấm dứt rồi, bác Tri-bi-xốp ạ, bác hãy nghỉ ngơi đi.-Cu-dơ-nét-xốp nói và anh quay người đi, ngực thắt lại vì buồn nôn, đau đớn lặng người đi vì sự trống rỗng câm lặng ở xung quanh…
Đây là khẩu pháo duy nhất còn nguyên vẹn của cả trung đội hết sạch cả đạn và số phận đã mỉm cười với bốn người trong đó có cả anh, những người đã ngẫu nhiên may mắn sống sót qua suốt một ngày đêm chiến đấu liên tục, sống lâu hơn những người khác. Nhưng không thấy niềm vui sướng. Rõ ràng là bọn bọn Đức đã chọc thủng tuyến phòng ngự, cuộc chiến đấu hiện đang diễn ra ở hậu phương, sau lưng họ; trước mặt họ vẫn là những chiếc xe tăng Đức đã ngừng tiến công vào lúc chiều tối, còn họ thì chẳng còn một trái đạn nào. Sau tất cả những gì anh đã phải trải qua trong suốt một ngày đêm đó, anh, như bị bệnh, đã vượt qua một cái gì đó-và cái cảm xúc mới mẻ, hầu như có tính chất tiềm thức đó đã đẩy anh tới trạng thái căm thù say sưa, có sức hủy diệt, tới trạng thái khoái trá vì sức mạnh của mình mà anh đã trải qua khi anh bắn vào những chiếc xe tăng và thấy chúng bốc cháy.
“Cứ như là mê sảng ấy. Đã xảy ra một điều gì đó trong lòng mình,-Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên nghĩ.-Chừng như mình lấy làm tiếc là cuộc chiến đấu đã kết thúc. Nếu như mình không nghĩ rằng chúng nó có thể giết mình thì có lẽ mình đã bị giết thật rồi! Hôm nay hoặc ngày mai…”. Ý nghĩ đó khiến anh nhếch mép cười, anh vẫn còn chưa đủ sức kiềm chế tình cảm mới đó ở trong mình.
-Trung úy!... Trung úy! Chúng mình sẽ sống hay sẽ chết như những con rệp, hả trung úy? Tôi đói mềm cả người!
Thượng sĩ U-kha-nốp kêu lên như vậy. Anh giật chiếc ống nhòm vô tích sự đeo ở cổ ra, quẳng nó lên bờ công sự rồi cài khuy áo bông lại, vươn người dậy, đi vòng kiềng lảo đảo, chiếc ủng nọ đá vào chiếc kia. Rồi anh suồng sã hích chân vào chiếc ủng của Nết-trai-ép vẫn đang co giật vì ngáp như ban nãy,-anh ta vẫn ngồi trước kính ngắm, trán tì vào cẳng tay.
-Sao mà ngáp dữ thế, chú lính thủy? Hãy chấm dứt công việc vô ích đó đi?
Nhưng Nết-trai-ép vẫn không rời trán khỏi căng tay, không đáp, tiếp tục ngáp không ngừng: anh đương ở trong trạng thái mơ mơ màng màng rất nặng, tiếng động cơ xe tăng vẫn dai dẳng rền vang trong tai anh, những vầng lửa nóng ran đỏ như máy bay vun vút từ bóng đêm hiện ra trong kính ngắm làm lóa mắt anh, mồ hôi ở mi mắt khiến anh ngắm không rõ và khi bắn mỗi phát súng, phơi mình trước cái chết, tay anh lại hối hả túm lấy, vuốt ve, căm ghét bánh lái kính ngắm. Sau nhiều giờ ngồi bên kính ngắm, anh đã hít phải nhiều khói súng và bây giờ anh bị thiếu dưỡng khí. Cố nhiên đây cũng là chuyện thần kinh.
-Giá bây giờ mà kể chuyện gì đó về đàn bà cho anh chàng ở Viễn Đông này nghe thì lập tức hắn vểnh ria ra tứ phía ngay,-U-kha-nốp nói một cách hiền lành và hích mạnh chân vào ủng của Nết-trai-ép.-Cậu có nhận ra mình không. Nết-trai-ép? Đứng dậy! Đàn bà đang đi từng đàn ở quanh đây kia kài!
-Đừng động đến cậu ấy, U-kha-nốp,-Cu-dơ-nét-xốp mệt mỏi buông xõng.-Cứ để cậu ấy ngồi. Đừng động đến ai cả. Cậu ở đấy nhé.-Và anh máy móc chỉnh lại bao súng ngắn đeo ở bên sườn.-Mình sẽ trở lại ngay. Mình đi quanh trung đội đây, nếu như bọn Đức không bò tới đó. Mình muốn đi xem tình hình thế nào.
U-kha-nốp vỗ bao tay vào nhau, giật giật đôi vai xo.
-Cậu muốn đi xem những ai còn lại à? Không còn một mống nào đâu. Chúng mình bị lọt thỏm trong vòng vây của xe tăng Đức, chúng mình ở đây, còn bọn chúng ở đằng kia. Chúng nó đã thọc sâu được vào bên phải và bên trái. Tình hình là thế này trung úy ạ: bọn Đức bị bao vây ở Xta-lin-grát, còn bọn mình thì bị vây ở đây. Một ngày vui đấy chứ hả? Người ta bảo không có địa ngục. Láo toét! Trung úy ạ, nói chung, chúng mình gặp may nhiều lắm đấy!-U-kha-nốp nói, tựa hồ như vui lên vì sự may mắn ấy.-Phải cầu nguyện mới được.
-Cầu nguyện ai?-Cu-dơ-nét-xốp lại quay nhìn Nết-trai-ép và Tri-bi-xốp đang nằm đờ ra ở hai bên càng pháo rồi nói thêm:-Nếu ban đêm xe tăng địch tới đây, chúng sẽ nghiến nát bọn mình trong tay không còn một quả đạn, chỉ năm phút. Mà rút đi đâu? Cậu hãy cầu nguyện số phận để xe tăng chúng đừng tới đây…
-Đúng thế,-U-kha-nốp cười khanh khách và lập tức kìm ngay tiếng cười của mình lại:-Anh đề nghị cái gì hả trung úy?
-Mình đi xem các khẩu pháo thế nào. Sau đó ta sẽ quyết định.
-Ta quyết định à? Anh sẽ quyết định cùng với tôi à? Thế Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Anh chàng đại đội trưởng của chúng mình đâu? Chỗ liên lạc với đài quan sát ở đâu?
-Tôi sẽ cùng với cậu quyết định. Chứ còn với ai nữa!-Cu-dơ-nét-xốp xác nhận.-Sao cậu cứ nhìn mình thế? Chưa rõ à?
-Chúng ta sẽ tới chỗ các khẩu pháo.-U-kha-nốp quàng súng tiểu liên qua vai.-Rồi sẽ thấy. Nhưng dù sao thì cũng đã rõ rồi: đi xem hay không thì chúng ta cũng đã bị bao vây. Chỉ còn có điều này là chửa rõ. Ở phía trước mặt chúng ta, cách làng chừng bảy trăm mét hình như không có bọn Đức.
-Chúng đã chiếm được làng rồi, chúng còn cần quái gì đến cái thảo nguyên trần trụi này! Với lại bảy trăm mét đối với xe tăng có nghĩa lý gì! Chắc chúng nghĩ rằng chẳng còn ai sống sót ở đây. Nhất là khi chúng đã sang được bờ sông bên kia.
-Dẫu sao cậu cúng là tay kỳ quặc thật đấy, trung úy ạ, nhưng không sao. Có thể chiến đấu cùng với cậu được.
-Nghe cũng thú vị đấy. Cậu hãy nói nữa đi! Thêm một lời khen nữa là mình sẽ tan biến ra mất…
-Được thôi. Đồng ý. À này, thế còn cô gái của chúng ta thế nào nhỉ? Cô ấy đâu? Còn sống không?
-Ừ, đúng rồi. Cô ấy ở trong hầm đất với thương binh. Cô ấy đã kéo thương binh từ chỗ khẩu pháo của cậu đấy. Cậu không để ý à?
-Ngoài xe tăng ra tôi chả trông thấy gì cả. Và cũng chả suy nghĩ gì cả…
Khi họ rời khỏi hỏa điểm và rảo bước trong hào giao thông, sự yên tĩnh đó nặng như chì đè lên đầu họ. Cu-dơ-nét-xốp là ngươì đầu tiên dừng lại, anh lắc lắc màng nhĩ như khi lội xuống nước vậy-tiếng ong ong cứ rền rĩ mãi trong tai anh. Cả U-kha-nốp cũng bất chợt dừng lại ở đằng sau. Tiếng áo quần sột soạt, tiếng chân bước lặng hẳn đi. Một tràng súng máy đơn độc vang lên ở sau lưng, về phía quầng sáng, càng làm nổi rõ thêm sự im ắng nặng nề, khó tin đó. Rồi tất cả im lìm, chết lặng trong bóng đêm. Chỉ có giọng nói của U-kha-nốp phá tan sự tĩnh mịch trong lúc tai Cu-dơ-nét-xốp vẫn ong ong:
-Cậu thấy gì thế, trung úy? Một xạ thủ súng máy Đức ở sau lưng à?
-Tai cậu có ong ong lên không hả, U-kha-nốp?-Cu-dơ-nét-xốp do dự bỏ mũ lông ra, nghĩ rằng mình đã bị ù tai hoàn toàn-Cậu nghe thấy gì thế?
-Tiếng dế kêu ở trong đầu, trung úy ạ. Do bắn nhiều quá đấy…
-Có thế thôi à?
-Tôi thấy là cuộc chiến đấu ở bên kia sông đã chấm dứt. Chả lẽ chúng nó đã đột nhập được vào sâu hơn à?
-Khắp nơi im ắng.
-Im như chết,-U-kha-nốp nói.-Hình như chúng đã đẩy lùi quân ta đến tận Xta-lin-grát, đã chọc thủng mặt trận, chỉ có chúng mình thì tớt lại đây… Anh hãy nhìn về phía Đông Bắc mà xem, trung úy. Lửa cháy phía trên Xta-lin-grát. Cách đây chừng ba chục ki-lô-mét.
-Khoan đã!... Cậu hãy nghe mà xem…-Cu-dơ-nét-xốp áp mình vào bờ lũy, thận trọng vươn mình ra.-Hình như ở đằng trước có ai kêu… Hay đó chỉ là do tai mình?
Anh đã nghe thấy tiếng người kêu ở đâu đó sau các đường hào giao thông ở trên đồi, tiếng kêu lặng đi ngay trong bầu không khí tĩnh mịch, giữa đám tuyết đỏ lòe. Cu-dơ-nét-xốp nín thở, không đội mũ, lắng nghe qua tiếng ong ong trong tai, anh nhìn vào quầng sáng lóe lên trên bờ sông bên kia giữa cảnh im lặng khó hiểu, nhìn bầu trời sáng lờ mờ phía trên Xta-lin-grát ở mạn Đông Bắc, những đống lửa khét lẹt mùi gỉ sắt rải rác trên thảo nguyên: lửa, gió, những mảnh tuyết, những hình bóng lờ mờ gở lạ, của những chiếc xe tăng và xe bọc thép đang cháy ở trên đồi.
-Không có lẽ nào chúng lại đã chọc tới được Xta-lin-grát,-Cu-dơ-nét-xốp nói khẽ.
Hình như anh đã tưởng tượng ra tiếng người kêu. Sau cùng anh lấy lại hơi. Không nơi nào có tiếng súng bắn. Không một động tĩnh. Không một âm thanh. Tưởng chừng như toàn bộ mặt trận đã chết lặng, trút hơi thở cuối cùng và lạnh cóng trước những cơn gió man rợ, mặt đất giờ đây như một bãi sa mạc dưới quầng sáng không sinh khí. Còn họ, hai người ở đây và hai người nằm lại bên khẩu pháo sau lưng họ, mệt mỏi, bất lực bốn người cả thẩy, còn lại trên đời giữa chết chóc trống trải. Đêm tháng Chạp lạnh giá, im lìm, chết lặng làm cho Cu-dơ-nét-xốp khó chịu và anh nhăn nhó mỉm cười, nói:
-Chắc mình tưởng tượng ra…-Anh đội mũ lên đầu,-Cậu nói đúng: trong tai như có tiếng dế kêu.
Họ lại bước đi trong hào giao thông. Lại vang lên tiếng bước chân, tiếng áo quần sột soạt, dù sao đó cũng là dấu hiệu của sự sống.
-Nếu chúng mình bắt đầu có ảo giác thì tức là công việc của chúng ta không ổn, trung úy ạ.,-U-kha-nốp cười vang.-Vả chăng cũng có thể là một tên Đức bị thương kêu la chứ. Hay một cậu trong anh em bộ binh của mình.
-Mình nghĩ là chẳng mấy ai trong đội cảnh giới chiến đấu còn ở lại. Vì xe tăng của chúng đã chà sát suốt một ngày chắc phải rút đi rồi chứ…
-Đồng ý với trung úy. Đồng chí phải liên lạc với đài quan sát chứ. Có thể Đrô-dơ-đốp-xki vẫn giữ được liên lạc với cấp trên.
-Bọn mình sẽ đi quanh trung đội để xem xét rồi sau ta sẽ bàn xem nên làm gì,-Cu-dơ-nét-xốp nói và sau khi bước thêm mấy bước trong hào giao thông, anh thốt lên bằng giọng khác lạ:-Khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp… Có một điều mình không hiểu là tại sao họ lại không nhận ra chiếc xe tăng đó?
-Tôi cũng không hiểu. Tôi nã súng vào nó khi trông thấy nó đã áp sát ngay phía trước công sự,-U-kha-nốp đáp.-Hình như tất cả mọi người ở đó đều đã bị thương trước khi xe tăng địch thọc vào.
-Mình đã trông thấy cậu nổ súng.
Họ tới gần hơn.
Đó là nơi trước đây được gọi là hỏa điểm của khẩu pháo thứ hai, do hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp chỉ huy, sáng nay Cu-dơ-nét-xốp đã bắt đầu tham gia chiến dịch ở đây, trong đợt tiến công đầu tiên của xe tăng địch. Nhưng lúc này không thể gọi nó là một vị trí pháo binh được. Chiếc xe tăng to lớn đã cháy thành than đen ngòm sau khi nó đã dùng xích sắt hất tung khẩu pháo lên, làm cho khẩu pháo bẹp dí, cong queo ở đây. Xác chiếc xe tăng địch nhô lên một cách xa lạ và gớm ghiếc giữa những bờ công sự bị cày nát, những chiếc ủng vương vãi trên mặt đất, những mảnh áo choàng, áo lông, những hòm đạn gãy vụn tan tành. Không ai kịp chạy khỏi khẩu pháo…
Tất cả đều đã bị cong queo, cháy rụi, chết lặng mùi gỉ sắt hăng hắc, mùi thuốc súng trộn lẫn với đất và tuyết, mùi sơn bốc lên nồng nặc. Gió rít lên man rợ, thốc qua những lỗ thủng của chiếc lá chắn bị xé đứt một nửa, xoắn lại như những cái vòng xoáy trôn ốc từ lâu đã đông cứng băng giá và cứ mỗi khi tấm lá chắn rách đó chạm vào chiếc xích xe tăng cuốn đầy những giẻ rách bẩn thỉu lại khẽ kêu lên ken két làm người ta cảm thấy ớn lạnh ở sống lưng.
Và từ khối sắt đen ngòm của chiếc xe tăng bị cháy ngập trong băng giá, từ khẩu súng bị nghiền nát toát ra cái lạnh lẽo ghê rợn của chết chóc đến mức làm cho người ta sởn gai ốc.
“Mọi việc đã xảy ra ở đây như thế nào nhỉ? Tại sao họ lại không kịp bắn?”.
Cu-dơ-nét-xốp thấy cổ họng nghẹn lại, anh cảm thấy mình có lỗi-tại sao lúc đó mình lại rời khỏi khẩu pháo?-anh muốn hiểu rõ những giây phút hiểm nguy đó đã xảy ra như thế nào, những giây phút mà anh cùng với Dôi-a từ các vị trí của Đa-vla-chi-an bắn vào các xe tăng, anh cố hình dung xem vào những giây phút cuối cùng trước khi chết họ có định bắn không, cố hình dung khuôn mặt của họ, động tác của họ vào lúc mà khối xe tăng bốc cháy đã chồm qua bờ công sự.
o0o
Anh chỉ nhìn thấy cái chết của anh em pháo thủ từ xa và anh đã không thể làm gì được. Những giây phút chớp nhoáng đó đã xóa khỏi mặt đất tất cả những người đang nằm ở đây, anh em trong trung đội của anh, những người mà anh chưa kịp hiểu biết kỹ càng: hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp, cái cổ ngẳng thơ ngây như một thân cây hướng dương, cử chỉ con trẻ khi anh vội vã lau mắt: “Mắt tôi đầy đất rồi!”, trắc thủ Ep-xtích-nê-ép chính xác một cách tháo vát, tấm lưng chậm chạp bình tĩnh, dòng máu ngoằn ngoèo rỉ ra ở gần tai bị ù đặc vì tiếng nổ: “Hô khẩu lệnh cho tôi to hơn, đồng chí trung úy, to nữa lên!...”
Anh hãy còn nhớ cái nhìn của họ, giọng nói của họ, những giọng nói đó còn văng vẳng bên tai anh như thể cái chết của họ đã đánh lừa anh và anh phải được gặp lại họ, nghe họ nói… Và tưởng như điều đó phải xảy ra vì rằng anh chưa kịp gần gũi họ, chưa kịp hiểu biết từng người, mến yêu họ…
Mặt và cánh tay Cu-dơ-nét-xốp đã tê cóng và hầu như anh đã tự phán xét mình một cách thậm tệ về những việc đã xảy ra mà lúc ấy anh đã không đủ sức ngăn ngừa, chặn đứng lại, anh muốn biết những chi tiết cuối cùng xảy ra ở đây, họa chăng có thể giải thích rõ tất cả.
Nhưng những gì anh nhìn thấy trên hỏa điểm này,-những gì còn sót lại của anh em pháo thủ chỉ còn có thể đoán ra một cách mơ hồ qua đống đất ngổn ngang sẫm màu và không cần phải chôn cất nữa-quang cảnh đó đã dìm anh vào cái im lìm chết lặng. Không ai có thể trả lời, ngoài họ. Nhưng họ không còn nữa… Chỉ còn tiếng lanh canh ken két khe khẽ của lá chắn khẩu pháo đã bị xoắn lại va vào xích sắt xe tăng mỗi khi có cơn gió thoảng qua. Cu-dơ-nét-xốp ngẩng khuôn mặt lạnh cóng lên. Bất ngờ tiếng xẻng chan chát vang lên sau lưng anh. Giữa cảnh tĩnh mịch tiếng xẻng vang lên rành rọt, rõ ràng. Bóng U-kha-nốp thẫm đen dưới quầng sáng, anh đang lúi húi dùng xẻng đào đất trong hốc để đạn trái phá.
Cu-dơ-nét-xốp lặng lẽ lại gần và nhìn. U-kha-nốp đã bới được trong hốc đất một xác người nằm sấp, dang hai tay túm chặt lấy một vật gì đó ở dưới mình, chiếc áo choàng trên lăng bị rách tung: chắc là một loạt đạn súng máy của xe tăng địch đã nã thẳng vào người anh ta.
-Ai thế?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi giọng khàn khàn.-Ai thế, U-kha-nốp?
U-kha-nốp lặng lẽ túm lấy vai xác chết đã cứng đơ và kéo ra khỏi một vật gì dẹt màu xám, quay mặt lên. Không thể nhận được mặt người chết bị một mảnh đạn đông cứng dính chặt. Cái vật dẹt và xám đó là hòm đựng đạn.
-Người tiếp đạn,-U-kha-nốp nói rồi hắng giọng cắm chiếc xẻng gần hòm đạn.-Bị một loạt đạn vào lưng… hình như lúc cậu ấy đang lấy đạn. Chỉ có một điều tôi không hiểu được, trung úy: tại sao họ lại để cho chiếc xe tăng địch lọt vào hay là trước đó mọi người đều đã bị thương?-Anh hất đầu về phía chiếc xe tăng.-Hãy còn đạn cơ mà! Như vậy là họ hãy còn đạn! Mà Tru-ba-ri-cốp và Ep-xtích-nê-ép bắn rất cừ. Và chiếc xe tăng lúc ấy đã bốc cháy!...
Cu-dơ-nét-xốp sửng sốt trước sự tức giận, sự phủ nhận nào đó, sự bất đồng tàn nhẫn trong giọng nói của U-kha-nốp, như thể họ, những người không còn có thể trả lời anh ta nữa, có lỗi về cái chết của chính mình, còn anh ta. U-kha-nốp, hình như không muốn tha thứ cho sự hy sinh của tất cả anh em pháo thủ ở đây đã bị xe tăng nghiền nát.
Cu-dơ-nét-xốp nói giọng khàn đặc:
-Chúng mình không biết sự việc đã xảy ra ở đây như thế nào. Kết tội ai?
-Tôi không thể tha thứ cho mình được.-U-kha-nốp nhắc hòm đạn khỏi mặt đất, dùng sức ném nó lên bờ công sự.-Lẽ ra tôi phải tống cho nó thêm một quả đạn thứ hai nữa! Nhưng đúng lúc ấy bầy xe tăng địch đã lao vào chỗ tôi! Nhưng dẫu sao tôi cũng đã trông rõ chiếc xe tăng này như trong lòng bàn tay, nó phơi sườn về phía tôi rất rõ.-Anh bước ra khỏi hốc đất nhìn thiếu tá hài sẫm màu của người tiếp đạn nằm trên mặt đất.-Cám ơn anh em đã cho tôi đạn. Chôn cậu ta ở đây hả trung úy?
-Trong hốc đất ấy,-Cu-dơ-nét-xốp đáp.-Tôi ghé qua chỗ khẩu pháo của Đa-vla-chi-an…
Tại vị trí của trung đội hai, tất cả cũng bị cày xới tơi tả, ngổn ngang, khắp nơi là những hố bom hình phễu há miệng đen ngòm, tiếng mảnh đạn lạo xạo dưới chân-vị trí này không còn tồn tại nữa, chỉ còn lại những bờ công sự bị cày nát, những vỏ đạn vương vãi và một khẩu pháo bị vỡ hộp chống giật mà Cu-dơ-nét-xốp đã dùng để bắn, đánh dấu cái hỏa điểm hoang vắng, bị bỏ lại và im ắng vô chừng. Chiếc hầm thông tin ở đằng sau khẩu pháo, nơi Cu-dơ-nét-xốp đã nhảy vào lúc địch ném bom để tìm chiến sĩ giữ điện thoại Xvi-a-tốp đã bị đạn nổ phá hủy một nửa. Khi đi ngang qua, Cu-dơ-nét-xốp lấy chân chạm vào một sợi dây đứt và anh bỗng thấy tim mình nhói lên khi cảm thấy sợi dây đàn hồi, giờ đây trở nên vô ích bám lấy chân anh.
Anh nhận thấy điều khủng khiếp nhất lúc này không phải là những gì anh đã trải qua trong suốt cuộc chiến đấu hôm nay mà là sự trống trải, cô đơn đang tới gần anh, là sự im lặng kỳ quái trùm trên trung đội, tựa hồ như anh đang đi giữa một nghĩa địa chi chít mồ mả, và quanh anh không còn ai ở trên thế gian này nữa.
Anh rảo bước trở lại khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp, muốn mau chóng gặp và nghe U-kha-nốp nói, cần phải cùng với anh ta quyết định xem sắp tới họ phải lần lượt làm những gì: chuyển đạn, thử bắt liên lạc với đài quan sát, đi tìm Dôi-a xem cô thế nào, anh em thương binh ở trong hầm ra sao, Đa-vla-chi-an và những người khác…
Không thấy U-kha-nốp ở trên hỏa điểm bị chiếc xe tăng to lớn cháy rụi che khuất, cũng không thấy anh ta ở gần hốc đất. Ở đây gió rít lên lùa qua những lỗ thủng kim loại và chiếc xẻng từ mô đất gồ ghề trong hốc đất nhô cán nghiêng lên như dấu hiệu khủng khiếp của sự cô đơn-đó là nấm mồ của người chiến sĩ tiếp đạn khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp.
-U-kha-nốp!...
Không có tiếng trả lời. Cu-dơ-nét-xốp gọi kiên quyết hơn:
-U-kha-nốp! Cậu có nghe thấy không?...
Tiếp đó tiếng thét trả lời vang lên từ đâu đó phía sau bờ công sự:
-Lại đây trung úy! Lại đây với tôi!
-Cậu ở đâu đấy, U-kha-nốp?
Để đề phòng bất trắc, Cu-dơ-nét-xốp mở khuy cài bao súng, leo qua bờ công sự, đi về phía có tiếng trả lời giữa những hố đạn sâu dày đặc. Im lặng. Không có một quả pháo sáng nào bay lên. Thảo nguyên phía trước trung đội, với những đám lửa rải rác, chạy dài tới lòng khe, tưởng như chạy dài tới cùng trời cuối đất; gió cuốn đi hơi nóng hăng hắc của sắt bị nung cháy và khó tin được đằng sau bờ công sự lại là khoảng không gian do ai chiếm cả. Ở phía trước mặt, trên nền tuyết sáng lờ mờ thấp thoáng hình bóng của U-kha-nốp khi ẩn khi hiện ở gần bóng mấy chiếc xe tăng bị bắn cháy.
-Cái gì đó thế, U-kha-nốp?
-Ra mà xem bọn Đức bị chết này trung úy!...
Tuyết vụn như lột bám trắng cả chân và phủ một lớp mỏng lên những cái rãnh do xích xe tăng xới lên. Và mãi đến lúc này, khi đã đi cách xa các khẩu pháo của mình, Cu-dơ-nét-xốp mới nhìn thấy xác mấy tên Đức bị chết trong những tư thế khác nhau, vào lúc chúng định bò ra, chạy xa chiếc xe tăng bị bắn cháy. Những cái xác đó ánh hồng lên dưới quầng sáng, đông cứng lại như những súc gỗ lăn lóc trên tuyết; có thể phân biệt được những chiếc áo liền quần đen sẫm trên người chúng.
Cu-dơ-nét-xốp bước thêm mấy bước nữa và với sự tò mò bướng bỉnh, không cưỡng được, khó hiểu đối với chính mình, anh nhìn vào mặt tên bị giết đầu tiên. Tên Đức nằm ngửa, ngực ưỡn lên một cách không tự nhiên, hai tay kẹp chặt lấy bộ áo liền quần, dưới tay nó có một vật gì đen đen bóng loáng, bị đóng băng mà Cu-dơ-nét-xốp không đoán ra ngay, đó là chiếc mũ da đẫm máu. Đầu kẻ bị giết để trần, ngã vật ra đằng sau đến nỗi cái cằm của nó vểnh lên nhọn hoắt, bị phủ một lớp băng, những sợi tóc như những sợi chỉ bị băng giá dính xuống tuyết, khuôn mặt trắng trẻo, trẻ trung ngếch lên trời, cứng đờ, nhăn nhó, ngạc nhiên, tựa hồ như môi nó mấp máy định huýt sáo hoặc kêu lên, còn phía bên trái khuôn mặt cứng đơ như thạch cao đó không bị tuyết phủ, màu xanh nhạt, hốc mắt sâu mở to trong nỗi khiếp sợ cuối cùng, phản chiếu ánh sáng, lóe lên như một đốm lửa nhỏ bằng thủy tinh.
Cứ nhìn những chiếc lon hẹp óng ánh bạc thì đó là một tên sĩ quan. Cách nó ba bước chân là một hố đạn đào sâu xuống tuyết; những mảnh đạn trái phá nổ tung đã rơi trúng bụng ỵ.
“Ai giết hắn: mình hay U-kha-nốp? Quả đạn này là của ai? Của mình hay của cậu ấy? Tên giặc nghĩ gì, ước mong gì khi ra trận?”-Cu-dơ-nét-xốp tự hỏi, đưa mắt nhìn kỹ khuôn mặt tên Đức trông như một đứa trẻ sững lại trong vẻ khiếp sợ kinh hoàng đó. Anh cảm thấy mình không hiểu được điều bí ẩn xa lạ, khó đoán, cảm thấy cái tử khí khô khốc đanh cứng như kim loại. Tên Đức này có lẽ đã hấp hối một cách đau đớn, bao súng ngắn của nó đeo ở bên sườn vẫn còn cài khuy kín.
Đã nhiều lần, trong những trận chiến đấu đầu tiên ở Rô-xláp, Cu-dơ-nét-xốp đã hình dung mình chết như thế này: anh tưởng tượng như có một tên Đức nào đó bước lại gần, lấy giày hất xác anh một cách ghê tởm và thô bạo và lúc nghĩ như vậy, anh chỉ mong ước một điều là bị trúng đạn vào đầu, vào thái dương. Điều anh sợ hơn cả là khi bị thương trên mặt, sự nhăn nhó đau khổ sẽ hằn in trên mặt, mồm nhe ra như con thú vì khiếp sợ, những cái thường thấy trên mặt người chết và một cái chết như vậy đã hạ thấp con người. Anh tìm lối thoát, tìm sự hỗ trợ ở viên đạn cuối cùng ở viên đạn cuối cùng mà từ dạo đó bao giờ cũng giữ lại trong súng ngắn một cách hầu như mê tín. Như thế yên tâm hơn.
“Sau khi cho xe tăng đột kích, hắn nhảy ra khỏi xe,-Cu-dơ-nét-xốp tưởng tượng khi nhìn xác chết.-Nghĩa là hắn còn chưa tin rằng hắn sẽ bị chết, còn hy vọng sống sót. Thậm chí khi đạn trái phá nổ cách ba bước và mảnh đạn đã văng vào bụng, hắn vẫn còn suy nghĩ, cảm thấy đau và lấy mũ ép vào vết thương”.
Cũng với cảm giác tò mò không cưỡng được, không được thỏa mãn trước câu đó muôn thuở, khó giải thích về cái chết, Cu-dơ-nét-xốp không phải là không do dự cúi người xuống, không tháo găng tay len và bắt đầu mở nắp bao súng đeo, cứng như đá được tuyết làm cho bóng lên, dựng khẩu Pa-ra-ben-lom. Các ngón tay không chịu tuân theo ý muốn của anh trượt trên lớp băng. Không thể mở được khuy bấm và khi khuy bấm tự bật ra, kêu tách một cái, anh rút khẩu Pa-ra-ben-lom nằm khít trong bao và ngửi thấy mùi mỡ tươi đông cứng, gợi nhớ tới mùi mồ hôi người.
“Mới sáng nay tên Đức này cũng như Tru-ba-ri-cốp đều còn sống… Tên Đức lái xe tăng lao tới, giết chết Tru-ba-ri-cốp và tất cả anh em pháo thủ. Rồi một mảnh đạn của mình hoặc của U-kha-nốp đã giết chết tên đức này. Khi bắn, mình căm thù tất cả những chiếc xe tăng này, căm thù tất cả bọn ngồi trên xe tăng… Thế còn tên Đức này?”.
Cu-dơ-nét-xốp nín thở nhìn tên bị giết một lần nữa: khuôn mặt trẻ con hẹp lật nghiêng, méo mó vì đau khổ, vì sự ngạc nhiên cuối cùng trước cái chết; cặp mắt cứng đờ như thủy tinh phản chiếu quầng sáng một cách lờ mờ; hai tay ép chặt chiếc mũ vào vết thương ở bụng. “Nếu có chết thì đừng chết như thế này!”,-Cu-dơ-nét-xốp lại nghĩ và khắc phục sự ghê tởm, đút khẩu Pa-ra-ben-lom nằng nặng vào trong túi: dù sao đó cũng là vũ khí. Anh thoáng liếc nhìn hai tên Đức khác bị giết, có lẽ chúng cùng ở trong cái kíp nhảy từ trong xe tăng ra theo tên sĩ quan nhưng anh không xem kỹ bọn chúng, ra theo tên sĩ quan nhưng anh không xem kỹ bọn chúng.
“Thế là thế nào? Lại một ảo giác chăng?”.
Rõ ràng có tiếng động cơ gào rú, tiếng xích sắt nghiến ken két ở đâu đó xa xa về phía trước, trên đồi vọng tới tai anh, sau đó tất cả lại lặng đi-và lúc này giọng nói của U-kha-nốp lo lắng vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch:
-Trung úy, lại đây, nhanh lên, lại đây!
Cu-dơ-nét-xốp lao về phía trước, tới chỗ ba xác xe tăng bị bắn cháy, nơi U-kha-nốp đứng, nhảy qua những đống đất đông cứng do đạn trái phá nổ hất lên và khi đã chạy lại gần, anh trông thấy, dưới ánh sáng của những đám cháy ở xa, bóng đen lờ mờ của U-kha-nốp ở gần chiếc xe tăng ngoài cùng. Anh hỏi, cố nén hơi thở:
-Gì thế?... Cậu thấy gì thế hả U-kha-nốp?
-Hình như ở đây có người còn sống, trung úy…
Lúc này đã có thể trông thấy U-kha-nốp rất rõ, khẩu tiểu liên sẵn sàng nhả đạn của anh ta đặt trên những mắt xích rộng của xe tăng, dưới chân anh ta có một chiếc va li nhỏ tròn bằng da chẳng hiểu lấy ở đâu, trông giống như một cái ba lô của bọn Đức. U-kha-nốp nhét bao tay vào mép áo bông, thổi phù phù vào các ngón tay để sưởi ấm, đưa mắt liếc nhanh Cu-dơ-nét-xốp rồi nói:
-Anh hãy nhìn về phía đằng trước, chỗ kia kìa. Và hãy lắng nghe mà xem… đấy, chỗ kia kìa, trung úy, nhìn xem, ở chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép bị bắn cháy trên gò đất ấy. Anh không nhìn thấy gì à? Không trông rõ à?
-Mình chẳng nhìn thấy quái gì cả! Hình như có tiếng động cơ.
-Đấy, đấy… Nhìn xem, nhìn xem!... Có ánh đèn pin… đã nhìn thấy chưa?
Không rõ đó là ánh đèn pin hay là ngọn lửa nhỏ từ bật lửa lóe lên nhưng có tia lửa thoáng bùng lên ở phía trước, giữa hai đường viền chết lặng của những chiếc xe vận tải bọc thép trên gò đất phía trước cái khe, sau đó thấy có người nhúc nhích lờ mờ ở phía ấy; mấy bóng người nhòa lẫn trong bóng đêm, đi hàng một trên thảo nguyên, lôi một vật gì đó dài màu sẫm từ những chiếc xe vận tải bọc thép và bóng họ càng hiện ra rõ hơn dưới những hồi quang của ánh sáng.
-Ừ, bọn Đức,-Cu-dơ-nét-xốp thì thào.
-Nhìn xem, nhìn xem,-U-kha-nốp thở phì phò ngay sát tai anh.-Chúng nó làm cái trò gì đó chả biết, lũ khốn kiếp.
o0o
Đốm lửa lại vụt lóe lên một thoáng, bí ẩn, như thể được che trong tà áo choàng và để trả lời ký hiệu đó trong lòng khe có tiếng rú của động cơ, tiếng xích sắt nghiến ken két và một chiếc ô tô chạy bằng xích sắt trông như một vết đen ngòm lặng lẽ bò lên phía những chiếc xe vận tải bọc thép đã bị cháy rụi, dừng lại tắt động cơ. Lập tức mấy bóng người lao về phía xe, mang theo những vật dài sẫm màu lăng xăng bên xe làm cái gì ở đó rồi xếp hàng dọc rời khỏi những chiếc xe bọc thép, đi vòng quanh những bộ khung sắt của xe tăng, cách nhau một khoảng nhất định, khi thì hòa lẫn vào đất, khi thì thấp thoáng hiện ra trên gò cao nhưng không thấy ánh đèn pin lóe lên nữa.
-Này, trung úy, chúng nó đang làm cái trò gì ấy.-U-kha-nốp thở vào vai Cu-dơ-nét-xốp lành lạnh.-Tôi không hiểu nổi. Chúng ta phải làm gì đấy?... Tôi còn nguyên cả một băng đạn. Khẩu tiểu liên bắn chính xác lắm.-Trong bóng tối lờ mờ, mắt U-kha-nốp lướt nhanh trên mặt Cu-dơ-nét-xốp.-Ta để cho nó lại gần rồi cho chúng nó về chầu giời cả đi! Hình như chúng nó có mười thằng.
-Đừng bắn!-Cu-dơ-nét-xốp gạt khẩu tiểu liên của U-kha-nốp ra, ngăn lại.-Khoan đã! Cậu hãy nhìn xem chúng nó đang làm gì… Hay đó là bọn cứu thương hoặc đội chôn cất tử sĩ. Hình như chúng đi lượm xác chết của chúng…
Ngọn lửa nhỏ làm hiệu được che trong cái gì đó lại lóe lên yếu ớt trên thảo nguyên phía trước cái khe, tiếng động cơ vang lên trầm trầm và chiếc xe hình chữ nhật nghiến xích ken két, bò như một bóng đen lên đỉnh gò ở phía bên trái rồi dừng lại; những bóng người lờ mờ thấp thoáng ở phía trước, lặng lẽ, xếp thành hàng dọc chuyển một cái gì đó tới và chết nó lên xe.
U-kha-nốp chống khuỷu tay vào xích sắt xe tăng, nhìn đồng cỏ. Anh vẫn không quên thổi phù phù để sưởi ấm bàn tay.
-Hình như bọn chôn cất người chết. Chúng đi lượm người của chúng,-Anh nói vẻ quả quyết và hỏi:-Thế ta phải làm gì bây giờ, trung úy?
Cu-dơ-nét-xốp chau mày, lắng nghe: không quả quyết lắm rồi nói thêm:-Bọn cứu thương hay bọn chôn cất người chết không phải là xe tăng. Cứ kệ cho chúng nó thu nhặt.-Anh im lặng, trầm ngâm suy nghĩ.-Mặc xác chúng nó! Chúng ta sẽ không nổ súng trước. Ta đi về chỗ khẩu pháo đi.
-Việc quái gì! Chúng nó không ngờ có chúng mình ở đây đâu. Hai loạt đạn-thế là xong! Vị trí của chúng mình tuyệt lắm. Thế nào, hả? Ta nã súng nhé?-U-kha-nốp vẫn cứ nó và nheo mày lại.-Để cho chúng đừng bò vào…
-Mình đã nói là chúng ta sẽ không nổ súng vào bọn đi chôn cất người chết, rõ chưa? Cậu hạ được hai thằng lính đi chôn người chết thì cậu có vì thế mà thắng trận không? Không bắn ở đây thì chúng mình cũng đã không đủ đạn rồi. Cậu tưởng mọi việc đã kết thúc à? Cậu hãy nhìn về phía đằng kia. Về phía ngôi làng ấy. Và nhìn cả phía sau lưng nữa!
-Thôi đừng thuyết phục tôi nữa, trung úy…
U-kha-nốp rút bao tay khỏi bụng, thậm chí cũng không nhìn về phía Cu-dơ-nét-xốp chỉ, không nhìn về phía khu làng ở phía Nam bờ sông đã bị cháy mất một nửa, ở phía trước mặt và bên phải cũng như về phía bờ Bắc cũng đã bị bọn Đức chiếm,-anh đeo bao tay, nói có ý dàn hòa:
-Thôi được, đồng ý. Anh không trông thấy chiến lợi phẩm à?-Anh vỗ vỗ vào dây lưng rộng đeo hai khẩu Pa-ra-ben-lom ở qanh áo bông, túm lấy chiếc túi nhỏ trên mặt đất.-Tôi lấy trên chiếc xe vận tải bị bắn hỏng đấy. Tôi đã mở ra, thoang thoảng mùi xúc xích hun khói. Chả có gì phiền cả. Tặng cho anh đấy, trung úy… vì lòng dũng cảm. Anh hãy cầm lấy quà tặng của người chỉ huy khẩu pháo.
U-kha-nốp cởi dây lưng, tháo chiếc bao bóng loáng dày cộp đựng khẩu Pa-ra-ben-lom nhưng Cu-dơ-nét-xốp ngăn anh lại.
-Cậu hãy tặng cho một pháo thủ. Mình có rồi.-Anh sờ vào khẩu Pa-ra-ben-lom cồm cộm dưới túi áo choàng nhớ tới mùi mỡ buồn nôn giống như mùi mồ hôi người.-Cậu biết không, người ta thường tặng chiến lợi phẩm cho các tay văn thư ở hậu phương. Thôi ta đi.
U-kha-nốp nhếch mép cười:
-Quả thật từ trước đến nay tôi cứ tưởng anh là một bông hoa trinh nữ, một tay trí thức… Thậm chí đôi khi hình như anh đỏ mặt… Té ra anh là người khắc hẳn! Do đâu lại thế hả? Anh đã tốt nghiệp lớp mười phải không? Có thế thôi chứ gì?
-Cứ lải nhải mãi, U-kha-nốp. Ngấy lắm. Cậu muốn mình kể tiểu sử cho cậu nghe à?
-Ông cứ trả lời đi: đã tốt nghiệp lớp mười chưa? Hay là đã học đại học? Lúc ở trường pháo binh chúng mình ở các đơn vị khác nhau, mình chỉ thấy ông từ xa thôi.
-Mình đã tốt nghiệp lớp mười. Còn cậu, hình như…
-Khô-ông, trung úy, lớp bảy thôi, còn ba năm tiếp đó học ở hành lang. Hình như tôi hơn ông ba tuổi.
-Nghĩa là thế nào?
-Tôi đã rời trường trung học. Xoay ra đọc Nat Pin-kéc-tơn và Séc-lốc Hôn-me (Các nhà văn phương Tây chuyên viết truyện trinh thám).-Rồi gặp may. Tôi vào làm việc tại bộ phận điều tra hình sự ở Lê-nin-grát. Ông bác ruột tôi giúp đỡ, ông ấy cũng làm ở đấy. Nói chung đời vui lắm. Đây này, trong một vụ truy lùng bọn cướp, chúng nó đã đập gẫy của tôi chiếc răng này.
-Mình thấy rồi, đời vui thật.
-Ông chớ ngạc nhiên. Nghề nghiệp hiếm có đấy. Tôi đã tiếp xúc với bọn trộm cắp và đủ thứ vô lại. Đối với ông thì đó là khu rừng rậm tối om. Chơi với lửa đấy nhưng thích lắm. Ông không am hiểu cuộc sống ấy đâu!
-Đúng là mình không am hiểu. Thế cậu vướng chuyện gì ở trường pháo binh? Tại sao người ta không phong quân hàm cho cậu?
U-kha-nốp cười vang:
-Ông muốn tin hay không tin thì tùy, trước buổi lễ tốt nghiệp mình đã vượt tường đi chơi, lúc quay về vấp ngay phải tiểu đoàn. Đúng là chạm trán. Ông có nhớ ô cửa sổ ở gần lối ra vào không nhỉ? Tôi chỉ còn việc chui qua ô cửa nhỏ nữa là xong, ấy thế nhưng thiếu tá đã sừng sững trước mặt, như chim ưng rình mồi vậy…
-Trước lễ tốt nghiệp mà cậu lại nảy ra cái ý định vượt tườn đi chơi?!
-Đó là một câu hỏi trẻ con trung úy ạ. Chuyện gì đã qua là đã qua. Nhưng ông có hiểu được tấn hài kịch này không? Tôi đã chui người vào cửa sổ và đáng lẽ chuồn ngay thì tôi lại không thể nhịn được được cười khi trông thấy thiếu tá ở trong tư thế lộ liễu như vậy. Ông ấy trố mắt nhìn tôi, còn tôi thì ông biết không, đứng đờ ra trước ông ta như một thằng ngốc và tôi cười đau cả bụng, chẳng biết làm thế nào kìm được. Tôi đứng trên bậu cửa sổ, mặt thộn ra như một thằng ngốc. Sau đó cố nhiên là tiếng la ó ầm ĩ rồi ông ta dựng Đrô-dơ-đốp-xki dậy-anh ta là một trung đội phó mẫu mực theo đủ mọi ý nghĩa-và thế là tôi đi đều bước đến phòng giam. Ông có tin được không?
-Không.
-Cái đó tùy ông,-U-kha-nốp nói và chiếc răng cửa bịt bạc của anh sáng lên khi anh mỉm cười.
Trên bờ phía Bắc, nơi quầng sáng trên trời nhợt nhạt đi, tắt lụi dần, rền lên mấy phát đại bác liên tiếp, và liền đó là một loạt súng máy của bọn Đức-rồi tất cả lại lặng đi. Không có tiếng súng bắn trả từ phía bờ Nam.
-Tiếng súng bắn từ đâu thế nữa nhỉ?-Cu-dơ-nét-xốp cảnh giác hỏi, im lặng một lát anh lại hỏi như thể tình cờ:-Này cậu nghĩ thế nào về Đrô-dơ-đốp-xki? Đó quả thực là một trung đội phó mẫu mực à?
-Tác phong của anh ta cứ như thần thánh ấy. Một anh chàng thông minh và tôn trọng kỷ luật. Thế tại sao ông lại hỏi, ông có chuyện gì với anh ta à?
Cơn gió mạnh khua những gốc cỏ khô cứng đơ ở gần chân họ và thốc từ những ngọn đồi trên thảo nguyên nơi đội chôn cất của địch đang làm việc, vào lưng họ. Cu-dơ-nét-xốp lạnh cóng, cau có vén cổ áo lên.
-Cậu có biết Xec-gu-nen-cốp đã chết như thế nào không? Thật ngốc nghếch! Thật ngu xuẩn! Mình không thể nghĩ tới chuyện đó được! Mình không thể quên chuyện đó được!
-Cụ thể là thế nào?
-Đrô-dơ-đốp-xki chạy tới chỗ khẩu pháo lúc khẩu pháo tự hành của địch đã bắn vỡ hộp chống giật và ra lệnh cho Xec-gu-nen-cốp dùng lựu đạn tiêu diệt khẩu pháo tự hành đó. Dùng lựu đạn, cậu hiểu không? Mà phải bò một trăm rưởi mét trên quãng đất trống trải. Còn súng máy của địch lia như phát cỏ ấy…
-Hiểu rồi! Tay ấy đã nghĩ ra cách chiến đấu bằng lựu đạn kia đấy! Tôi muốn biết liệu quả lựu đạn đó có thể làm được gì? Chỉ gài được vào xích sắt của nó thôi! Đứng lại, trung úy. Ta lấy đạn…
Họ dừng lại gần chỗ trước đây là trận địa pháo của Tru-ba-ri-cốp và ở đây mùi kim loại cháy lại phả nồng nặc vào người họ và lại phảng phất nỗi buồn, cái chết, sự cô đơn chết lặng do tiếng lá chắn cong queo của khẩu pháo đập vào xích xe tăng dựng đứng kêu ken két, đơn điệu, não nùng trong gió, do khối xe tăng nằm bất động, do cán xẻng cắm đơn độc trên mô đất ở chỗ hốc đất chôn người chiến sĩ tiếp đạn mà họ đã không nhận mặt được. Tuyết đã rắc lên đây những mảng trắng nhưng vẫn chưa phủ kín hết mặt đất đen trần trụi bị đào xới ngổn ngang. Từ sau chiếc cổ áo kéo cao, Cu-dơ-nét-xốp nhìn gió tuyết mù mịt trên càng pháo bị gãy nát, anh nhận ra những vết giày vừa mới đây, rõ nét lạ lùng của U-kha-nốp gần hốc đất, nơi tuyết đã bắt đầu phủ và anh sửng sốt trước màu tuyết trắng dửng dưng kinh khủng đến nỗi môi anh run lên.
U-kha-nốp kêu è è, hất hòm đạn lên lưng. Họ lặng lẽ đi về phía khẩu pháo của mình.