Nguyên tác: The Historian
Số lần đọc/download: 1431 / 21
Cập nhật: 2015-09-18 02:17:31 +0700
Chương 18
N
hững ngày nao nức, thời tiết trong sáng, bao la như bầutrời vùng núi theo chân chúng tôi cùng mùa xuân bước vào đất nước Slovania. Khitôi hỏi cha liệu có đủ thời gian để đến thăm Emona một lần nữa - tôi đã liênkết nơi đó với một giai đoạn trước đây trong cuộc đời mình, một giai đoạn cùngvới một mùi hương khác, và với một khởi đầu, như tôi đã nói trước đây, người tathường cố thăm lại những nơi chốn như vậy - cha đã vội vã trả lời rằng trú lạibên một hồ lớn phía Bắc Emona để cha tham dự hội nghị rồi phải tất bật quay vềAmsterdam trước khi tôi bị tụt hậu so với các bạn là đã quá đủ bận rộn rồi. Mặcdù tôi chẳng bao giờ bị tụt lại nhưng khả năng đó làm cha lo lắng.
Khi chúng tôi đến, hồ Bled rất đẹp. Nước đổ vào một thunglũng thuộc dãy Alps này vào cuối Kỷ Băng Hà và tạo ra nó, một nơi chốn định cưcho những người du mục thuở ấy - họ sống trong những căn nhà mái lá chìa ratrên mặt nước bên hồ. Hiện tại, nó như một viên ngọc bích nằm trong taydãy Alps, mặt nước lóng lánh những gợn sóng bạc trong cơn gió nhẹ cuốichiều. Một vách đá cao hơn những vách xung quanh nhô lên từ một rìa dốc đứng,và trên đó nằm cheo leo một trong những lâu đài tuyệt vời của Slovania, đã đượcngành du lịch trùng tu theo một phong cách thẩm mỹ cực kỳ tinh tế. Các lỗ châumai của lâu đài nhìn xuống một hòn đảo, nơi một kiểu mẫu nhà thờ mái đỏ theo phongcách Áo nổi lên như một chú vịt, tàu thuyền ra vào đảo tấp nập từng giờ. Kháchsạn, như thường lệ, bằng sắt thép và kính, kiểu mẫu số năm của ngành du lịch xãhội chủ nghĩa, và vào ngày thứ hai chúng tôi đã thoát khỏi nó để dạo quanh khuvực hạ lưu của hồ. Tôi nói với cha rằng tôi không nghĩ có thể chờ đợi thêm haimươi bốn giờ nữa mà không được tham quan tòa lâu đài thống trị khung cảnh xa xamà bữa ăn nào tôi cũng nhìn thấy ấy, và cha tủm tỉm cười. "Nếu con muốn thamquan thì chúng ta sẽ đi," cha hưởng ứng. Tình trạng giảm bớt căng thẳng mới đâythậm chí còn hứa hẹn nhiều hơn ê kíp công tác của cha hy vọng, và vài nếp nhăntrên trán cha đã dãn bớt ra khi chúng tôi đến đây.
Vì vậy, vào buổi sáng ngày thứ ba, bỏ lại buổi họp ngoạigiao chẳng có gì mới, chỉ toàn thảo luận tới lui các đề tài cũ rích của ngàyhôm qua, chúng tôi đáp xe buýt chạy quanh bờ hồ, lên đến gần độ cao của tòa lâuđài, sau đó xuống xe để cuốc bộ lên đỉnh. Lâu đài xây dựng bằng loại đá nâu nhưmàu xương để lâu năm, đã được trùng tu lại sau một thời gian dài hoang phế. Khivượt qua dãy hành lang đầu tiên chúng tôi đến phòng nghi lễ (tôi nghĩ vậy), tôihá hốc kinh ngạc: qua cửa sổ xám xịt, ở bên dưới hơn ba trăm mét là mặt hồ longlanh, trải rộng ra một màu trắng dưới ánh mặt trời. Tòa lâu đài có vẻ như bámvào vách núi chỉ nhờ những trụ đục sâu vào đá. Tôi chợt nghĩ, ngôi giáo đườngmàu vàng đỏ trên hòn đảo dưới kia, chiếc thuyền đang hồ hởi cập bến giữa nhữngluống hoa nhỏ đỏ đỏ vàng vàng, và cả bầu trời trong xanh mênh mông, tất cả đã cùngphục vụ du khách suốt nhiều thế kỷ qua.
Nhưng tòa lâu đài này, với những phiến đá đã mòn nhẵn từ thếkỷ mười hai, từng góc là những tháp canh hình nón, với rìu chiến, giáo và búa,đang chực chờ đổ sụm xuống nếu có ai chạm vào, chính là linh hồn của vùng hồnày. Những cư dân trước đây sinh sống bên hồ, từ những túp lều mái lá dễ cháy,đã di chuyển lên cao dần, cuối cùng chọn nơi này để định cư cùng lũ đại bàng,dưới quyền cai trị của một lãnh chúa phong kiến. Dù đã được trùng tu rất khéo,nơi chốn này vẫn còn toát ra hơi thở của cuộc sống thuở xa xưa. Tôi quay đikhỏi khung cửa sổ chói chang ánh nắng để sang phòng kế cận và thấy trong mộtquan tài làm bằng gỗ và thủy tinh là bộ xương của một phụ nữ nhỏ nhắn chết đãlâu, trước khi Thiên Chúa giáo ra đời, chi tiết trang trí bằng đồng của chiếcáo choàng nằm hững hờ trên vùng xương ức vỡ nát, những chiếc nhẫn đồng xanh nhưchực tuột khỏi xương ngón tay. Lúc tôi cúi xuống cỗ quan tài chăm chú nhìn, độtnhiên từ hai hốc mắt sâu như hai hố địa ngục, dường như người phụ nữ mỉm cườivới tôi.
Trên sân thượng tòa lâu đài, trà được phục vụ trong nhữngbình sứ trắng, một sự nhượng bộ dễ chịu của ngành kinh doanh du lịch. Trà ngon,đậm, và lần này thì những cục đường bọc giấy vẫn chưa bị hỏng. Hai bàn tay chađan chặt vào nhau trên chiếc bàn sắt, các đốt ngón tay lộ ra trắng bệch. Tôiđăm đăm nhìn xuống hồ, rồi rót cho cha một cốc trà nữa. "Cám ơn con," ông nói.Có một nỗi khổ đau mơ hồ nào đó trong mắt cha. Tôi lại chú ý nhận ra cha tàn tạvà gầy đi rất nhiều trong những ngày này; cha có nên đi khám bệnh chăng? "Nghenày, con gái cưng," cha nói, hơi quay mặt nhìn sang hướng khác nên tôi chỉ thấygương mặt nhìn nghiêng của cha trên nền vách đá dựng đứng và hồ nước lấp lánhkia. Cha dừng lại. "Con có nghĩ đến việc viết lại chúng không?"
"Những câu chuyện kia ạ?" tôi hỏi lại. Tim như co thắt lại,đập dồn dập trong lồng ngực.
"Phải."
"Tại sao?" rốt cuộc tôi cũng đối đáp lại. Đó là câu hỏi củamột người đã trưởng thành, không còn quanh co rào đón như trẻ con nữa. Cha nhìntôi, và tôi nghĩ phía sau vẻ mệt mỏi, trong đôi mắt cha còn đầy ắp lòng nhân áilẫn nỗi ưu sầu.
"Bởi vì nếu con không viết, có lẽ cha phải viết," cha trảlời. Sau đó, cha trở lại với cốc trà, và tôi biết cha sẽ không nhắc lại điều đónữa.
Đêm đó, trong căn phòng khách sạn nhỏ và tồi tàn kế bênphòng cha, tôi bắt đầu viết ra mọi chuyện mà cha đã kể. Cha luôn nói tôi có mộttrí nhớ tuyệt vời - một trí nhớ tốt hơn mức cần thiết, đó là cách cha thườngnói.
Trong bữa điểm tâm sáng hôm sau, cha nói với tôi ông cần đượcở yên hai hoặc ba ngày. Thật khó hình dung ra cảnh cha thực sự ở yên, nhưng tôiđã thấy những quầng thâm dưới mắt ông nên tôi thích cái ý nghĩ rằng ông cầnđược nghỉ ngơi. Tôi không thể không cảm nhận thấy có điều gì đó đã xảy ra vớiông, thấy cha đang phải chịu gánh nặng của một nỗi lo âu câm lặng mới nào đó.Nhưng cha chỉ bảo với tôi cha lại nhớ những bãi biển vùng Adriatic. Chúng tôiđáp một chuyến tàu tốc hành chạy về hướng Nam, qua những nhà ga có tên viếtbằng mẫu tự Latin lẫn Cyrillic, rồi sau đó là những nhà ga có tên viết chỉ bằngchữ Cyrillic. Cha dạy tôi bảng chữ cái mới đó, và tôi tự tiêu khiển bằng cáchcố đọc to chữ trên bảng hiệu nhà ga, đối với tôi, mỗi ký hiệu kia như những từmật mã có thể mở ra một cánh cửa bí mật nào đó.
Tôi giải thích điều đó với cha, ông khẽ mỉm cười, ngả ngườivề phía sau trong ngăn cút- sét của chúng tôi, một cuốn sách dựng trên cặp xách.Ánh mắt cha lang thang từ cuốn sách đến cửa sổ, qua đó tôi có thể nhìn thấynhững chàng trai trẻ đang lái máy cày, đôi khi là một chú ngựa đang kéo mộtthùng xe chở đầy thứ gì đó, những phụ nữ lớn tuổi trong các khu vườn kế cận nhàbếp đang lom khom vừa nhổ cỏ vừa huyên thuyên chuyện trò. Chúng tôi lại đi vềphương Nam, và khi đoàn tàu lướt nhanh qua, vùng đất này dịu đi trong sắc xanhmượt mà và vàng óng ả, chợt dựng đứng lên thành những ngọn núi đá xám, rồi hạthấp xuống thành một mặt biển lung linh bên tay trái chúng tôi. Cha thở một hơidài, nhưng là tiếng thở hài lòng chứ không phải là hơi hổn hển mệt mỏi ngày mộtthường xuyên hơn của cha gần đây.
Chúng tôi rời tàu hỏa, xuống một thị trấn phố chợ nhộn nhịp,cha thuê một chiếc xe và lái theo con đường dọc bờ biển khúc khuỷu rắc rối. Cảcha và tôi đều nghển cổ lên nhìn về một bên - biển trải rộng đến tận chân trờimù sương lúc xế chiều - và bên kia, nắm xương tàn phế tích của những pháo đàitừ thời đế chế Ottoman vút cao lên bầu trời. "Người Thổ chiếm giữ mảnh đất nàymột thời gian dài, rất dài," cha thì thầm. "Những cuộc xâm lăng của họ kéo theođủ thứ tội ác, nhưng họ cai trị khá khoan dung, đế quốc nào cũng vậy, khi họ đãhoàn toàn chiến thắng - thái bình thịnh trị suốt cả hàng trăm năm. Đây là vùngđất rất cằn cỗi, nhưng nó cho phép họ kiểm soát mặt biển. Họ cần những vịnh vàhải cảng này."
Thị trấn chúng tôi dừng lại nằm ngay sát biển; những chiếctàu đánh cá đỗ san sát trong bờ cảng nhỏ, va vào nhau theo từng cơn sóng vỗ.Cha muốn ở lại trên một hòn đảo gần đó, ông thuê một chiếc tàu với chỉ một cáingoắc tay với người chủ tàu, một ông lão với chiếc mũ nồi đội ngược trên đầu. Khôngkhí ấm áp dù đã cuối buổi chiều, bụi nước bắn lên đầu ngón tay tôi mát mẻ chứkhông lạnh. Tôi chồm ra ngoài mũi tàu, cảm giác như mình là một hình chạm khắcở đầu mũi tàu. "Cẩn thận," cha thốt lên, đưa tay túm lưng áo tôi.
Lúc này, ông lão chủ tàu đã đưa chúng tôi đến một cầu cảngtrên đảo, một ngôi làng cũ kỹ với ngôi nhà thờ bằng đá xinh đẹp. Ông lão quàngsợi dây thừng quanh cột móng neo rồi chìa bàn tay xương xẩu ra giúp tôi lênkhỏi thuyền. Cha trả cho ông ta một số tiền giấy nhiều màu sắc của nước sở tại,ông lão đưa tay sờ chiếc mũ nồi. Khi đã leo trở lại về chỗ ngồi của mình, ôngchủ tàu quay lại. "Con gái ông à?" ông ta thốt lên bằng tiếng Anh. "Con gáiông?"
"Vâng," cha trả lời, vẻ ngạc nhiên.
"Chúa phù hộ cô bé," ông ta chỉ nói vậy và hướng về tôi, làmdấu thánh giá giữa khoảng không.
Cha tìm được cho chúng tôi hai căn phòng nhìn về hướng đấtliền, chúng tôi ăn tối tại một nhà hàng ngoài trời, gần bến tàu. Ánh hoàng hônđang dần buông xuống, tôi chú ý thấy những ngôi sao đầu tiên đã hiện lên phíatrên mặt biển. Một cơn gió nhẹ, giờ đã lạnh hơn lúc ban chiều, mang tới chỗ tôinhững mùi hương mà tôi bắt đầu yêu thích: bách tùng, oải hương, hương thảo, xạhương. "Vì sao những mùi thơm bao giờ cũng nồng nàn hơn lúc đêm về?" tôi hỏicha. Đó là một điều tôi thực sự băn khoăn, và nó cũng giúp trì hoãn việc chúngtôi bàn luận về bất kỳ chủ đề nào khác. Tôi cần thời gian để tìm lại một nơinào đó có ánh đèn và có người chuyện trò với nhau, hoặc ít nhất cũng cần rờimắt khỏi đôi tay cha đang run rẩy.
"Thật vậy sao?" cha hỏi, vẻ lơ đãng, nhưng tôi cảm thấykhuây khỏa. Tôi nắm chặt để giữ cho tay cha khỏi run, cha cũng nắm chặt taylại, vẫn lơ đãng, tay cha đặt trên tay tôi. Cha hãy còn quá ít tuổi để bỗng trởnên già cỗi. Trên đất liền, bóng những ngọn núi gần như nhảy múa lao vào sóngnước, sừng sững bao phủ bãi biển, sừng sững bao phủ hầu như cả hòn đảo này. Khinội chiến bùng nổ ở vùng núi non ven biển này gần hai mươi năm sau, tôi đã nhắmmắt hồi tưởng lại chúng mà kinh ngạc. Tôi không thể tưởng tượng trên những sườnnúi kia lại có đủ người để cung cấp cho một cuộc chiến. Chúng có vẻ như hoàntoàn tinh khôi, không có người ở, chỉ toàn những phế tích trống rỗng đứng canhchừng thứ duy nhất là nhà thờ đá trên đảo ấy mà thôi.