Tác giả:
Nguyên tác: Người Của Biển
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:35:07 +0700
Chương 19
L
ê lên đoàn nhận nhiệm vụ đã ba ngày, hẹn hôm nay về vẫn chưa thấy, khiến Lượng rất sốt ruột. Chẳng lẽ việc con tàu sẽ tiếp tục ra đi cấp trên còn cân nhắc lâu như vậy. Hay có gì trục trặc chăng? Từ hôm tàu phải quay về, Lượng rất buồn. Hôm đi cùng với Lê lên đoàn báo cáo, anh có cảm giác mấy tay thuyền trưởng và chính trị viên tàu bạn cứ nhìn mình. Xung quanh hình như có nhiều tiếng bàn tán: "Tàu của tay Lượng và Lê đi theo chiến thuật hình chữ "O" - Lại phải ậm ạch mang cái "bụng chửa" về à?... Họ đâu rõ hoàn cảnh cụ thể và cách xử lý cự thể của các anh! Buồn, nhưng trong anh vẫn nuôi mối hy vọng: Anh và con tàu T.67 chắc chắn được tiếp tục làm nhiệm vụ.
Lượng đứng trên boong, ngóng vào bờ. Trời ngả về chiều. Mây lãng đãng vờn quanh đỉnh núi. Nắng nhạt, trời mỏng trên mặt biển.
Gần tối Lê về. Chiếc thuyền con vừa cặp mạn, Lượng đã xô ra, hỏi ngay:
- Thế nào, trên đồng ý chứ?
- Có nhiều việc phải bàn gấp với anh đây - Lê bám dây, đu lên boong.
Hai người vào buồng thuyền trưởng.
Đám thủy thủ biết Lê về, đứng ngấp nghé ở cửa thấp thỏm ngóng chừng. Lượng quay lại, xua tay:
- Nghe lỏm cán bộ hội ý là xấu, rõ chưa.
Mấy tay "tham mưu con" nhìn nhau rồi lấm lét đi lên boong. Họ biết chính trị viên dạo này khó tính.
Lượng khép cửa, ngồi xuống mép giường:
- Bao giờ nhổ neo? - Anh nóng lòng hỏi.
Lê ngồi đối diện với Lượng:
- Chờ con nước! - Lê nói - Ngày giờ ra đi chưa rõ. Trên lưu ý anh em mình, tình hình địch căng, nơi ta vào chúng vừa điều về một giang đoàn. Bọn này mới thành lập nên hăng hái sục sạo, và đang máu mê chiến tích. Mấy bữa vừa rồi anh em trong đó ngóng ta suốt. Ám hiệu nhận nhau không đổi.
- Sao trên không cho nhổ neo sớm. Chờ tới bao giờ? Chật cứng cả một tàu đầy đạn, chẳng may "ăn" phải quả rốc két là đi tong hết. Các ông trên không tính tới chuyện đó. Anh em thủy thủ thì nóng ruột. Mấy hôm nay nhấp nha nhấp nhổm mong thuyền trưởng đi họp về để biết tình hình. Đó, họ đang bàn tán, đoán già đoán non trên boong.
- Nhưng, còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện chứ anh! Trước mắt, ta có mấy việc làm gấp anh ạ - Lê nói.
- Tôi cũng nghĩ là những ngày tới sẽ bận - Lượng xoay người về phía Lê - Tôi đã lệnh cấm từ nay không được một ai lên bờ. Cận ngày đi, để anh em la cà trên phố rồi hối không kịp.
- Thứ nhất, cột giả giá lưới đánh cá quá cao làm mất độ ổn định của tàu, phải tìm cách hạ thấp xuống. Có thể sắp tới ta vẫn gặp sóng gió - Lê vẫn nói theo ý nghĩ của mình - Thứ hai là phải sơn lại tàu, kẻ lại biển số, bố trí lại mặt boong. Trên báo rằng chuyến đi vừa rồi, máy bay Mỹ đã chụp ảnh tàu ta. Vì vậy phải cải dạng theo kiểu khác. Rồi cho người đi nhận thực phẩm, chuẩn bị lấy nước, lấy dầu. Và vẫn phải ngụy trang tàu kín hơn nữa... Những việc đó cần khẩn trương. Ngày nhổ neo chắc cũng gần thôi.
Lượng im lặng. Người hơi lắc lư: "Tất cả những việc ấy huy động anh em làm trong vài ngày là xong".
Tối đó Lượng cho họp. Anh phổ biến và phân công việc cho từng bộ phận, rồi về phòng mình. Anh có ý định ngủ sớm, đã mấy đêm nay hầu như không chợp mắt. Ngày mai có bao công việc đang đợi.
Bóng tối phủ đặc mặt nước. Những ngọn núi nhoà trong màu đen của biển. Sóng đưa vào mạn ì cặp. Con tàu dập dềnh nhè nhẹ. Đâu đó như có tiếng bom ì ầm vọng lại và thoáng có tiếng ù ì cửa động cơ máy bay.
Lượng nằm yên, lắng nghe những âm thanh từ xa vọng tới. Anh có cảm giác như mình trôi trên một vùng biển lạ.
Phòng thủy thủ, mọi người cũng chưa ngủ. Tiếng nói chuyện nghe mỗi lúc một rõ. Hải cười lúc búc:
- Tớ hả? Tớ đếch mong thư ai cả. Vợ mình không có thời gian tắm cho ba ả thị tẹt, lấy đâu ra sự rỗi rãi mà viết thư. Các tướng tưởng chăm ba đứa con nhàn lắm hả?
- Ai bảo anh tham, đẻ nhiều? - Giọng Linh khiêu khích.
- Vâng, còn đời các bố đấy? Lấy vợ rồi lại không sòn sòn như gà, cứ mang đầu tớ ra mà chặt.
- Phải biết cai chứ?
- Cai! Chờ đấy mà cai. Đi biền biệt, vài ba năm mới về thăm bu cháu một lần, có mà cai cái cóc khỉ.
- Lấy vợ phải chọn tiêu chuẩn gì đầu tiên, anh Hải? - Cang hỏi.
- Làm vợ phải biết... sợ ma!
Mọi người bật lên cười.
- Sợ ma cũng còn khá hơn những kẻ say sóng - Cang phản kích, thủy thủ đếch gì mà chưa trông thấy biển đã nôn? Cứ như con rệp khô dính trên giường. Lần sau đi biển, đề nghị thuyền trưởng sắm cho cái túi ni lông mà đeo như cái rọ treo ở miệng con bò ấy.
- Em cũng là một phương thuốc chống say đấy các bố nhé - Linh tham gia - chứ không à? Mình nghiệm ra thế! Hễ nghĩ đến người yêu là cậu nào, dù úa héo tới đâu cũng tươi tỉnh lên ngay. Sở dĩ cậu Mừng nhà ta là vua say sóng bởi chưa có em nào để mà nhớ, để mà nghĩ lúc sắp say. Đúng vậy không Mừng? Trước khi làm thủy thủ, phải yêu đã.
- Xì! Đã say sóng thì đếch có thuốc nào chữa được ráo. Em mà nằm trong bụng cũng cứ nôn ra tuốt.
- Ha ha! - Tiếng cười vang khoang tàu.
- Lúc nãy là mình nói đùa, chứ tiêu chuẩn người vợ của cánh lính như chúng ta, trước tiên là sự chung thủy. Lòng chung thủy, rõ chưa? Lênh đênh trên biển có trăm thứ phải lo: lo bão, lo say sóng, lo gặp địch, lo không vào được bến...lại còn cộng thêm nỗi canh cánh về sự không chung tình của vợ nữa thì thà sống quách một mình cho sướng cái thân đời.
- Anh Hải nói chí phải!
- Cậu thì biết đếch gì mà cũng chõ vào. Mảnh tình vắt vai chẳng có.
- Điều cần nhất là lòng chung thủy! Đồng ý!
- Chung thủy!
Lượng trở người, cố nén tiếng thở dài. Anh toan quát một tiếng, nhắc mọi người đi nghỉ, nhưng lại nằm im. Anh nghiêng người, xoay mặt vào vách. Lòng chung thủy! Phải, tiêu chuẩn đầu tiên của người vợ là lòng chung thủy! Lượng nhắm mắt, cố ngủ. Nhưng những hình ảnh của quá khứ bấy lâu anh chôn chặt, bỗng chờn vờn hiện ra. Và đôi mắt người đàn bà ấy lại tự dưng nhìn anh, rõ thế. Bao năm rồi, tưởng đã quen được, vậy mà sao ánh mắt ấy vẫn cứ ám ảnh anh? Cuộc đời thật chẳng dễ dàng một điều gì...
...Khi anh quyết định lấy cô ta, đã không ít người gàn. Nhưng anh bỏ ngoài tai hết, mặc dù không sao trả lời được câu hỏi: cớ gì Đào muốn làm vợ mình? Anh biết hồi đó trong làng phải đến trên dưới nửa tá đàn ông theo đuổi cô gái mắt đen, sắc như lưỡi dao cau, trắng trẻo, mỡ màng, lúc nào cũng nẩy phây đầy sự quyến rũ này. Trong số đó, có người giàu có, dư của ăn của để, khối người có địa vị và cũng khối kẻ sẵn sàng suốt đời làm nô lệ cho Đào. Nhiều người giải thích: "Vì mày dễ dãi cả tin, lấy mày để nó dễ bề "đây đó" chứ sao?". Lượng không tin, và điều này như một chứng minh: Cưới nhau xong, vợ chồng anh sống hạnh phúc, biết chiều nhau và cặp kè như sam. Tuy vậy lúc bấy giờ vẫn có người, chẳng rõ vì thực tình ái ngại cho anh hay vì ghen ghét đã bảo thẳng: "Không biết giữ, có ngày mất vợ. Đâu có loại dàn bà gặp anh đàn ông nào cũng ưỡn ẹo liếc nhìn lẳng lơ như ả Thị Mầu...". Anh tặc lưỡi: "Ôi dào, miệng thế gian...". Anh biết làm vừa lòng vợ và nghĩ rằng đã là vợ chồng thì phải tin nhau.
Khi Lượng có ý định nhập ngũ, Đào một mực không thuận. "Anh đừng đi, nếu họ bắt tù tội thì em nuôi. Cớ gì để vợ vò võ một mình?". Anh nghĩ rằng người vợ nào thương yêu chồng, lúc xa cách chẳng biểu hiện như vậy, nên lấy làm vui.
Đêm trước ngày lên đường, Đào quàng tay ôm lấy anh, thút thít khóc và không rõ đùa hay thật, bảo: " Anh đừng đi, em sợ mình không giữ được cho anh. Anh mất vợ đấy!". Coi Đào vì quá yêu mình mà dọa thế, anh mắng: "Bậy nào, đi rồi về, chứ chết hẳn".
Hai năm sau anh về, Đào đã hai lần phá thai. Không đợi nghe lời xì xào nhỏ to cửa người ngoài, ngay đêm phép đầu tiên, Đào đã thú hết tất cả. Chị chàng còn trách: "Tại anh cả. Con gái có thì, anh biền biệt thế, ai chịu được".
Lượng choáng váng. Anh có bực, anh có tức, anh cảm thấy cay đắng. Nhưng rồi lòng vị tha, bao dung đã thắng. Anh bỏ qua. Với nữa, những kỷ niệm êm đẹp sống với Đào hồi mới cưới khắc đậm trong anh, không quên được. Chuyện cũng đã qua, bới ra chỉ thêm xấu.
Lần thứ hai anh về, người vợ rất chịu ơn, khóc lóc và tỏ ra ân hận, hứa hẹn nhiều điều trước ngày trả phép lần thứ nhất, đã bất chấp dư luận, bất chấp luật pháp, công nhiên đến sống chung với lão thợ may lớn hơn cô nàng mười lăm tuổi ở đầu phố chợ, như vợ, như chồng.
Lượng những tưởng sự độ lượng của mình lần trước khiến con người tội lỗi ấy ăn năn, biết điều và tu tỉnh lại, ai ngờ cô ấy trơ trẽn, không còn biết xấu hổ là gì nữa.
Nỗi đau ngoài sự suy nghĩ trung thực, đôn hậu của anh khiến Lượng choáng váng. Con người trầm tính, kín đáo ít bộc lộ tình cảm ra ngoài ấy không tự chủ được, rũ xuống như một tàu lá héo. Đêm đêm anh đi vẩn vơ ngoài cánh đồng như một kẻ tâm thần. Chẳng phải anh nuối tiếc người đàn bà ấy, mà anh ngẫm nghĩ về sự đời.
Nhưng người đàn bà đó đâu đã tha anh.
Vào một đêm tối trời mưa gió đùng đùng, chị chàng lách tới nhà. Chị ta vật vã khóc lóc, tự nhận hết mọi lỗi lầm, van vỉ anh tha thứ và đưa cả cái chết ra thề thốt. Người đàn bà bảo rằng chị ta sống không thể thiếu anh, rằng tội lỗi đã rõ ấy, anh muốn trừng phạt thế nào cũng cam, nhưng xin đừng bỏ rơi chị ta.
Lượng biết tình cảm của người đàn bà lúc này rất thật song không rõ sao anh lại dửng dưng, nguội lạnh như thế. Anh trơ ra. Đào cứ gục vào vai anh khóc sướt mướt và một điều không ngờ xảy đến: đôi mắt long lanh của người đàn bà bỗng ngước lên nhìn Lượng, hai cánh tay trần, trắng nần nẫn bất ngờ quàng lên cổ anh và chị ta run run cầu khẩn xin được ở lại đây với anh đêm nay. Chị ta bảo rằng chị không đủ sức nhìn anh đêm đêm như một bóng ma tiều tụy thơ thẩn ngoài ruộng. Chị thương anh và...
Lượng bàng hoàng. Anh vụt đứng dậy. Đôi mắt người đàn bà rực lên khiến anh bối rối. Trong một lúc, anh đờ đẫn như người mất hồn. Anh lờ mờ nhận ra hương sả, hương nhu, mùi lá thơm từ mái tóc đang xoã trên ngực mình. Anh lịm đi. Nhưng ý thức về cuộc sống, về những gì trong lành; ý thức về sự phũ phàng của những ngày tháng qua và một cái gì như thể lòng tự ái thôi thúc anh. Anh dứt ra khỏi đôi cánh tay mềm mát, trắng tròn, thơm tho và như một ngươi đang trong cơn mê, anh hoảng hốt vùng chạy ra sân. Trời vẫn mưa xối xả.
Mờ sáng hôm sau. Lượng khoác ba lô, âm thầm trốn khỏi làng.
Từ bấy đến nay anh chôn chặt chuyện riêng tư. Nếu có nhu cầu tâm sự, anh cũng chỉ dừng lại ở câu chuyện phụ tình mà thôi.
Sự mất mát lặng lẽ, ê chề khiến Lượng trở nên bẳn tính và hay nóng nảy mỗi khi gặp điều gì quá căng thẳng.
Tuy vậy mỗi lần buộc phải nhớ lại chuyện cũ, chưa bao giờ Lượng nghĩ xấu về hành động của người đàn bà nọ trong cái đêm mưa gió đó. Trong thâm tâm, anh vẫnnghĩ ràng cô ta không có ý định thủ đoạn, lợi dụng tìm kiếm cho mình điều gì cả. Chỉ thương anh thực lòng và trước lúc biết rằng phải xa hẳn anh, chị muốn bù đắp bằng cái mà người phụ nữ có thể có được.
Chuyện đã khá lâu, nhưng vết thương không lên da non để thành sẹo, mỗi lần có cái gì phạm tới, dù khẽ, anh lại đau, lại suy nghĩ và buộc phải nhớ đến... "Ừ, có lẽ tại cái số của mình nó vậy. Trong làng trong xã, bao nhiêu người đi bộ đội, vợ ở nhà vẫn chung thủy, đảm đang. ông Lung đầu làng, cưới vợ được ba hôm thì đi, năm sau có tin mất tích, bà vợ vẫn chớ vẫn đợi. Bà Tính vò võ bảy năm vừa nuôi con, vừa nuôi bố mẹ chồng, không một điều tiếng...vậy mà mình!!!.... ".
Lượng thở dài. Đôi mắt mở to nhìn ra mảng đen qua khung cửa sổ vài ngôi sao li ti, mờ nhạt.
Bên buồng thủy thủ đã yên lặng. Từ phía đó phát ra tiếng thở đều đều. Chắc mọi người đã ngủ ngon.
Phía ngoài, gió lùa vào những hốc núi ù ù nghe mơ hồ như tiếng xay thóc. Đâu đó, chắc trên đỉnh núi, có tiếng tác của con thú đi ăn đêm. Và hình như có tiếng vỗ cánh của con chim nào đó bay qua. Sóng vẫn vỗ vào mạn đều đều. Về khuya nghe càng rõ.
... Mấy ngày sau, vào một buổi chiều, chính ủy Bùi Kim trực tiếp xuống trao nhiệm vụ cho tàu T.67. Ông không nhắc lại chuyện cũ. Ông chỉ dặn một số điểm cụ thể để ứng xử trong những trường hợp khó khăn. Trước khi về, ông siết chặt tay chính trị viên Lượng và thuyền trướng Lê:
- Thủ trưởng và Đảng ủy đoàn rất tin ở các bạn. Bọn mình chờ tin thắng lợi.
Và ngay trong đêm ấy, con tàu được lệnh nhổ neo, lặng lẽ trườn qua mặt vịnh, ra biển.