Giá trị thật của một người không phải ở chỗ cách anh ta xử sự lúc đang thoải mái và hưởng thụ, mà là ở chỗ lúc anh ta đối mặt với những khó khăn và thử thách.

Martin Luther King Jr.

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: L'étoile Du Sud (1884)
Dịch giả: Bảo Chấn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Diễn đàn MathVn
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1911 / 69
Cập nhật: 2018-12-04 06:06:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18 - Đà Điểu Nói Tiếng Người
yprien và Lee, sau thảm họa kinh hoàng ấy, chỉ còn một ý nghĩ: chạy khỏi nơi sự việc vừa diễn ra.
Thế nên họ quyết tâm đi dọc lùm cây lên mạn Bắc, sau hơn một giờ đi đường, rốt cuộc họ cũng đến lòng một dòng thác gần như cạn nước, tạo thành khoảng trống trong khu rừng rậm toàn cây nhũ hương và sung Ấn Độ, từ đây họ có thể đi vòng quanh khu rừng.
Tại đây, một bất ngờ mới đang đợi họ. Dòng thác ấy đổ xuống một hồ nước khá rộng lớn, bên bờ hồ mọc lên một thảm thực vật um tùm, che khuất hồ cho đến tận lúc này.
Cyprien những muốn quay trở lại bằng cách đi dọc theo bờ hồ; nhưng bờ dốc dựng đứng ở chỗ này chỗ kia nên chàng phải sớm từ bỏ ý định ấy. Mặt khác, đi ngược lại con đường chàng vừa đi sẽ làm chàng mất mọi hy vọng tìm được Matakit. Dầu vậy, bên phía bờ đối diện nhấp nhô nhiều đồi núi nối tiếp bằng một dãy núi cao trùng điệp. Cyprien nghĩ rằng nếu lên đến đỉnh núi, có lẽ chàng sẽ có cơ may nhìn bao quát hơn và kế đó vạch ra một kế hoạch.
Thế là Lee và chàng lại bắt đầu đi vòng qua hồ. Hành trình này rất khó nhọc vì không có bất cứ lối đi nào, đặc biệt vì thỉnh thoảng nhất thiết họ phải kéo hai con hươu cao cổ bằng dây cương. Vậy nên họ phải mất hơn ba giờ để đi một quãng bảy đến tám cây số đường chim bay.
Cuối cùng, khi họ đến được, bằng cách đi vòng qua hồ, vị trí gần tương ứng với điểm xuất phát ở bên bờ đối diện, màn đêm sắp ập xuống. Rã rời vì mệt, họ quyết định cắm trại tại điểm ấy. Thế nhưng, với một ít đồ đạc họ có, việc cắm trại không hề thuận lợi. Tuy vậy, Lee đảm trách việc ấy với nhiệt tâm thường có của anh ta; rồi khi công việc hoàn thành, anh đến gặp chủ mình.
“Ông trẻ, anh nói với chàng giọng dịu dàng và vững tâm, tôi thấy ông mệt rồi đấy! Đồ dự trữ của ta sắp hết sạch! Ông cứ để tôi đi tìm một làng nào đó, nơi ấy người ta sẽ không từ chối giúp đỡ chúng ta đâu.”
“Anh rời tôi mà đi hả Lee?” thoạt tiên Cyprien quát lên.
“Phải vậy thôi, ông trẻ à!” anh chàng người Hoa đáp. “Tôi sẽ cưỡi một trong hai con hươu cao cổ để đi lên mạn Bắc!... Giờ thì thủ phủ của Tonaïa, mà Lopèpe đã kể với chúng ta, không xa đây lắm nữa, và tôi sẽ dàn xếp để người ta đón tiếp ông niềm nở. Rồi sau đó, chúng ta sẽ quay trở về Griqualand, ở đó chúng ta chẳng còn phải sợ những kẻ khốn kiếp kia nữa, ba bọn họ đều đã mất mạng trong chuyến du hành này!”
Chàng kỹ sư trẻ suy nghĩ về đề xuất của anh chàng người Hoa tận tụy. Một mặt, chàng hiểu rằng nếu có thể tìm lại cậu bé nam Phi thì chủ yếu là chỉ có thể ở trong vùng này nơi họ đã thoáng trông thấy cậu ngày hôm trước và quan trọng là không được đi khỏi đây. Mặt khác, cần phải tích trữ lại những món đồ đạc hiện đang thiếu thốn. Thế nên Cyprien quyết định, dù trong lòng rất tiếc, để Lee đi một mình, và họ thống nhất rằng chàng sẽ đợi anh, ngay tại nơi này, trong khoảng bốn mươi tám tiếng. trong vòng bốn mươi tám tiếng, anh chàng người Hoa, cưỡi trên lưng hươu cao cổ, có thể đi xuyên qua vùng này, rồi quay trở lại trại.
Thống nhất xong mọi việc, Lee không muốn để lỡ một giây nào. Về vấn đề nghỉ ngơi, anh không quan tâm lắm! Anh biết cách bỏ qua giấc ngủ! Vậy nên anh từ biệt Cyprien, hôn tay chàng, sau đó dắt hươu của mình ra nhảy phóc lên mình nó rồi biến mất sau màn đêm.
Lần đầu tiên kể từ lúc khởi hành ở Vandergaart-Kopje, Cyprien ở một mình ngay giữa sa mạc. Chàng cảm thấy buồn vô hạn và không ngăn nổi bản thân, khi đã cuộn mình trong chăn, buông thả theo những dự đoán bi thảm nhất. Cô đơn, thực phẩm và đạn dược hầu như cạn kiệt, chàng sẽ thế nào nơi xứ sở xa lạ này, cách những vùng đất văn minh vài trăm dặm? Đuổi kịp Matakit giờ đây là cơ hội quá nhỏ nhoi! Có lẽ nào cậu ta đang ở cách chàng chỉ nửa cây số, mà chàng chẳng hề nghi ngờ gì? Cố nhiên, chuyến đi này thật thảm hại và chỉ được tô điểm bằng những sự việc bi thương! Trước đó gần như cứ mỗi một trăm dặm đi qua lại được đánh đổi bằng một mạng người tham gia! Giờ đây người duy nhất còn lại... là chàng...! Lẽ nào chàng cũng sẽ kết thúc thảm hại như những kẻ kia?
Đó chính là những tâm tư phiền muộn của Cyprien, tuy vậy chàng cũng chìm được vào giấc ngủ.
Sự trong trẻo của ban mai khi chàng tỉnh dậy và sự nghỉ ngơi chàng vừa tận hưởng đã khiến tâm trí chàng có thêm niềm tin. Trong khi chờ đợi anh chàng người Hoa trở về, chàng quyết định leo lên đồi cao, ngọn đồi nơi chàng đang dừng chân ở ngay dưới. Như vậy chàng sẽ có tầm nhìn thăm dò bao quát một vùng rộng lớn và có thể phát hiện dấu vết nào đó của Matakit bằng ống nhòm của mình. Nhưng để làm điều ấy, nhất định phải để con hươu cao cổ của chàng lại, chưa có nhà tự nhiên học nào liệt con thú bốn chân này vào họ leo núi.
Thế là Cyprien bắt đầu tháo chiếc vòng cổ mà Lee đã rất tài tình làm cho con vật; sau đó, chàng cột một đầu dây vào khuỷu chân nó rồi cột đầu kia vào một cái cây xung quanh dày rậm cỏ, chàng để chừa một khoảng dây đủ dài để nó có thể gặm cỏ theo ý thích. Thực ra thì, nếu ta có cộng thêm vào đoạn dây độ dài chiếc cổ của nó, thì phạm vi hoạt động của con vật dễ thương ấy cũng không phải quá rộng rãi.
Khi đã chuẩn bị đâu ra đấy, Cyprien đeo súng lên một vai, tấm chăn khoác lên vai kia rồi sau khi từ giã con hươu của mình bằng cú vỗ thân thiện, chàng bắt đầu leo đồi.
Việc leo ấy thật lâu và gian khó. Cả ngày trời chàng cứ phải leo những đoạn dốc dựng đứng, đi vòng qua những tảng đá và những đỉnh nhọn không thể leo thẳng qua, rồi từ phía Đông hay phía nam lại bắt đầu lại một nỗ lực đã thử mà không có kết quả ở bên mạn Bắc hay mạn Tây.
Đêm đến, Cyprien mới chỉ lên đến giữa sườn đồi, và chàng phải đợi đến hôm sau để tiếp tục việc leo đồi của mình.
Lại ra đi vào sáng sớm, sau khi nhìn kỹ và chắc chắn rằng Lee vẫn chưa về đến trại, cuối cùng chàng cũng lên đến đỉnh đồi vào khoảng mười một giờ.
Một nỗi thất vọng tàn nhẫn đã đợi sẵn chàng ở nơi đây. Bầu trời giăng kín mây. Từng đám mù dày đặc bồng bềnh nơi mé sườn dưới thấp. Cyprien đã cố công vô ích nhìn xuyên qua màn sương để thăm dò các thung lũng kế bên. Cả vùng đất biến mất dưới làn hơi nước bất định hình, khiến ta không thể nhìn rõ cái gì bên dưới nó.
Cyprien vẫn ngoan cố, chàng đợi, lòng luôn hy vọng khi trời quang mây tạnh sẽ trả lại chàng những chân trời rộng lớn mà chàng muốn nhìn bao quát: chỉ vô ích thôi. Càng về trưa, có vẻ như mây càng dày nặng hơn, và đến sắp tối, hẳn nhiên trời chuyển mưa.
Thế nên chàng kỹ sư trẻ lãnh đủ với hiện tượng thời tiết thông thường ngay trên đỉnh một cao nguyên trơ trụi, chẳng có lấy một bóng cây, chẳng có một tảng đá có thể làm chỗ trú. Không gì ngoài đỉnh đồi trọc và khô cằn, và xung quanh đó, đêm dần buông, kéo theo mưa phùn nhỏ, dần dần làm ướt tất cả, chăn, áo quần và thấm cả vào da.
Tình hình càng lúc càng nguy kịch, và tuy nhiên vẫn phải chấp nhận. Leo xuống trong những điều kiện ấy quả là điên rồ. Thế nên Cyprien vẫn quyết định để mặc cho mình bị thấm lạnh thấu xương, với ý nghĩ sẽ hong khô mình vào ngày hôm sau, dưới ánh mặt trời ấm áp.
Khoảnh khắc náo động đầu tiên trôi qua, Cyprien, nhằm tự an ủi cho sự không may của mình, tự nhủ cơn mưa ấy - làm dịu mát cơn hạn hán nhiều ngày trước - chẳng có gì khó chịu, nhưng một trong những hậu quả khó chịu nhất của nó là buộc chàng phải ăn bữa tối hoặc là ăn sống hoàn toàn, hoặc ít nhất thì cũng phải ăn đồ ăn lạnh. Không thể nghĩ đến việc nhóm lửa hay đơn giản chỉ là quẹt diêm trong thời tiết thế này. Thế nên chàng đành mở một hộp thịt bò hầm rồi ngấu nghiến ăn nó nguyên trạng như thế.
Một hoặc hai giờ sau đó, tê cóng vì hơi lạnh của cơn mưa, chàng kỹ sư trẻ cũng ngủ thiếp đi, đầu gối trên một tảng đá to phủ tấm chăn ướt sũng. Khi thức giấc vào sáng hôm sau, chàng vật vã vì một cơn sốt dữ dội.
Hiểu rằng chàng sẽ toi mạng, nếu còn phải chịu đựng tiếp trận tắm mưa thế này - bởi rằng mưa vẫn đổ như thác không ngớt - Cyprien cố gượng đứng dậy rồi chống cây súng trường như một chiếc gậy, chàng bắt đầu xuống leo.
Làm sao xuống đến dưới ấy bây giờ? Chính bản thân chàng cũng khó nói được điều này. Khi thì lăn tròn xuống những sườn dốc sũng nước, khi thì mặc cho mình bị trượt dài theo những triền đá ướt át, thân mình bầm giập, thở hổn hển, hoa mắt, kiệt sức vì cơn sốt, tuy vậy chàng vẫn đi tiếp quãng đường của chàng, và đến khoảng giữa ngày thì chàng về được đến trại nơi chàng đã cột con hươu cao cổ của mình.
Con thú ấy đã đi rồi, chắc nó hết kiên nhẫn vì cô độc và có lẽ bị thúc bách bởi cơn đói, vì cỏ đã bị gặm sạch trụi trong khu vực phạm vi giới hạn của sợi dây. Thế nên rốt cuộc nó gặm luôn sợi dây cột giữ nó, và sau khi đã gặm hết, nó biến thành con vật tự do.
Nếu ở trong trạng thái sức khỏe bình thường, Cyprien có lẽ đã cảm nhận sâu sắc vụ mất mát tài sản mới này; thế nhưng cơn mệt mỏi cao độ cùng với sự rã rời làm chàng không còn sức để cảm nhận điều ấy. Khi về đến nơi, chàng chỉ kịp lao đi lấy ba lô chống ướt của mình, còn may là chàng tìm ra nó, thay áo quần khô, rồi ngã vật xuống vì mệt, nằm bẹp dưới lùm cây bao báp che phủ phía trên trại.
Thế là trong chàng diễn ra một quá trình khác lạ nửa mê nửa tỉnh, sốt cao, mê sảng, trong thời gian ấy mọi khái niệm đều lẫn lộn, thời gian, không gian, khoảng cách không còn hiện thực nữa. Là đêm hay ngày, nắng hay mưa? Chàng ở đó đã mười hai giờ đồng hồ hay sáu mươi giờ? Chàng còn sống hay đã chết? Chàng chẳng còn hay biết gì cả. Những giấc mơ đẹp và những cơn ác mộng kinh khủng nối tiếp nhau không ngừng trên sân khấu trí tưởng tượng của chàng. Paris, Trường Mỏ, nhà của ba mẹ chàng, trang trại Vandergaart-Kopje, tiểu thư Watkins, Annibal Pantalacci, Hilton, Friedel và những đàn voi, Matakit và từng đàn chim bay, cứ tuôn ra không ngớt trên bầu trời, mọi ký ức, mọi cảm giác, mọi ác cảm, mọi thiện cảm giằng xé nhau trong não chàng như một cuộc chiến rời rạc. Thỉnh thoảng có những ấn tượng bên ngoài tác động thêm vào các trạng thái do cơn sốt. Điều khủng khiếp nhất là trong cơn bão âm thanh của chó rừng sủa, mèo rừng kêu, của linh cẩu cười khây khẩy, kẻ bệnh mất ý thức ấy vẫn miệt mài đắm trong chuỗi những hoang tưởng của bản thân và ngỡ đã nghe thấy tiếng súng nổ tiếp sau là quãng im lặng dài. Sau đó, bản hòa âm quỷ quái lại tiếp diễn dữ dội hơn và kéo dài cho đến khi trời sáng.
hẳn nhiên, trong cơn hoang tưởng ấy, Cyprien có lẽ, dù không ý thức được, sẽ đi từ hiện tượng sốt sang trạng thái yên nghỉ vĩnh viễn, nếu chuyện ly kỳ nhất, ngông cuồng nhất, xét theo bề ngoài, không xảy ra làm xáo trộn dòng chảy tự nhiên của sự việc.
Trời sáng, mưa đã thôi rơi, và mặt trời đã mọc lên ở chân trời. Cyprien vừa hé mắt. Chàng nhìn, nhưng không vì tò mò, một con đà điểu cao lớn, con vật ấy, sau khi tiến lại gần chàng, đang dừng cách chàng vài ba bước chân.
“Phải chăng là đà điểu của Matakit?” vẫn mang định kiến của mình, chàng tự hỏi.
Chính con chim cao cẳng tự mình trả lời chàng, và hơn thế nữa, nó trả lời chàng bằng thứ tiếng Pháp rất chuẩn.
“Mình không hề nhầm!... Cyprien Méré!... Anh bạn đồng môn đáng thương, anh làm quái gì ở đây thế?”
Một con đà điểu biết nói tiếng Pháp, một con đà điểu biết cả tên chàng, ở đây hẳn có điều khiến một người thông minh bình thường và lý trí điềm tĩnh phải sửng sốt. Thế mà Cyprien chẳng hề kinh ngạc chút nào trước hiện tượng huyễn hoặc ấy và xem nó hoàn toàn tự nhiên. Chàng đã thấy nhiều chuyện khác ngay trong giấc mơ đêm hôm trước rồi! Điều này xem ra chỉ đơn thuần là hậu quả của chứng rối loạn tâm thần của chàng.
“Bà không hề lịch sự chút nào, thưa bà đà điểu!” chàng đáp. “Sao bà lại xưng hô thân hữu với tôi như vậy?”
Chàng nói với giọng đặc trưng của người bị sốt, cụt ngủn, đứt quãng khiến người ta không thể nghi ngờ gì về tình trạng của chàng - điều ấy làm con đà điểu tỏ vẻ xúc động.
“Cyprien à!... Anh bạn tôi ơi!... Anh bị bệnh lại một thân một mình giữa sa mạc này!” con đà điểu vừa la to vừa quỳ xuống gần chàng.
Điều này cũng là một hiện tượng sinh lý không kém phần kỳ quái hơn khả năng nói tiếng người của loài chim cao cẳng, bởi lẽ thông thường về bản chất, quỳ gối với chúng chính là hành động cấm kỵ. Thế nhưng, trong cơn sốt, Cyprien vẫn khăng khăng không chịu kinh ngạc. Chàng thậm chí thấy con đà điểu kẹp bên dưới cánh trái của nó một bình da đầy nước mát, pha thêm cô nhắc, và đang ghé cổ chai vào miệng chàng.
Điều duy nhất khiến chàng bắt đầu ngạc nhiên, chính là lúc con vật kỳ lạ đứng dậy để trút bỏ một dạng vỏ bọc, lớp vỏ bọc của những con cò già, có vẻ giống lớp lông vũ tự nhiên của nó, rồi đến chiếc cổ cao nối liền với đầu chim. Và thế là, rũ bỏ bộ mã vay mượn, con đà điểu hiện ra trước mặt chàng với hình dáng của chàng trai cao lớn, vững chãi, khỏe mạnh, chẳng ai khác ngoài Pharamond Barthès, anh chàng thợ săn tài ba trước mặt Chúa và trước mặt những con người.
“Ừ! Đây này! Chính là tôi!” Pharamond kêu lên. “Anh không nhận ra giọng tôi ngay những câu đầu tiên tôi nói với anh sao?... Anh ngạc nhiên vì bộ cánh nhố nhăng của tôi à?... Đây là một mẹo lừa địch tôi học được từ dân nam Phi để có thể đến gần bọn đà điểu thật và để phóng lao vào chúng dễ dàng hơn!... Nhưng nói chuyện anh đi, anh bạn đáng thương của tôi!... Sao anh lại đến đây, ốm đau mà lại bị bỏ rơi thế này?... Thật là tình cờ tôi nhìn thấy anh trong lúc đi rong ruổi bên vùng này, tôi thậm chí còn không biết anh đang ở vùng này đấy!”
Cyprien, vì không đủ sức nói chuyện lâu, chỉ có thể cho bạn mình những giải thích rất sơ sài về bản thân chàng. Hơn nữa, Pharamond Barthès hiểu rằng việc gấp nhất mình cần làm là phải có những biện pháp cứu chữa còn thiếu với người bệnh vào lúc này, anh bèn bắt tay vào dốc sức chữa trị cho bạn.
Kinh nghiệm sống ở sa mạc của anh chàng thợ săn táo bạo này vô cùng dày dặn, và anh đã học được từ người nam Phi một phương pháp vô cùng hiệu quả để trị chứng sốt rét mà người bạn tội nghiệp của anh nhiễm phải.
Thế nên Pharamond Barthès bắt đầu đào một cái hố dưới đất rồi chất đầy củi vào đó, sau khi đã chừa một lỗ nhằm lấy không khí từ bên ngoài vào. Lượng củi ấy, một khi được nhóm lên và bị đốt cháy, sẽ nhanh chóng biến cái hố thành một cái lò thực thụ. Pharamond Barthès, sau khi quấn người chàng cẩn thận chỉ chừa lại phần đầu nhô ra ngoài không khí, đặt Cyprien nằm vào trong đó. Chưa đầy mười phút mà mồ hôi chàng đã vã ra như tắm - vị bác sĩ bất đắc dĩ đã kích thích cho mồ hôi vã ra bằng năm sáu tách trà thuốc sắc anh tự chế từ các thảo dược mà bản thân anh đã rành rẽ.
Cyprien phút chốc ngủ thiếp trong lò xông ấy và đấy là một giấc ngủ trị bệnh.
Đến lúc mặt trời lặn, khi mở mắt ra, người bệnh cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm nên chàng đòi ăn tối. Anh bạn tài ba của chàng ứng phó được với mọi tình huống: anh mang ngay đến cho chàng một bát canh tuyệt vời được nấu từ những vật phẩm tinh tế nhất do anh săn được và một vài loại rễ các cây khác nhau. Thêm vào đó là một cánh gà sếu rô ti, một tách nước pha cô nhắc, bữa ăn ấy mang lại cho Cyprien chút sức lực và giúp giải tỏa những hư ảo làm mụ mị đầu óc chàng.
Sau bữa ăn chữa bệnh khoảng một giờ, Pharamond Barthès, đến lượt anh cũng đã ăn uống thích hợp, đến ngồi gần chàng kỹ sư trẻ, và kể cho chàng nghe làm sao anh đến nơi đây, một thân một mình, cùng với đoàn người kỳ lạ kia.
“Anh biết tôi có khả năng gì để thử một chuyến đi săn mới rồi đấy!” anh nói với chàng. “Thế mà, trong vòng sáu tháng nay, tôi đã hạ nhiều voi, ngựa vằn, hươu cao cổ, sư tử và những con khác thuộc mọi loại lông thú và lông vũ - không quên kể thêm con đại bàng ăn thịt vốn là niềm tự hào trong bộ sưu tập của tôi - đến mức một ý tưởng ngông cuồng nhằm đa dạng hóa thú vui săn bắn của bản thân đã xuất hiện trong tôi cách đây vài ngày! Cho đến tận đây, tôi chỉ du hành cùng những người Bassouto hộ tống - chừng ba mươi trai tráng quả cảm, những người sẵn sàng lao vào lửa vì chúa tể và vị chủ của họ, hằng tháng tôi trả lương họ bằng một gói hạt thủy tinh. Thế nhưng vừa qua tôi nhận được sự đón tiếp ân cần ở nhà Tonaïa, vị thống lĩnh vĩ đại của vùng ấy, và để được ông ta cấp quyền săn bắn trên lãnh thổ của mình - đặc quyền mà kể cả một huân tước Anh cũng thèm muốn - tôi chấp thuận cho ông ta mượn những người Bassouto của tôi, cùng với bốn khẩu súng, nhằm phục vụ một chuyến chinh phạt ông ta đã dự định chống lại một trong những hàng xóm của mình. Sự vũ trang ấy giúp ông ta trở nên bất khả chiến bại, và ông đã có chiến thắng lẫy lừng nhất trước kẻ thù. Từ đấy một tình bạn sâu sắc được thắt chặt bằng việc đổi máu, tức là chúng tôi cùng nhau liếm vết chích nhỏ trên cẳng tay người kia! Thế nên, từ nay, giữa Tonaïa và tôi là cùng sống cùng chết! Từ nay tôi chắc chắn không còn lo ngại gì nữa trong những vùng đất ông sỡ hữu, hôm kia, tôi đã đi săn cọp và đà điểu. Nói đến cọp, tôi đã thích thú vì hạ được một con vào đêm trước, và tôi rất ngạc nhiên nếu anh không hề nghe thấy mớ âm thanh inh ỏi dạo đầu cho cuộc săn bắn ấy. Anh nên nhớ là tôi đã dựng một căn lều nhẹ gần ngay xác một con trâu mới bị giết hôm qua, với hy vọng chắc chắn sẽ gặp được con cọp tôi hằng mơ ước vào lúc nửa đêm! Quả nhiên, bị mùi thịt sống thu hút, con thú không ngần ngại đến điểm hẹn; nhưng vận rủi cũng xui khiến cả hai hay ba trăm con chó rừng, linh cẩu và mèo rừng cũng cùng chí hướng với nó! Thế nên, một hợp âm loạn nhịp nhất có lẽ đã vọng đến tai anh!”
“Tôi tin chắc mình đã nghe thấy!” Cyprien đáp. “Thậm chí tôi đã tưởng bọn chúng tụ họp lại để vinh danh tôi!”
“Không hề, anh bạn can đảm của tôi ơi!” Pharamond Barthès kêu lên. “Chính là chúng đổ về phía xác con trâu đấy, ở dưới đáy thung lũng này mà anh nhìn thấy về cánh phải. Khi trời sáng, chỉ còn lại vài mẩu xương của loài thú nhai lại khổng lồ ấy! Tôi sẽ chỉ anh xem chỗ đó! Quả đúng là một cuộc phanh thây ngoạn mục!... Anh cũng sẽ thấy con cọp của tôi, con thú đẹp nhất tôi hạ được kể từ khi đi săn ở châu Phi! Tôi đã lột da nó, và bộ da lông nó đang được phơi khô trên một thân cây!”
“Nhưng sao anh lại mặc hóa trang kỳ quái như sáng nay vậy?” Cyprien hỏi.
“Đó là bộ áo đà điểu. Như tôi đã nói với anh, người nam Phi thường sử dụng mẹo này để đến gần lũ chim cao cẳng, vốn rất đa nghi và khó phóng lao trúng nếu không có thứ ấy!... Anh sẽ nói tôi đã có khẩu súng trường tuyệt vời!... Đúng vậy, nhưng anh còn muốn gì đây? Tính ngông cuồng khiến tôi thích săn theo kiểu nam Phi, và chính điều ấy đã khiến tôi may mắn gặp anh rất đúng lúc, không phải sao?”
“Quả thật rất đúng lúc, anh Pharamond à!... Tôi tin chắc nếu không có anh, tôi có lẽ không còn trên đời nữa!” Cyprien vừa đáp vừa thân ái siết tay anh bạn của mình.
Giờ đây chàng đã ra khỏi hố xông hơi và nằm êm ái trên chiếc giường lót bằng lá cây mà anh bạn chàng đã xếp dưới gốc cây bao báp.
Anh bạn dũng cảm không muốn ở yên đấy. Anh muốn đi sang thung lũng kế bên tìm cái lều nhẹ anh vẫn luôn mang theo trong chuyến đi, và mười lăm phút sau, anh đã dựng lều ngay phía trên chỗ người bạn ốm của mình đang nằm.
“Và bây giờ, anh nói, ta nghe chuyện của anh nào, bạn Cyprien thân mến, nếu việc kể lại cho tôi nghe không khiến anh mệt mỏi quá!”
Cyprien cảm thấy đủ khỏe để thỏa mãn trí tò mò rất tự nhiên của Pharamond Barthès. Chàng kể anh nghe, một cách khá tóm lược, về những việc xảy ra ở Griqualand, về lý do chàng rời vùng ấy đuổi theo Matakit cùng viên kim cương của chàng, những sự kiện chính trong chuyến đi của chàng, ba cái chết của Annibal Pantalacci, Friedel và James Hilton, sự mất tích của Bardik, và cuối cùng chàng đã chờ anh chàng Lee giúp việc của chàng về trại như thế nào.
Pharamond Barthès lắng nghe vô cùng tập trung. Khi được hỏi, liệu anh có gặp chàng trai nam Phi, có dấu hiệu như Cyprien mô tả về Bardik, anh bạn trả lời không.
“Nhưng, anh nói thêm, tôi tìm thấy một con ngựa bị lạc, rất có thể là ngựa của anh đấy!”
Và anh kể một mạch cho Cyprien nghe tình huống khiến con ngựa lại rơi vào tay anh.
“Cách đây hai ngày,” anh nói, “tôi đang đi săn cùng ba người Bassouto của tôi tại vùng núi phía nam, bỗng nhiên tôi thấy từ một con đường trống trải có một con ngựa tuyệt vời màu xám chạy lao ra, nó hoàn toàn trần trụi, chỉ có một vòng cổ cùng một sợi dây dắt mà nó kéo lê theo sau. Con vật ấy hẳn nhiên có vẻ do dự xem nó sẽ làm gì; nhưng tôi đã gọi nó, đưa cho nó một nắm đường, và thế là nó chạy về phía tôi! Con ngựa bị bắt như vậy đấy - một con vật tuyệt vời, rất gan dạ và rất chiến, đã “Nhiễm muối” mặn như một miếng giăm bông...”
“Chính là ngựa của tôi!... Chính là Templar!” Cyprien kêu lên.
“Vậy thì anh bạn à, Templar sẽ trở về với anh,” Pharamond Barthès đáp, “và tôi thực sự vui lòng trả nó lại cho anh! Thôi nào, chúc anh buổi tối tốt lành, giờ anh ngủ lại đi! ngay sáng sớm ngày mai, chúng ta sẽ rời khỏi cõi thần tiên này!”
Sau đó, theo lời khuyên dành cho bạn mình, Pharamond Barthès cuốn mình trong chăn rồi ngủ thiếp đi cạnh Cyprien.
Ngày hôm sau, anh chàng người Hoa trở về trại cùng một số đồ dự trữ. Thế nên, trước khi Cyprien thức dậy, Pharamond Barthès, sau khi kể toàn bộ sự việc cho Lee, đã giao cho anh ta trông chừng cậu chủ, trong lúc ấy anh đi dắt con ngựa mà chàng kỹ sư trẻ đã rất tiếc nuối khi để mất.
Ngọc Phương Nam Ngọc Phương Nam - Jules Verne Ngọc Phương Nam