You carry Mother Earth within you. She is not outside of you. Mother Earth is not just your environment. In that insight of inter-being, it is possible to have real communication with the Earth, which is the highest form of prayer.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: “An Ninh Cho Nhân Dân”
hương trình 1969 đã được đưa vào quỹ đạo, chúng tôi bắt đầu dự tính cho năm tới, năm 1970. Tin rằng các chương trình riêng biệt đã được tiến hành suôn sẻ, chúng tôi hy vọng sẽ áp dụng nó cho các xã ấp mới.
Cuối 1969, nền an ninh cơ bản của phần lớn dân chúng đã đạt được như tỷ lệ số dân trong các làng xếp loại C hay hơn nữa theo hệ thống đánh giá thôn ấp của chúng tôi được nâng cao đã chứng minh, và các con số này đã được các cố vấn ở địa phương của C.O.R.D.S. và các báo cáo thanh tra của các quan chức cao cấp trong đó có cả tôi xác nhận.
Mục tiêu của giai đoạn tiếp theo là vượt mức cơ bản ấy và đưa được nhiều làng lên mức A hoặc B, tức là nơi người dân có thể sống yên ổn mà không phải lo sợ gì về những cuộc đột nhập lúc ấy đã trở nên lẻ tẻ của địch. Chỉ tiêu đề ra là tăng lên được chín mươi phần trăm số dân toàn quốc, năm 1969 đã đạt loại C, thì năm 1970 lên được hai loại trên (A hoặc B).
Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải thiện đều đặn an ninh cho dân và cũng phải cả bằng cách cải thiện những khía cạnh chính trị và kinh tế cho dân theo hệ thống đánh giá thôn ấp. Chúng tôi có ý định sẽ tạo nên một bước nhảy trên tất cả các mặt của đời sống nông thôn. Tổng thống Thiệu thể hiện mong muốn ấy khi ông yêu cầu sửa lại cái tên Việt Nam của kế hoạch: từ “bình định và kiến thiết” (thực ra là tái thiết), ông đề nghị đổi thành “bình định và phát triển”.
Đề tài chủ yếu của giai đoạn mới này là áp dụng “Việt Nam hoá” vào chương trình bình định. Quân đội Mỹ đã bước vào tiến trình rút quân về nước và bắt đầu trao trách nhiệm hoạt động quân sự cho quân đội quốc gia Nam Việt Nam. Còn thực hiện chương trình bình định thì ngay từ đầu đã là công việc của người Việt Nam. Chỉ lấy một ví dụ để chứng minh, thì rõ ràng người Mỹ không thể làm được việc xây dựng khối đoàn kết trong một thôn xã bằng cách tham gia vào cuộc bầu của xã. Cho nên, người Mỹ chỉ có thể “giúp đỡ” chứ không có quyền “chỉ huy”, “điều hành” kế hoạch bình định (nguyên tắc nữa chúng tôi đã đề ra trong thực hiện chiến dịch bình định cấp tốc và kế hoạch 1969).
Nhiều biện pháp đã được quyết định để tăng cường quyền lực cho những người được bầu cử ở địa phương. Ấp trưởng, xã trưởng được trao quyền hạn đối với đơn vị cảnh sát quốc gia nằm trong ấp, xã mình và đối với trung đội dân vệ là những lực lượng trước đây chỉ thuộc quyền cấp trên theo hệ thống của họ. Việc bắt người trong khuôn khổ chương trình Phượng hoàng phải được trưởng thôn cho ý kiến, bởi ông là ngươi quen biết dân làng nên ông có thể sửa lại những sai lầm quá rõ. Kinh phí cho công tác phát triển cũng được cấp phát gấp đôi mà không phải xin phép trước. Và người ta bắt đầu dự tính sẽ bầu cả một chính quyền ở cấp tỉnh.
Chương trình Phượng hoàng đòi hỏi một sự quan tâm đặc biệt. Phần lớn các báo cáo hàng tháng của chúng tôi liên quan đến các tỉnh đều phàn nàn rằng ở đấy chương trình Phượng hoàng đã hoạt động rất tồi, nếu như nó có hoạt động. Một số báo cáo phản ánh hiện tượng có những người bị bắt rồi chỉ sau đó vài ngày hay vài tuần họ lại được thả ra và tiếp tục hoạt động. Một số báo cáo khác thì lên án một cách làm phổ biến được nhiều nơi áp dụng: đó là để làm cho các cấp trên lầm tưởng rằng đã đạt được mục tiêu bình định (tức là loại trừ bớt cán bộ cộng sản bí mật), một số địa phương đã gán cho những du kích bình thường bị bắt trong các cuộc vây ráp hay các cuộc hành quân cái tên là cán bộ Việt cộng. Và cuối cùng cũng rất phổ biến là “chủ nghĩa khoan hoà” ở nhiều quan chức địa phương, họ ngại không muốn đụng chạm đến một số khu vực nào đấy của cộng sản.
Một vấn đề khác có tính chất cố hữu của chương trình Phượng hoàng đã bị đặc biệt chỉ trích ở Mỹ: đó là sự tàn bạo. Người ta không thể chối cãi được điều đó, dù rằng chúng tôi đã có chỉ thị rõ ràng cho các cố vấn Mỹ là bất kỳ thế nào, họ cũng phải tố cáo mọi biểu hiện của thói tàn bạo lên cấp trên để cấp trên có những xử lý thích đáng. Và đây là một ví dụ để minh hoạ cho tính phức tạp và những sức ép của chiến tranh. Một cố vấn cấp cao của tỉnh báo cáo tôi về việc sau khi bắt được một nữ cán bộ Việt cộng, viên quận trưởng đã cấp tốc tới nơi và vừa bước xuống xe, ông ta đã rút súng bắn chết liền người nữ cán bộ ấy. Tôi phàn nàn với thủ tướng và viên quận trưởng đã bị cách chức. Thế là sau đó khi gặp tôi, viên cố vấn tỉnh đã trách tôi về việc đó, lý lẽ rằng đấy là viên quận trưởng xuất sắc nhất trong tỉnh. Sở dĩ ông ta bắn người phụ nữ ấy, đó là vì ông ta biết người phụ nữ này là người chịu trách nhiệm chính về cái chết của nhiều người thân trong gia đình ông.
Chúng tôi đã phải làm việc rất vất vả để giải quyết những vấn đề của Phượng hoàng. Được bổ sung khoảng năm trăm sĩ quan tình báo được đào tạo đặc biệt để đảm đương vai trò cố vấn tỉnh hoặc huyện, chúng tôi đã củng cố lại một cách tốt hơn cơ cấu của tổ chức. Với cán bộ cộng sản, chúng tôi phân loại thành: A là đảng viên, thành viên quan trọng của Mặt trận, B: là cán bộ quan trọng đảm đương một vị trí then chốt (như thu thuế chẳng hạn) hay đội trưởng du kích, C: là chiến sĩ thường của cộng sản như hội viên của một tổ chức ở địa phương, làm liên lạc hay hậu cần, đội viên dân quân du kích. Chúng tôi đã hướng dẫn cho mọi người là không phải quan tâm nhiều đến loại C, vì loại này không nằm trong danh sách mục tiêu của Phượng hoàng. Loại B có thể bắt giữ tối đa một năm, loại A tối đa hai năm và có thể kéo dài hơn sau khi xem xét cụ thể.
Để xác định ai thuộc vào diện hạ tầng cơ sở của cộng sản, chúng tôi có những chỉ thị chi tiết đòi hỏi phải có ba báo cáo riêng rẽ về người đó. Chúng tôi tổ chức các khóa đào tạo huấn luyện cách lập một hồ sơ, dựng một biểu đồ của bộ máy cộng sản ở một ấp, xã bằng cách phát hiện dần dần những kẻ còn chưa biết. Sau đó bằng một quá trình tỉ mỉ kiên nhẫn, chúng tôi đã xây dựng một chương trình được thông tin hoá để đề ra được một trật tự chặt chẽ cho chương trình.
Một sĩ quan giàu sáng kiến của U.S.I.A. đã đề nghị dán rộng rãi ở các chợ những bản áp phích mô tả bộ máy cộng sản ở địa phương, với tên và ảnh của những kẻ chúng tôi đã nắm được. Những áp phích ấy có hai cái lợi: nó khuyến khích dân chúng giúp chúng tôi bắt cộng sản, và nó cũng tạo cơ hội cho bà con được tham gia ý kiến khi tin tức của chúng tôi không đúng. Điều khác giữa áp phích của chúng tôi với áp phích trước đây người ta dán ở miền Viễn Tây nước Mỹ - hứa có thưởng cho những ai bắt được những tên tội phạm dù “sống hay chết” - là chúng tôi bảo đảm cho những người có tên trên áp phích sẽ được hưởng khoan hồng và họ sẽ không hề bị trừng phạt vì những gì họ đã làm trước đó. Không có một biện pháp nào tỏ ra là một “môn thuốc bách bệnh” hết và những lời phàn nàn của các cố vấn vẫn tiếp tục đổ về chỗ chúng tôi. Tuy nhiên tôi vẫn quyết tâm tiếp tục Phượng hoàng với những cải tiến, sửa lại cho đúng, bởi tôi cảm thấy như nó tạo ra một đối âm chủ yếu với phần còn lại của chương trình bình định. Quả vậy, chủ định của chương trình bình định là khuyến khích dân chúng tự bảo vệ và cải thiện điều kiện sống của mình bằng cách tăng cường an ninh, trong khi Phượng hoàng đúng là thứ vũ khí giúp họ chống lại những âm mưu xâm nhập, can dự vào của cộng sản vào đời sống nông thôn ở các làng mà chúng tôi muốn giúp họ thực hiện quyền lực của họ.
Mục tiêu mới của kế hoạch 1970 cũng chú ý cả khu vục đô thị. Do những sức ép đối với nông thôn, những tác động về kinh tế bởi sự có mặt đông đảo của quân đội Mỹ và những yêu cầu dịch vụ của họ, sự tăng trưởng đáng kể của thương mại và công nghiệp nhẹ, thành thị bây giờ chứa đựng tới sáu mươi phần trăm dân số Nam Việt Nam. Trong thời gian còn công tác ở phân cục Viễn Đông của C.I.A. tôi đã có nhiều lần tới Singapore. Ở đấy, tôi đã bị quyến rũ bởi cái cách mà Đảng Hành động dân chúng đã thành lập được ở các quận của thành phố - quốc gia này một mạng lưới các “trung tâm cộng đồng” có tính tập thể dùng để làm cơ sở cho các hoạt động xã hội, quản lý thực hiện nghĩa vụ công dân của người dân thành phố.
Sài Gòn và các thành thị Nam Việt Nam khác lại còn cần đến các trung tâm ấy hơn cả Singapore, bởi đối với người dân, nó sẽ trở thành các “cực” để tập họp họ, có khả năng thay thế cho sự lôi cuốn của các cán bộ cộng sản và các mạng lưới bí mật của nó. Vậy là kế hoạch 1970, dự tính sẽ thành lập các trung tâm kiểu đó, cũng như tổ chức các đơn vị tự vệ ở các trung tâm đô thị. Nhờ hệ thống ấy, người dân có thể tổ chức các đội tuần tra để bảo đảm an ninh cho mình và tiến hành các hoạt động tập thể của khu phố - như thu nhặt rác hay sửa chữa hè phố - có sự tài trợ của một khoản vốn (tựa như quỹ phát triển nông thôn của quận sau khi được dân biểu quyết). Tôi theo ông trưởng khu đến dự những buổi họp tối của dân tụ họp trong một cái sân, nghe họ phát biểu sôi nổi về những yêu cầu của họ (như phải có thêm những điểm nước sạch chẳng hạn). Trong khi vọng từ trên gác xuống những tiếng đập chí chát của lũ trẻ đang chơi bóng bàn. Rõ ràng tương lai của một nước Việt Nam tự do sẽ phải tiến lên từ một ý thức tập thể của các cộng đồng như vậy, cả ở thành thị cũng như ở nông thôn, và những trung tâm ấy sẽ làm mọi cách để tránh những vụ rối loạn của người dân thành phố mà sự nguy hiểm của nó toả ra chẳng kém gì chiến tranh du kích ở nông thôn.
Với những người dân miền núi thì vấn đề lại phải ra một cách khác. Văn hóa và kinh tế của họ rất thô sơ. Từ cổ xưa đến giờ, ở họ chẳng có gì thay đổi. Họ làm lúa nương, áp dụng phương pháp canh tác từ tổ tiên xa xưa truyền lại, tức là khi cần đất để trồng lúa thì họ chặt cây, đốt rẫy. Họ chia thành nhiều bộ tộc và sống khép kín, ít có quan hệ với nhau. Người Pháp dành cho họ một số phận riêng và thường sử dụng họ để xây dựng các đơn vị lính dõng, một thứ lực lượng đặc biệt của miền núi. Đó là những chiến binh tài giỏi, có lẽ nhờ ở tinh thần chống người Việt của họ.
Đối với dân tộc miền núi, người dân miền Nam “thương hại” họ giống như cách mà ở Mỹ chúng tôi đối xử với những thổ dân da đỏ miền Tây. Năm 1965, tình hình căng thẳng tới mức một số bộ tộc đã nổi lên chống lại chính quyền Việt Nam đòi quyền tự trị và nghĩ rằng họ có thể được Lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ ủng hộ. Người ta đã thoát ra khỏi rắc rối này bằng cách nói rõ với họ là người Mỹ chỉ có thể ủng hộ họ qua trung gian của người Việt Nam. Và về điều này, ngay từ đầu C.I.A. đã hiểu rõ.
Chương trình bình định mới đã tạo ra một cách để giải quyết những khó khăn cố hữu của những mối quan hệ đó. Giữa những năm 60, C.I.A. đã cử đến chỗ những người dân miền núi những đội công tác chính trị giống như những đội mà họ đã cử đến các thôn ven biển rồi sau đó nhân rộng ra cả nước, dưới cái tên là cán bộ phát triển nông thôn. Giờ đây, các đội công tác ấy và các trại huấn luyện vùng cao của họ đã được đưa vào kế hoạch tổng thể của chương trình bình định của các tỉnh miền núi. Họ trực thuộc vào chính quyền địa phương và được sự giúp đỡ của các cố vấn C.O.R.D.S. ở địa phương. Cũng như thế, các lực lượng an ninh lãnh thổ và các chương trình của lực lượng tự vệ dân chúng được C.O.R.D.S. giúp đỡ, cũng nhận được lệnh là phải có sự quan tâm đặc biệt tới an ninh của các buôn làng vùng cao.
Để chăm sóc nơi ăn chốn ở cho người dân vùng cao phải di tản khỏi những vùng xảy ra chiến tranh ác liệt giữa quân chính phủ và bộ đội chủ lực Bắc Việt, người ta đã có những nỗ lực đáng kể. Chính trong giai đoạn này, vấn đề di cư bắt buộc đã nảy sinh. Một số nhà chức trách địa phương của Việt Nam đã bắt buộc người dân phải rời bỏ các buôn làng hẻo lánh và bị đe doạ của họ để chuyển đến ở những nơi người ta có thể che chở cho họ. Bước đầu là thường phải chuyển họ đến ở các trại tỵ nạn. Trong khi người vùng núi rất ngán chuyện phải rời bỏ quê hương thì các chỉ huy vùng, với cách suy nghĩ thực tế, cho rằng đó là giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề, vì họ không tài nào có thể bảo vệ nổi cho biết bao nhiêu làng, mà mỗi làng chỉ vẻn vẹn có hai, ba nhà mà lại ở rải rác xa nhau. Cuối cùng, tôi đã tìm được một giải pháp trung gian mà theo tôi đó là một sự thoả hiệp đôi bên có thể chấp nhận được: trong những chỉ thị cho chương trình bình định, người ta quy định là cấm không một quan chức nào phụ trách công tác bình định lại có quyền bắt dân phải di dời, trừ phi là biện pháp đặc biệt ấy được Hội đồng trung ương ở Sài Gòn cho phép. Tổng thống Thiệu nhấn mạnh điều này bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng: “Mục tiêu của chương trình là mang lại an ninh cho dân, chứ không phải là đưa người dân tới chỗ có an ninh”. Thậm chí ông còn giao chức bộ trưởng các sắc tộc thiểu số cho một trong những thủ lĩnh trước đây của vụ bạo loạn 1965 và bổ nhiệm một sỹ quan người dân tộc miền núi lên làm tỉnh trưởng tỉnh Plâycu, một trong những tỉnh quan trọng nhất trên vùng núi.
Có một dấu hiệu khác về sự đồng tâm nhất trí đối với chương trình của chính phủ: Bác sĩ Phan Quang Đán, một cựu sinh viên của Harvard và vốn là kẻ thù không đội trời chung với Ngô Đình Diệm, đã nhận lời tham gia chính phủ để phụ trách công tác tái định cư cho những người tỵ nạn và những người phải di tản vì chiến tranh. Ông hăm hở bắt tay vào việc với một sự nhiệt tình đáng kể và với sự ủng hộ hoàn toàn của C.O.R.D.S. Có lẽ tôi là người duy nhất thấy được điều trớ trêu của tình thế, đó là Đán cũng hăm hở với công việc chẳng khác nào hăm hở của Diệm năm xưa đối với vẫn công việc ấy.
Chương trình bình định tất nhiên chẳng chấm dứt được hết việc di dời bắt buộc, song dù sao nó cũng hạn chế được ít nhiều những khuyết điểm của phương pháp cũ. Còn về phía địch, họ đã bị tác động bởi phương pháp mới: Bằng chứng là một hôm tới thăm một trại tỵ nạn, chân tôi vấp phải cánh của đuôi đạn súng cối 82 đã bị han rỉ, viên đạn mà địch đã bắn vào trại để kích động dân ở đây phải quay về núi mà ở đấy, địch có thể lại lợi dụng được họ.
Việc chuyển tiếp sang kế hoạch 1970 được tiến hành không đứt đoạn, bởi giờ đây ai cũng hiểu rằng công tác bình định đã mang một thay đổi thực sự đối với chiến tranh và tổng thống Thiệu đã có lý khi dành ưu tiên cho nó. Mặt khác Thiệu vẫn tiếp tục các chuyến đi kinh lý hàng tháng ở cả bốn vùng chiến thuật để tự mình xác nhận các tiến bộ đạt được và duy trì một sức ép thường xuyên đối với các tỉnh trưởng. Tôi đã quen với việc đứng giữa trời để nghe những lời chỉ trích bằng tiếng Việt của ông (mà tôi hiểu được những điều chủ yếu nếu không phải là chi tiết), hoặc chứng kiến ông được chia đất. Vị trí ngoài lề của tôi trong đoàn của ông cho phép tôi thu lượm được những thông tin bổ ích về một số chương trình này khác.
Quy mô rộng lớn của chương trình và những nỗ lực của chúng tôi đã thu hút sự chú ý của Washington. Đặc biệt là bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird. Ông đã nhìn thấy trong công tác bình định cái thực chất của Việt Nam hoá, điều kiện để tăng cường chính phủ và quân đội Nam Việt Nam trong việc thay thế quân đội Mỹ đang rút về nước với một nhịp độ ngày càng tăng. Laird là người anh hùng vô danh trong mọi nỗ lực của chiến tranh. Được bổ nhiệm ngay sau tổng tiến công Tết, sau thất bại của Johnson và sự kiệt sức của những người dân chủ, nhà chính trị thông minh này của miền Trung Tây đã hoàn toàn hiểu được sự cần thiết phải đặt cho đúng nỗ lực chiến tranh vào những chỗ nào cần phải giúp đỡ, trong khi hoàn toàn đồng ý với tổng thống là chúng tôi không được thua cuộc hoặc làm ô nhục lời cam kết của chúng tôi bằng một sự đầu hàng. Công thức của ông để dung hoà những nguyên tắc có vẻ trái ngược nhau ấy là: “Việt Nam hoá nỗ lực quân sự đi đôi với bình định nông thôn Nam Việt Nam”. Với những gì liên quan tới bình định, ông đều luôn luôn hỗ trợ chúng tôi về người và phương tiện và không bao giờ bỏ rơi nó. Đường lối của ông đã được cuộc phản công 1972 của Nam Việt Nam hoàn toàn chứng minh là đúng.
Giới thông tin báo chí Mỹ ít khi đề cập đến đề tài bình định, bởi trước hết nó không mấy gây ấn tượng và sau nữa vì những con số thống kê của nó cũng gặp một số nghi ngờ. Nhưng ban Quan hệ đối ngoại của thượng viện do J. William Fullbright làm chủ tịch quyết định quan tâm đến vấn đề này và thông báo sẽ có một cuộc điều trần vào tháng 1 năm 1970 ở Washington. Trong khi đó nước Mỹ và Quốc hội ngày càng tỏ ra chống chiến tranh nên chúng tôi chờ đợi là bình định sẽ bị phản đối.
Tuy nhiên tôi quyết định sẽ nhân dịp này làm rõ trước công luận thực chất của chương trình bình định và nêu lý do tại sao chúng tôi lại cho rằng nó có hiệu quả. Chúng tôi lập một đoàn đại diện cho C.O.R.D.S. ở các cấp, gồm có: tôi, viên chỉ huy chương trình bình định, trưởng ban phụ trách người tỵ nạn, John Vann ở đồng bằng Cửu Long, một viên chức cấp cao của bộ Ngoại giao là cố vấn trưởng của một tỉnh miền núi, một sĩ quan quân đội ở cấp quận, một cố vấn quân sự của Lực lượng lãnh thổ trong tỉnh, một đại uý quân đội chỉ huy đội cố vấn lưu động trong một làng ở đồng bằng Cửu Long và một thượng sĩ lính thuỷ đánh bộ chỉ huy một trung đội lính thuỷ đánh bộ sáp nhập với một trung đội dân vệ Việt Nam của một làng ở trung phần Việt Nam. Trong thành phần của đoàn, chúng tôi muốn có đại diện của các miền khác nhau và có tình thế khác nhau, có chú ý đến những khu vực mà ở đấy tình hình đã cơ bản được cải thiện và những khu vực vẫn đang còn xảy ra chiến sự.
Một loạt tài liệu mô tả chi tiết chương trình được chúng tôi chuẩn bị kỹ. Tôi yêu cầu mọi người trong đoàn ai cũng phải viết một báo cáo đầy đủ và chính xác về những hoạt động của họ. Tôi không yêu cầu họ viết như một lời khai, mà với tư cách một luật sư có kinh nghiệm, tôi chỉ vẽ cho họ cách trả lời trung thực những câu hỏi mà vẫn không cảm thấy mình bị bắt buộc phải khai báo những thông tin mà nếu đưa vào một bối cảnh khác, thì nó sẽ có thể bất lợi.
Ban Quan hệ Đối ngoại của thượng viện quyết định dành ra một trong bốn ngày làm việc để thảo luận về Phượng hoàng, tất nhiên là họp kín bởi chương trình có nhiều điều bí mật. Mới đầu tôi phản đối, khẳng định tôi có thể làm chứng công khai về Phượng hoàng và thậm chí đó là cách tốt nhất để loại bỏ tính chất huyễn hoặc và bi kịch hoá Phượng hoàng. Nhưng ủy ban không đồng ý. Tôi bèn đề nghị các vấn đề về Phượng hoàng cần được nói một cách tương đối đầy đủ trong những buổi họp công khai. Hơn nữa các nghị sĩ cũng quan tâm đến vấn đề này nên tôi yêu cầu các câu trả lời của chúng tôi cũng nên được đưa ra công khai như tôi mong muốn. Nói chung phiên họp kín vẫn xoay quanh tất cả những vấn đề đã nói và sau đó những lời chứng của chúng tôi cũng được phổ biến công khai, trừ tên của một số nhân viên C.I.A. cần phải giữ kín.
Tôi đặc biệt được an ủi và yên lòng bởi một bài báo của tờ Washington Post xuất hiện ngay ngày đầu của cuộc điều trần, một tiểu xảo quen thuộc của báo chí để câu khách. Bài báo cho biết chương trình tiến hành không được tốt và nêu lên một số yếu tố kém mà tác giả lấy được các báo cáo hàng tháng của các tỉnh gửi chúng tôi.
Tuy nhiên tác giả nói thêm chương trình Phượng hoàng không phải là một chương trình nhằm để sát hại, giết chóc, mặc dù ông đã cố công tìm kiếm bằng chứng. Một bài báo khác, viết trong tờ New York Times, kết luận rõ ràng sở dĩ Phượng hoàng gây tai tiếng này khác là do “tính thiếu hiệu quả của nó, nạn tham nhũng và những lỗi lầm của nó, hơn là vì chế độ khủng bố của nó”. Thiếu những yếu tố giật gân nên báo chí chóng chán và vào ngày họp thứ ba, các máy quay phim chụp ảnh biến mất và bàn dành cho báo chí thì gần như bỏ trống.
Sự quan tâm của các nghị sĩ cuối cùng cũng nhạt đi và duy nhất chỉ còn chủ tịch Fullbright là cố bám vào những chi tiết này khác của rất nhiều chương trình có liên quan.
Những báo cáo thống kê trong năm đó chỉ rõ những tiến bộ đều đặn, điều mà chuyến đi của tôi đã xác minh. Cuối năm tôi đã có thể ngủ đêm tại những khu vực mà năm trước chúng tôi gọi là “Lãnh địa của thổ dân” và đi lại ngang dọc trên những con đường, những con kênh mà lúc đó nếu thận trọng thì người ta không nên đi.
Điều ấn tượng nhất có lẽ là chuyến viếng thăm đêm mà John Vann tổ chức cho tôi và một phóng viên đến một thôn nhỏ của tỉnh Kiến Hoà, nơi được coi là cái nôi kháng chiến của cộng sản đồng bằng Cửu Long. John Vann hãnh diện về một ngôi nhà mà trước đây bà Nguyễn Thị Bình đã sống ở đấy. Nay bà là bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ lâm thời của cộng sản Nam Việt Nam và đang dự đàm phán ở Paris, nơi bà thường tiếp những người Mỹ chống chiến tranh. Trong nghĩa trang của làng, hãy còn những bia mộ của các liệt sĩ cộng sản được trang trí nền đỏ sao vàng. Điều đáng chú ý nhất là trong đêm ấy, để bảo vệ cho chúng tôi yên giấc - John Vann, tôi và ba, bốn người Mỹ khác, chúng tôi chỉ có một số đơn vị thuộc lực lượng lãnh thổ và dân vệ vẫn làm nhiệm vụ thường xuyên canh gác ở đấy. Rõ ràng là tình hình đã thay đổi nhiều ở vùng này.
Chúng tôi đưa ra một phương thức (hệ thống) mới để đánh giá thái độ của dân chúng bằng cách thăm dò dư luận. Để đánh giá đúng đắn những thay đổi chính trị, điều mà chúng tôi coi là mục đích chính của chương trình, chúng tôi cần phải có một “chỉ dẫn” tốt hơn là những thống kê khách quan về những sự cố do địch hay sự có mặt của các đội phòng vệ vũ trang ở các ấp, hay các cuộc bầu cử ở địa phương gây ra. Chúng tôi ý thức được một nguy hiểm: đó là người nông dân ranh mãnh sẽ trả lời chúng tôi theo như những gì mà họ đoán chúng tôi muốn nghe. Vì vậy những người hỏi cần phải có sự chuẩn bị đặc biệt để dẫn dắt câu chuyện sao cho người nông dân không có gì phải lo ngại khiến họ nói ra được những lời kêu ca phàn nàn hơn là chỉ trả lời thẳng vào những câu hỏi quen thuộc.
Đương nhiên, những người hỏi phải là người Việt. Tổng thống Thiệu và hội đồng trung ương hiểu rằng bằng cách thăm dò tâm trạng của những người dân người ta có thể đánh giá được thực tế kết quả đạt được của chương trình bình định và do đó sẽ ủng hộ chúng tôi trong công việc. Tất nhiên chúng tôi không nghĩ phương thức thăm dò này cũng như nhiều phương thức khác là hoàn toàn đúng, nhưng chúng khác nhau giữa vùng này và vùng khác và từ đó sẽ công nhận hay phủ nhận những gì viết trong các báo cáo khác.
Giống như trong sinh nở, sau khi những cơn đau ban đầu qua đi, phương thức thăm dò này bắt đầu cung cấp những chỉ dẫn quý giá về những gì dân chúng lo ngại và về những gì mà mọi suy nghĩ về các chương trình khác nhau. Với đôi chút ngạc nhiên, chúng tôi phát hiện ra trong toàn cục, người dân rất tin tưởng vào sự che chở của quân đội Mỹ và cũng gần như thế là sự che chở của quân đội Nam Việt Nam. Cuối cùng rồi mới đến cảnh sát và đó là điều chúng tôi không ngạc nhiên. Những điều lo ngại do việc thực hiện chương trình Phượng hoàng không nằm ngoài dự kiến của chúng tôi, nhưng điều lạ lùng là dân chúng tán thành mục tiêu của nó là tăng cường những biện pháp phòng vệ để chống lại hạ tầng cơ sở bí mật của cộng sản. Tất cả mọi người đều được hưởng những thành quả của việc cải thiện kinh tế, xã hội và tỏ lòng tin tưởng đối với chính quyền địa phương và đó là một sự xác nhận thú vị đối với chiến lược cơ bản của công tác bình định của chúng tôi.
Bầu không khí được cải thiện cũng cho phép chúng tôi điều chỉnh được nhịp độ của các kế hoạch thực hiện. Một hôm trong khi chiếc trực thăng của tôi cất cánh từ tổng hành dinh lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Đà Nẵng, tôi nhận thấy ở phía dưới tôi có hai chiếc thuyền buồm rõ ràng là do một nước phương Tây sản xuất. Chẳng cần phải điều tra lâu, tôi biết đây là hoạt động của một số sĩ quan lính thủy đánh bộ, những người không muốn mất đi cái thú chơi thuyền buồm từ thời ở Annapolis. Điều tra sâu hơn một chút, tôi thấy mình có khả năng mượn được của họ một chiếc thuyền để hôm nào có thể giong buồm ra chơi trên vịnh Đà Nẵng dưới ánh nắng mặt trời chói chang. Vài tuần sau, đại sứ Bunker có một chuyến công du ra vùng ấy cùng với phu nhân, bà cũng là đại sứ Mỹ ở Nêpan. Để nghỉ ngơi một chút, tôi đã mời ông bà một ngày đi chơi biển. Biết đại sứ cũng rất thích thuyền buồm, Bộ Tư lệnh lính thuỷ đánh bộ đã tổ chức cho chúng tôi nhiều chuyến đi khác, thuỷ thủ đoàn của họ đôi khi còn có cả những sĩ quan thuộc êkíp vận động viên Thế vận hội. Chúng tôi đã có những giờ phút thư giãn thú vị như thế, tuy rằng ngắn ngủi, sau một tuần làm việc căng thẳng. Nhưng trước hết đối với chúng tôi những chuyến đi ấy đã chứng tỏ rằng chỉ trong hai năm, chúng tôi đã đạt được những tiến bộ to lớn biết bao.
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ