Ancient lovers believed a kiss would literally unite their souls, because the spirit was said to be carried in one’s breath.

Eve Glicksman

 
 
 
 
 
Tác giả: Cao Hành Kiện
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Trần Đĩnh
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 82
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7882 / 158
Cập nhật: 2015-08-05 20:17:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18
hi ta đến bờ hồ tảo, ở nguồn của sông Ô Giang, Sông Đen, trời sầm xì và lạnh. Bên hồ xây một tòa nhà mới. Đấy là trung tâm quản trị của khu bảo tồn tự nhiên mới mở, đứng một mình giữa cái vùng bùn mênh mông này, dựa trên những móng cao làm bằng đá phiến xếp chèn. Người ta đến đó bằng một đường mòn lầy và xốp; hồ lui đã rất xa, nhưng trên bờ cũ còn mọc lên đây đó những cỏ nước hiếm hoi. Leo cầu thang đá bên tòa nhà, người ta đến những gian được chiếu sáng hoàn hảo nhờ các cửa sổ lớn, những mẫu vật chim, cá, bò sát chất đống ở đây.
Người phụ trách trung tâm quản trị tầm vóc cao, mặt toát ra lòng độ lượng. Ông cắm bếp điện để rót đầy trà vào một cái ca tráng men lớn. Ông ra hiệu bảo ta lại gần lửa để uống trà đang nóng.
Ông nói rằng mười năm trước, quanh hồ, một vùng chung quanh hàng trăm, núi hãy còn cây che phủ. Hai mươi năm sớm hơn nữa, một rừng rậm và tăm tối trải ra đến tận bờ hồ và ông thường tình cờ nhìn thấy hồ. Bây giờ, ngay đến các búi cây cũng biến mất khỏi các núi, đồi. Gỗ dùng để nấu cơm và nhất là để sưởi. Mười năm vừa rồi, mùa đông đặc biệt rét, băng giá sớm và hạn hán mùa xuân rất gay gắt. Trong Cách mạng văn hóa, Ủy ban cách mạng huyện vừa mới lập đã muốn cách tân bằng dẫn nước cải tạo đồng ruộng trong toàn huyện. Huy động một trăm nghìn dân công đánh mìn mở hàng chục con mương tưới tiêu và đắp đập ngăn hồ. Nhưng làm cạn cái hồ với những trầm tích lâu hàng nhiều triệu năm không dễ. Năm đó một trận gió lốc đã nổi lên trên mặt hồ, nông dân cả quyết rằng con rồng đen của hồ Tảo bị quấy rầy đã chạy trốn. Bây giờ chỉ còn lại một phần ba khối lượng nước. Bờ hồ hóa thành đầm lầy. Người ta chẳng làm cạn các đầm lầy ấy mà rồi cũng chẳng trả lại được cho chúng cái dáng vẻ ban đầu.
Ở cửa sổ đặt một ống nhòm có tàm nhìn rất lớn. Trong ống kính, vùng nước xa nhiều cây số đang biến thành một bề mặt mênh mông lóa trắng. Người ta phân biệt bằng mắt thường một chấm nhỏ tôi tối. Đó là một cái thuyền với đằng mũi bóng hai người hiện ra nhưng mặt vẫn bị lờ mờ. Ở đăng đuôi, một người đang cử động, tựa như quăng lưới.
- Diện tích hồ lớn thế này, không tài nào kiểm soát được họ. Khi mình đến, họ đã chuồn từ lâu, ông nói.
- Cái hồ này nhiều cá không?
- Bắt ở đây cả trăm thậm chí cả nghìn cân cá một mẻ là chuyện dễ. Vấn đề là người ta còn cứ dùng mìn. Con người ta tham mà, làm sao lại được.
Ông lắc đầu, vì chính ông chịu trách nhiệm về cái trạm quản trị của khu vực bảo vệ tự nhiên.
Ông bảo ta hồi đầu những năm năm mươi, một người đỗ tiến sĩ đã được cử đến đây sau khi anh ta ở nước ngoài về. Anh ta quê quán ở Thượng Hải, đến làm ở đây; đầy nhiệt tình, anh đứng đầu một nhóm bốn sinh viên tốt nghiệp sinh học và thủy canh để lập một trạm chăn nuôi động vật hoang dại. Anh đã nuôi thành công rái cá, cáo bạc, ngỗng đầu loang lổ cũng như nhiều loại chim nước và cá. Nhưng rất nhanh anh đã mâu thuẫn với nông dân săn bắt trái phép. Một hôm anh đi qua ruộng ngô, một nông dân phục sẵn đã chụp lấy đầu anh từ đằng lưng, quàng vào cổ anh một rổ ngô mới bẻ rồi đổ cho anh ăn cắp mà đánh anh đến hộc máu mồm. Không một cán bộ nào của huyện ủy dám đứng ra bảo vệ chính nghĩa của một phần tử trí thức, thế là anh chết, tức chết. Trạm chăn nuôi tự giải thể, rái cá được đem chia cho các cơ quan khác nhau của huyện ủy thịt chén.
- Anh ấy không có gia đình à?
- Không ai nói chuyện đó. Các sinh viên đi theo anh ấy đã đến dạy học ở cac trường đại học, tại Trung Khánh và Quí Dương.
- Cũng chẳng ai đến đặt vấn đề chuyện anh ấy?
Ông nói rằng vào dịp thanh lọc các hồ sơ liên quan các vụ lâu ngày của huyện mới phát hiện ra hơn một chục sổ tay của anh ấy, trong đó ghi nhiều điều chỉ dẫn về môi sinh của hồ này. Ông đã xem xét kĩ và thấy chúng rất tỉ mỉ mà viết cũng rất văn vẻ. Nếu ta thấy thú, ông có thể cho xem.
Một âm thanh rỗng không cất lên, đén từ đâu không rõ, như tiếng của một ông già cố ho.
- Tiếng gì thế?
- Hạc, ông nói.
Ông đưa ta xuống tầng trệt. Trong gia chăn nuôi quây bằng lưới sắt, có một con hạc cổ đen đầu đỏ, cao hơn một mét và nhiều con hạc xám, chốc chốc chúng lại kêu lên. Ông bảo ta rằng con hạc cổ đen bị thương vào chân và họ đã bắt được nó để nuôi, còn các hạc xám đẻ ra năm nay thì bắt được ở tổ trước khi biết bay. Trước kia, vào mùa thu, hạc đên qua mùa đông ở đây. Chúng ở khắp nơi trong các đám lau sậy ven hồ nhưng về sau, chúng đã gần như biến mất hoàn toàn vì săn bắn. Sau khi lập khu vực tự nhiên, cách đây hai năm, khoảng sáu chục con đã trở lại và năm ngoái, hơn ba trăm con hạc xám cổ đen. Đông hơn cả vẫn là hạc xám, nhưng vẫn chưa thấy hạc đầu đỏ về.
Ta hỏi ông liệu có ra hồ được không. Ông bảo mai, nếu có mặt trời, ông sẽ bơm xuồng cao su đưa ta làm một vòng. Hôm nay, gió quá mạnh và trời quá lạnh.
Ta cáo biệt ông rồi thả bước đi ra phía hồ.
Men theo một con đường nhỏ ở sườn núi, ta đến một cái chòm có bảy, tám gia đình sinh sống. Cột kèo các ngôi nhà đều bằng đá. Chỉ có những cây non mới trồng ở trước cửa nhà và trong sân. Cách đây vài chục năm, rừng sâu đen ngòm chắc phải viền bọc lấy cái chòm này.
Ta xuống tới ven hồ, bước qua các vồng đất mềm nhão, lầy lội ở giữa các thửa ruộng. Thời tiết này tụt giày chân đi không thì quá lạnh nhưng để giày thì bùn cư dày thêm dần ở dưới đế. Trước mặt ta, tận đầu cùng cánh đồng, có một con thuyền và một đứa bé ở bên hồ. Nó mang xô và cần câu. Ta thèm đẩy con thuyền đến chỗ nó, bèn hỏi nó:
- Cho thuyền này xuống nước được không?
Nó đi chân đất, quần xắn cao quá gối. Nó nom vẻ mười ba hay mười bốn tuổi. Mắt nó không để vào ta mà hướng về sau ta nữa. Quay đầu lại, ta thấy một hình người ở rìa làng đang gọi nó. Ở rất xa, cái bóng này như mặc áo cánh màu sắc tươi tắn, và là dáng một đứa con gái. Ta bước một bước lại phía thằng bé. Giày ta sục hoàn toàn vào bùn.
- Ơi...ya...yi...yơ...!
Âm thanh xa ấy nói cái gì ta nghe không rõ, chỉ thấy tiếng gọi tron veo dễ chịu. Chắc là gọi thằng bé. Cần câu trên vai, nó đi ngang qua người ta.
Ta càng đi lên càng khó, những đã đến ven hồ rồi thì âu bằng ta cứ ra giữa hồ nhìn xem một cái. Cái thuyền ở cách ta quá lắm mười bước. Ta chỉ việc xoạc cẳng xang chỗ thằng bé vừa đứng ở đó là đến được tới thuyền, chỗ đất ấy có vẻ khô rắn hơn. Một sào tre cắm ở mũi thuyền. Ta đã dò ra thấy trong lau sậy những con chim nước đang bay. Có lẽ vịt trời. Chúng đang kêu nhưng vì gió thổi từ bờ đến cho nên nghe thấy tiếng gọi rất xa của hai đứa bé mà không rõ được tiếng chim nước kêu ở chỗ gần trên mặt nước này.
Ta tự nhủ chỉ cần đẩy cái thuyền cho ra khỏi các búi sậy thì tới được các vùng nước rộng lớn kia. Để cho ta một mình trôi bồng bềnh giữa hồ, trong các đồi cao biệt lập và êm ả này, ta sẽ chẳng phải nói với ai mà hòa tan vào cảnh quan chỉ còn là một với ánh hồ, sắc trời, các màu núi cũng không phải là xoàng. Ta rút chân để đi lên một bước nhưng ta liền thụt đến nửa ống chân vào bùn. Ta không dám đưa sức nặng của ta về đằng trước. Ta biết rằng một khi đầu gối ta bị ngập, ta sẽ không còn cách nào để thoát ra khỏi đây. Ta cũng không dám xê dịch bàn chân sau. Không thể tiến thoái, ta không biết làm gì nữa. Tình huống hề, dĩ nhiên, nhưng vì không ai thấy ta, không ai có thể cười nhưng cũng chính vì thế lại càng ít người đến giúp ta được hơn. Cái này mới đáng ngán.
Cũng giống như lúc nãy ta từng thấy những người ở trên thuyền của họ nhờ cái ống nhòm của trung tâm quản trị, bây giờ ta cũng chỉ có thể hiện ra qua ống nhòm của họ như một cái bóng thấp thoáng không rõ mặt. Cho dù có chĩa ống nhòm vào ta, người ta cũng nghĩ đây chỉ là một nông dân ra hồ vớt nhặt vài sản phẩm gì đó để có thêm thu nhập và chẳng ai sẽ quan tâm đến việc đó.
Mặt nước im lặng, lũ chim nước đã biến mất. Mặt nước lấp lánh đang dần dần tối lại, không thể phân biệt ra. Sắc màu hoàng hôn từ các búi lau sập lan rộng đi, không khí lạnh dâng lên ở dưới chân ta. Ta tê cứng. Không tiếng dế rúc, không tiếng ếch nhái kêu. Rút cục, có thể đây chính là cái im lìm nguyên thủy trụi hết ý nghĩa mà ta nắm bắt được chăng?
Linh Sơn Linh Sơn - Cao Hành Kiện Linh Sơn