Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 18: Một Ngày Tuyệt Vời
“C
hỗ này làm tôi sởn gai ốc,” Beate nói.
“Ở đây có một bệnh nhân nổi tiếng, tên là Arnold Juklerød,” Harry nói. “Ông ta nói nơi này là bộ não của con thú bệnh hoạn có tên là tâm thần học. Vậy là cô không tìm được gì về Stine Grette à?”
“Không. Hồ sơ không tì vết, và tài khoản ngân hàng của cô ta không cho thấy bất thường nào về tài chính cả. Không mua sắm vô tội vạ trong những cửa hàng quần áo hay ăn uống lu bù ở nhà hàng. Không có những khoản chi ở trường đua ngựa Bjerk hay bất cứ dấu hiệu cờ bạc nào. Sự phung phí duy nhất tôi lần được ra là chuyến du lịch tới São Paulo mùa hè này.”
“Còn chồng cô ta?”
“Cũng y chang. Chắc chắn và đúng mực.”
Họ đi vào qua cổng dẫn vào bệnh viện Gaustad và bước vào một khoảng sân nằm lọt thỏm giữa những tòa nhà lớn bằng gạch đỏ.
“Giống một cái nhà tù,” Beate nói.
“Heinrich Schinner,” Harry nói, “Kiến trúc sư người Đức thế kỷ mười chín. Cũng là người thiết kế nhà tù Botsen.”
Một nhân viên chăm sóc ra đón họ tại quầy lễ tân. Anh ta có mái tóc nhuộm đen và trông như thể anh ta nên chơi trong một ban nhạc hoặc làm nghề thiết kế gì đó. Thật ra thì đó đúng là công việc của anh ta.
“Trond Grette hầu như chỉ toàn ngồi nhìn ra cửa sổ,” anh ta nói trong lúc họ bước dọc hành lang tới khu G2.
“Anh ta đã sẵn sàng nói chuyện chưa?”
“Rồi, anh ta nói chuyện được…” Người nhân viên chăm sóc đã phải trả sáu trăm krone để tạo mái tóc bù xù, và giờ thì anh ta đang chỉnh lại một nhúm tóc và chớp mắt nhìn Harry qua cặp kính gọng sừng màu đen, khiến anh ta trông giống như một anh chàng ngộ chữ một cách đúng kiểu, tức là, để dân sành điệu có thể thấy anh ta không phải là kẻ ngộ chữ mà là một người biết ăn diện hợp thời.
“Đồng nghiệp của tôi thắc mắc là liệu Grette có đủ tỉnh táo để nói về vợ của anh ta không,” Beate nói.
“Các vị cứ thử sẽ biết,” anh ta đáp rồi trả nhúm tóc trở về phía trước cặp kính. “Nếu anh ta lại điên lên nữa thì tức là anh ta chưa sẵn sàng.”
Harry không hỏi làm sao họ biết được khi nào một người điên lên. Họ tới cuối hành lang và người nhân viên chăm sóc mở một cánh cửa có ô cửa sổ hình tròn.
“Anh ta cần phải bị nhốt à?” Beate hỏi, nhìn quanh phòng lễ tân sáng sủa.
“Không.” Nhân viên chăm sóc đáp, nhưng không giải thích thêm mà chỉ vào lưng cái áo choàng màu trắng trên một chiếc ghế đã được kéo tới chỗ cửa sổ.
“Tôi ở trong phòng trực nằm bên trái đường ra.”
Họ bước tới chỗ người đàn ông đang ngồi trên ghế. Anh ta đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ và thứ duy nhất cử động là bàn tay phải của anh ta, đang chầm chậm rê cái bút trên một tập giấy, giật giật và máy móc như một cánh tay rô bốt.
“Anh Trond Grette phải không?” Harry hỏi.
Anh không nhận ra cái người quay mặt lại. Grette đã cắt trụi tóc, mặt anh ta gầy rộc đi và vẻ điên loạn trong mắt anh ta từ cái đêm trên sân tennis được thay thế bằng ánh mắt điềm tĩnh, trống rỗng xa xăm, nhìn xuyên qua họ. Harry đã từng thấy ánh mắt đó. Ánh mắt của những kẻ đã bị tống giam vài tuần và bắt đầu ăn năn về tội lỗi của mình. Bản năng mách bảo Harry rằng người đàn ông này cũng đang như vậy. Anh ta đang sám hối.
“Chúng tôi là cảnh sát,” Harry nói.
Grette hướng cái nhìn trở lại với họ.
“Chúng tôi đến vì vụ cướp ngân hàng và chuyện về vợ anh.”
Grette nhắm hờ mắt, như thể anh ta phải tập trung mới hiểu Harry đang nói gì.
“Chúng tôi băn khoăn là liệu có thể hỏi anh vài câu không,” Beate lớn tiếng nói.
Grette chậm rãi gật đầu. Beate kéo một chiếc ghế lại gần và ngồi xuống. “Anh có thể nói cho chúng tôi biết về cô ấy chứ?” cô hỏi.
“Nói cho các vị biết ư?” Giọng anh ta rên rỉ như cánh cửa bị khô dầu.
“Vâng,” Beate nói, mỉm cười dịu dàng. “Chúng tôi muốn biết Stine là người thế nào. Cô ấy đã làm gì. Cô ấy thích gì. Hai người đã có những dự định gì. Những chuyện như vậy.”
“Những chuyện như vậy ư?” Grette nhìn Beate. Rồi anh ta đặt cái bút xuống. “Chúng tôi định sinh con. Đó là dự định của chúng tôi. Những đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm. Cô ấy muốn có một cặp sinh đôi. Hai cộng hai, cô ấy luôn nói vậy. Hai cộng hai. Chúng tôi sắp sửa bắt đầu. Chính là lúc này đây.” Mắt anh ta rưng rưng.
“Hai người lấy nhau lâu rồi, phải không?”
“Mười năm,” Grette đáp. “Nếu chúng không chơi tennis thì tôi cũng sẽ chẳng thấy buồn đâu. Chúng ta không thể ép con cái thích những gì cha mẹ chúng thích được, phải không nào? Có thể chúng sẽ thích cưỡi ngựa. Cưỡi ngựa thì tuyệt lắm.”
“Cô ấy là kiểu người như thế nào?”
“Mười năm,” Grette nhắc lại, lại quay ra cửa sổ. “Chúng tôi gặp nhau năm 1988. Tôi vào trường Quản lý ở Oslo, còn cô ấy học năm cuối trường trung học Nissen. Cô ấy là cô gái xinh nhất tôi từng gặp. Tôi biết mọi người đều bảo rằng người xinh đẹp là người mà ta chẳng bao giờ có được và có lẽ đã quên mất, nhưng với Stine thì điều đó đã đúng. Và tôi chưa bao giờ ngừng nghĩ rằng cô ấy là người xinh đẹp nhất. Chúng tôi dọn về sống chung sau một tháng và ở bên nhau từng ngày, từng đêm suốt ba năm trời. Vậy mà tôi vẫn không thể tin nổi khi cô ấy gật đầu đồng ý trở thành Stine Grette. Lạ quá phải không? Khi anh yêu ai đó tha thiết, anh sẽ không thể hiểu nổi tại sao họ lại yêu anh. Phải là ngược lại mới đúng, phải không?”
Một giọt nước mắt rớt xuống tay ghế.
“Cô ấy tốt bụng. Giờ không còn nhiều người đánh giá cao phẩm chất đó nữa. Cô ấy đáng tin, trung thành và lúc nào cũng nhẹ nhàng. Và dũng cảm nữa. Nếu cô ấy nghĩ là cô ấy nghe thấy tiếng động dưới nhà và tôi đang ngủ thì cô ấy sẽ tự dậy và đi xuống dưới. Tôi bảo cô ấy phải đánh thức tôi dậy vì nhỡ có kẻ trộm thật thì sao? Nhưng cô ấy chỉ cười và bảo: Thế thì em sẽ mời chúng ăn bánh quế và bánh quế tỏa mùi thơm thì sẽ làm anh tỉnh giấc, vì lần nào em làm bánh quế anh cũng tỉnh dậy. Mùi bánh quế lẽ ra phải đánh thức tôi khi… đúng thế.”
Anh ta khịt mũi. Những cành trơ trụi của cây dương bên ngoài đung đưa trong cơn gió mạnh. “Lẽ ra em nên làm bánh quế,” anh ta thì thào. Rồi anh ta cố gượng cười mà nghe như khóc.
“Bạn bè của cô ấy thế nào?” Beate hỏi.
Grette vẫn chưa dứt cười và cô phải nhắc lại câu hỏi lần nữa.
“Cô ấy thích ở một mình,” anh ta đáp. “Có lẽ bởi vì cô ấy là con một. Cô ấy từng rất hay liên lạc với cha mẹ mình. Nhưng rồi chúng tôi đã có nhau. Chúng tôi chẳng cần tới ai khác nữa.”
“Cô ấy có thể có liên hệ với ai khác mà anh không biết chứ?” Beate hỏi.
Grette nhìn cô. “Ý cô là gì?”
Má Beate đỏ bừng lên và cô thoáng mỉm cười. “Ý tôi là vợ anh có thể không nhất thiết phải kể lại mọi cuộc trò chuyện với tất cả những ai mà cô ấy gặp.”
“Tại sao không? Cô đang cố gắng nói điều gì vậy?”
Beate nuốt khan và liếc sang Harry. Anh đỡ lời. “Trong những cuộc điều tra, chúng tôi luôn luôn phải kiểm tra mọi khả năng, dù có thể khó lòng xảy ra. Và một trong những khả năng đó là có nhân viên ngân hàng đã cấu kết với tên cướp. Đôi khi có nội gián trong cả việc lên kế hoạch lẫn thực hiện vụ cướp. Ví dụ như ở đây, rõ ràng tên cướp biết khi nào cây ATM được nạp tiền.” Harry nhìn chăm chú vẻ mặt Grette để xem anh ta đón nhận chuyện đó như thế nào. Nhưng ánh mắt anh ta cho thấy anh ta đã lại rời bỏ họ. “Chúng tôi cũng đặt những câu hỏi này với tất cả các nhân viên khác,” anh nói dối.
Một con chim ác là kêu ré lên trên cái cây bên ngoài. Tiếng kêu ai oán, cô đơn. Grette gật đầu. Lúc đầu còn chậm chạp, sau nhanh hơn.
“À,” anh ta nói. “Tôi hiểu rồi. Các vị nghĩ đó là lý do vì sao Stine bị bắn chứ gì. Các vị nghĩ cô ấy biết tên cướp. Và khi hắn sử dụng cô ấy xong rồi thì hắn bắn cô ấy để chặt đứt mọi liên hệ dẫn tới hắn, phải vậy không?”
“Phải, ít ra thì đó cũng là một khả năng trên lý thuyết,” Harry nói.
Grette lắc đầu và lại cười: tiếng cười buồn bã, trống rỗng. “Rõ ràng là các vị chẳng hiểu gì về Stine của tôi cả. Cô ấy chẳng bao giờ có thể làm bất cứ chuyện gì như thế. Và việc gì cô ấy phải làm thế? Nếu cô ấy sống lâu thêm chút nữa thì cô ấy đã là triệu phú rồi.”
“Vậy sao?”
“Walle Bøldtker, ông cô ấy. Tám mươi lăm tuổi và sở hữu ba tòa chung cư ở trung tâm thành phố. Ông cụ bị chẩn đoán ung thư phổi dạo hè và chỉ còn một con đường duy nhất mà thôi. Mỗi đứa cháu của ông ấy sẽ được nhận một tòa chung cư.”
Câu hỏi của Harry hoàn toàn là phản xạ: “Giờ thì ai sẽ được nhận tòa chung cư của Stine?”
“Những đứa cháu khác,” Grette trả lời với giọng nói đầy ghê tởm. “Và giờ thì các vị sẽ kiểm tra chứng cứ ngoại phạm của họ chứ gì?”
“Theo anh chúng tôi có nên làm thế không?” Harry hỏi.
Grette định trả lời, rồi lại thôi khi nhìn vào mắt Harry. Anh ta cắn môi dưới. “Tôi xin lỗi,” anh ta nói, xoa một bàn tay lên khuôn mặt chưa cạo râu. “Đương nhiên là tôi phải lấy làm mừng khi các vị kiểm tra mọi khả năng. Chỉ là mọi chuyện có vẻ như vô vọng. Và vô nghĩa nữa. Dù anh có bắt được hắn thì tôi cũng chẳng bao giờ lấy lại được thứ mà hắn đã cướp đi của tôi. Ngay cả án tử hình cũng không làm được điều đó. Mất mạng sống chưa phải là điều tồi tệ nhất.” Harry đã biết anh ta sẽ nói tiếp câu gì. “Điều tồi tệ nhất là mất lý do để sống.”
“Đúng thế,” Harry đáp và đứng dậy. “Đây là danh thiếp của tôi. Hãy gọi cho tôi bất cứ khi nào anh chợt nghĩ ra điều gì. Anh cũng có thể gọi điện đề nghị nói chuyện với cô Beate Lønn.”
Grette đã lại quay ra cửa sổ và không nhìn thấy Harry đang chìa danh thiếp ra, vì vậy anh để lại trên bàn. Bên ngoài, trời đang tối dần và họ nhìn thấy những cái bóng trong mờ phản chiếu trên cửa sổ, như những bóng ma.
“Tôi có cảm giác là đã từng thấy hắn,” Grette nói. “Vào ngày thứ Sáu, tôi thường đi thẳng từ chỗ làm tới nơi chơi bóng quần ở trung tâm Focus trên phố Sporveisgata. Không có bạn chơi cùng nên tôi đành vào phòng tập thể hình. Nâng tạ, đạp xe, những bài tập kiểu như vậy. Lúc đó, người đến tập đông tới mức phải xếp hàng.”
“Đúng thế,” Harry nói.
“Khi Stine bị giết, tôi đang ở đó. Cách ngân hàng ba trăm mét. Đang chờ tắm và đi về nhà để nấu ăn. Tôi luôn nấu ăn vào tối thứ Sáu. Tôi thích đợi cô ấy. Thích… chờ đợi. Đàn ông không phải ai cũng thế.”
“Anh nói anh đã từng thấy hắn nghĩa là sao?” Beate hỏi.
“Tôi đã thấy ai đó đi ngang qua mặt tôi để vào phòng thay đồ. Hắn mặc bộ đồ lùng thùng màu đen. Trông giống như một bộ bảo hộ lao động.”
“Đội mũ trùm đầu chứ?”
Grette lắc đầu.
“Hay là một cái mũ lưỡi trai?” Harry hỏi.
“Tay hắn cầm một cái mũ. Có thể là một cái mũ trùm đầu. Hoặc là một cái mũ lưỡi trai.”
“Anh có nhìn thấy mặt…”
Harry chưa nói hết thì bị Beate ngắt lời. “Hắn cao bao nhiêu?”
“Không rõ.” Grette đáp. “Tầm thước. Nhưng mà tầm thước là bao nhiêu nhỉ? Mét tám à?”
“Sao lúc trước anh không nói với chúng tôi?” Harry hỏi.
“Bởi vì,” Grette nói, áp những ngón tay lên cửa kính, “Đó chỉ là một cảm giác. Tôi biết đó không phải là hắn.”
“Làm sao anh có thể chắc chắn đến thế?” Harry hỏi.
“Vì hai đồng nghiệp của các vị đã tới đây vài ngày trước. Cả hai đều có họ Li.” Anh ta xoay ghế lại và nhìn thẳng vào Harry. “Họ là họ hàng à?”
“Không. Họ muốn gì?”
Grette rút tay lại. Cửa sổ phủ sương quanh những dấu tay nhờn bóng.
“Họ muốn kiểm tra xem liệu Stine có dính líu gì tới tên cướp hay không. Và họ cho tôi xem những tấm ảnh chụp vụ cướp.”
“Và?”
“Bộ quần áo màu đen nhưng không có chữ hay hình thù gì cả. Còn bộ đồ tôi nhìn thấy ở phòng tập Focus lại in chữ cái lớn màu trắng trên nền đen.”
“Chữ gì?” Beate hỏi.
“P-O-L-I-T-I,” Grette đáp, xóa những dấu tay nhờn bóng đi. “Sau đó, khi xuống phố, tôi nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát hú lên ở trên phố Majorstuen. Điều đầu tiên tôi nghĩ tới là bọn trộm cướp tẩu thoát được với sự hiện diện dày đặc như thế của cảnh sát thì thật lạ.”
“Đúng vậy. Điều gì đã khiến anh nghĩ thế?”
“Tôi không biết. Có lẽ là vì có kẻ đã trộm vợt bóng quần của tôi trong phòng thay đồ lúc tôi đang tập. Ý nghĩ tiếp theo của tôi là ngân hàng của Stine bị cướp. Đầu óc anh sẽ vận động như vậy khi trí tưởng tượng của anh được tự do, phải không? Sau đó tôi về nhà và làm món lasagne. Stine mê món đó lắm.” Grette cố nở một nụ cười. Rồi những giọt nước mắt cứ thế tuôn rơi.
Harry dán mắt vào mẩu giấy mà Grette đã viết để không phải thấy cảnh một người đàn ông trưởng thành khóc.
“Tôi thấy trong bảng kê tài khoản ngân hàng định kỳ sáu tháng của anh, anh đã rút một khoản tiền lớn.” Giọng Beate nghe sắt đá và gay gắt. “Ba mươi nghìn krone chi ở São Paulo. Anh đã sử dụng số tiền đó vào việc gì thế?”
Harry ngước nhìn cô sửng sốt. Cô có vẻ không hề mủi lòng trước cảnh tượng vừa rồi.
Grette mỉm cười trong làn nước mắt. “Stine và tôi đã kỷ niệm mười năm ngày cưới ở đó. Cô ấy được nghỉ và tới đó một tuần trước tôi. Đó là khoảng thời gian chúng tôi xa nhau lâu nhất.”
“Tôi hỏi là anh đã sử dụng ba mươi nghìn krone quy đổi sang tiền Brazil như thế nào,” Beate nhắc.
Grette quay ra cửa sổ. “Đó là chuyện riêng.”
“Nhưng đây là một vụ giết người, anh Grette.”
Grette nhìn cô rất lâu và khó chịu. “Rõ ràng là cô chưa từng yêu ai bao giờ phải không?”
Beate sầm mặt.
“Nữ trang Đức ở São Paulo được coi là thuộc hạng nhất trên thế giới,” Grette đáp. “Tôi đã mua chiếc nhẫn kim cương Stine đeo khi cô ấy bị giết.”
Hai nhân viên chăm sóc tới đón Grette. Đã đến giờ ăn trưa. Harry và Beate đứng bên cửa sổ nhìn theo anh ta trong lúc đợi người chăm sóc lúc nãy đưa họ ra.
“Tôi xin lỗi,” Beate nói. “Tôi đã hành động thật ngu ngốc. Tôi…”
“Không sao,” Harry nói.
“Chúng ta vẫn luôn kiểm tra tài chính của nghi phạm trong những vụ cướp ngân hàng, nhưng có lẽ lần này tôi đã đi quá xa…”
“Tôi đã bảo là không sao mà, Beate. Đừng bao giờ xin lỗi vì những câu hỏi cô đã đặt; mà hãy xin lỗi vì những câu hỏi mà cô chưa đặt.”
Anh chàng nhân viên chăm sóc tới mở khóa cửa.
“Anh ta sẽ ở đây bao lâu?” Harry hỏi.
“Anh ta sẽ được trả về vào thứ Tư,” anh ta đáp.
Khi ngồi trên ô tô lái về trung tâm thành phố, Harry hỏi Beate tại sao nhân viên chăm sóc luôn nói, ‘trả bệnh nhân về nhà’. Dù sao thì họ đâu có cung cấp phương tiện, phải không? Và bệnh nhân tự quyết định xem liệu họ có muốn về nhà không, hoặc đi bất cứ nơi nào khác cơ mà? Vì vậy tại sao họ không nói ‘về nhà’? Hoặc ‘cho ra viện’?
Beate không có ý kiến gì về chuyện đó, và Harry tập trung vào thời tiết u ám, nghĩ rằng anh đã bắt đầu cằn nhàn như một ông già lẩm cẩm mất rồi. Trước kia anh chỉ cằn nhằn thôi.
“Anh ta đã đổi kiểu tóc,” Beate nói. “Và đeo kính.”
“Ai cơ?”
“Cái anh chàng nhân viên chăm sóc ấy.”
“Ồ, tôi không biết là cô quen anh ta đấy.”
“Chúng tôi không quen. Có lần tôi đã thấy anh ta trên bãi biển ở Huk. Cả ở Eldorado và Stortingsgata nữa. Tôi nghĩ là ở Stortingsgata thì đúng hơn… chắc là năm năm trước.”
Harry nhìn cô chăm chú. “Tôi không nghĩ đó lại là kiểu người cô thích đấy.”
“Không phải vậy,” cô nói.
“À,” Harry nói. “Tôi quên mất. Đó là nhược điểm của não cô.”
Cô mỉm cười. “Oslo nhỏ như lòng bàn tay ấy mà.”
“Vậy ư? Thế cô đã thấy tôi bao nhiêu lần trước khi về làm ở Sở Cảnh sát?”
“Một lần. Năm năm trước.”
“Ở đâu?”
“Trên ti vi. Lúc đó anh vừa phá vụ án ở Sydney.”
“Ừm. Tôi đoán là hẳn điều đó đã để lại ấn tượng.”
“Tôi chỉ nhớ là tôi thấy bực chuyện anh tỏ vẻ như người hùng mặc dù đã thất bại.”
“Ồ.”
“Anh không đưa tên giết người ra tòa mà bắn hắn chết tươi.”
Harry nhắm mắt lại và nghĩ tới cảm giác khoan khoái khi được rít hơi đầu tiên của điếu thuốc tiếp theo. Anh vỗ ngực để xem bao thuốc có nằm trong túi áo không và lôi ra một mảnh giấy đã được gấp lại cho Beate xem.
“Gì vậy?” Beate hỏi.
“Tờ giấy mà Grette đã viết nguệch ngoạc lên.”
“Một Ngày Tuyệt Vời,” cô đọc.
“Anh ta đã viết câu đó mười ba lần. Hơi giống trong phim The Shining, phải không?”
“The Shining ư?”
“Cô biết đấy, phim kinh dị ấy mà. Stanley Kubrick đạo diễn.” Anh liếc nhanh cô qua khóe mắt. “Cái cảnh Jack Nicholson ngồi trong một khách sạn viết đi viết lại cùng một câu.”
“Tôi không thích phim kinh dị,” cô nói khẽ.
Harry quay lại đối diện với cô. Anh sắp sửa nói một điều gì đó nhưng rồi lại cảm thấy tốt nhất là không nên nói.
“Anh sống ở đâu?” cô hỏi.
“Bislett.”
“Nó cũng cùng đường.”
“Ừm. Đường đi đâu?”
“Oppsal.”
“Thế à? Chỗ nào ở Oppsal?”
“Đường Vetlandsveien. Ngay gần ga. Anh có biết Jørnsløkkveien ở đâu không?”
“Có, đó là một ngôi nhà lớn bằng gỗ màu vàng ở góc đường.”
“Chính xác. Tôi sống ở đó. Ngay tầng hai. Mẹ tôi ở tầng trệt. Tôi lớn lên trong căn nhà đó.”
“Tôi cũng lớn lên ở Oslo,” Harry nói. “Có lẽ chúng ta quen chung nhiều người đấy.”
“Có lẽ vậy,” Beate nói, nhìn qua cửa sổ xe.
“Lúc nào đó phải kiểm tra xem sao,” Harry nói.
Không ai nói thêm lời nào nữa.
○○○
Trời đã tối và gió nổi lên. Bản tin dự báo thời tiết báo có bão ở phía Nam của Stadt và gió giật mạnh ở phía Bắc. Harry ho. Anh lôi chiếc áo len mẹ anh đã đan cho cha anh, rồi cha anh tặng lại anh nhân dịp Giáng sinh vài năm sau khi bà mất. Một việc làm kỳ lạ, Harry thầm nghĩ. Anh hâm lại mì ống và thịt viên, rồi gọi cho Rakel và kể với cô về ngôi nhà mà anh đã lớn lên.
Cô không nói gì nhiều, nhưng anh biết cô thích nghe anh kể về phòng ngủ của anh. Về những trò chơi của anh và cái bàn trang điểm nhỏ. Về cách anh bịa ra những câu chuyện từ các họa tiết trên giấy dán tường, như thể chúng là những chuyện cổ tích được viết bằng mật mã. Và một cái ngăn kéo trên chiếc bàn trang điểm mà mẹ anh và anh đã đồng ý là của riêng anh, và bà không bao giờ đụng tới.
“Anh cất những tấm thiệp bóng đá ở đó,” Harry nói. “Chữ ký của Tom Lund. Một lá thư của Sølvi, cô gái anh gặp vào một kỳ nghỉ hè ở Andalsnes. Sau đó là bao thuốc lá đầu tiên của anh. Một hộp bao cao su. Chúng nằm ở đó không hề được bóc ra cho tới tận lúc hết hạn sử dụng. Rồi, khi em gái anh và anh đem ra thổi thì chúng đã khô đến mức bị vỡ.”
Rakel bật cười. Harry kể tiếp, chỉ để nghe thấy tiếng cười của cô.
Sau cuộc gọi đó, anh đi đi lại lại không yên. Tin tức chỉ là chiếu lại của ngày hôm qua. Những cơn gió giật dữ dội nổi lên khắp thành phố Jalalabad.
Anh đi vào phòng ngủ và bật máy tính lên. Trong lúc nó kêu rèn rẹt và o o thì anh thấy mình đã nhận được một cái email nữa. Anh cảm thấy mạch đập hối hả khi nhìn thấy địa chỉ thư.
Anh nhấp chuột.
Chào Harry,
Trò chơi đã bắt đầu. Cuộc khám nghiệm tử thi cho thấy có thể mày đã có mặt vào lúc cô ta chết. Đó có phải là lý do tại sao mày ngậm tăm? Có lẽ như thế là khôn đấy. Dù nó có vẻ như là một vụ tự sát. Nhưng vẫn có vài chỗ không khớp lắm, phải không? Đến lượt mày.
TBK
Một tiếng rầm khiến Harry giật bắn và anh nhận ra anh đã đập lòng bàn tay xuống mặt bàn mạnh hết sức. Anh nhìn quanh căn phòng tối om. Anh đang tức giận và sợ hãi, nhưng điều khiến anh bực nhất là linh cảm mách bảo rằng kẻ viết email đó… ở trong tầm tay. Harry duỗi cánh tay ra và đặt bàn tay vẫn còn nhức nhối lên màn hình. Lớp kính mát lạnh làm dịu da anh, nhưng anh vẫn cảm thấy hơi nóng, như hơi nóng của thân thể, tăng lên bên trong cái máy.