Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Chương 18 - Câu Chuyện Về Những Cái Đuôi
H
ãy nhìn ba đứa trẻ xinh đẹp của ta này - Tom Ngón Cái, Tim Ngón Cái và giờ là Thumbelina Bé Nhỏ.” Bà Martha vỗ hai tay vào nhau. “Ta chưa bao giờ thấy hạnh phúc đến thế trong đời!”
Bà Martha vẫn chưa ngừng thao thao bất tuyệt từ lúc tôi bước chân về. Sự biến mất của tôi đã hoàn toàn bị lãng quên trước cơn phấn khích khi tìm được Annabella... hay Thumbelina, theo cách gọi của bà.
Bà Martha nhón cả ba đứa tôi lên và ghì chặt vào lồng ngực. Annabella nhìn tôi như thể đang khẩn nài tôi hãy cứu nó. Tôi chỉ biết mỉm cười. Rồi bà Martha thả tõm chúng tôi vào trong bồn rửa.
“Bẩn thỉu quá đi mất!”, bà nói, xối nước xà phòng lên người hai đứa tôi. “Và ta sẽ phải may cho các con quần áo mới. Tim, con yêu à, quần con rách thành từng mảnh rồi này. Con vừa quyết chiến với tiên tí hon sao?”
Khi chúng tôi đã ngập nước đến tận bụng, bà Martha lôi hai đứa lên và hong khô, rồi đi tới cái giỏ đồ khâu chọn ra một chiếc quần, một chiếc áo sơ-mi và một đôi giày cho tôi. Lẽ ra tôi sẽ cảm thấy cảm kích lắm, bởi áo quần của tôi trên thực tế đã rách rưới đến mức rời cả ra; thế nhưng chiếc quần mới này có một ống màu vàng, một ống màu đỏ, còn chiếc áo sơ mi thì nom như thể nó vừa được bện từ cỏ khô và nhuộm sang màu tím. Nó tỏa ra mùi thơm của hoa quả. Còn đôi giày... hừm, nó có những quả chuông treo ở hai đầu mõm cong cong.
“Trông cậu như một thằng hề vậy,” Tom nhận xét.
“Tớ sẽ chẳng thể lẻn trốn đi với cái này được nữa.” Tôi bước vài bước và những quả chuông rung lên leng keng.
“Tớ nghĩ đó là mục đích chính của nó,” Tom đáp.
Annabella cười khúc khích. “Bọn em sẽ gọi anh là Ngón Chân Leng Keng.”
“Ha ha, xem bà ấy mặc gì cho em nào.”
“Thumbelina, ta có thứ này cho con!” Bà Martha lôi ra ba chiếc váy bé xíu, như thể bà đã luôn chờ đợi một cô bé tí hon để có thể mặc cho nó như một con búp bê vậy. Có một chiếc váy màu xanh da trời gấu viền ren, và một chiếc chấm bi xanh lá cây. Annabella chọn chiếc màu hồng xếp nếp với sáu tầng ren và một chiếc thắt lưng được kết thành một cái nơ to bự chảng phía sau lưng.
Sau khi con bé đã ăn vận xong xuôi và xoay một vòng, bà Martha vỗ hai tay vào nhau, chùi một giọt lệ khỏi khóe mắt. “Nom con đài các quá phải không? Chúng ta phải ăn mừng thôi! Ta sẽ đi lấy pho-mát!”
Bà Martha lôi một tảng pho-mát ra khỏi chạn, và thái ra những mẩu lớn cho từng đứa chúng tôi. “Ăn mạnh vào, Thumbelina. Con bé xíu xiu đến nỗi ta sợ con sẽ tan biến mất thôi. Giờ thì ta phải nghĩ xem nấu món gì cho Đức vua tối nay. Gần đây món pút-đinh không được lòng ông ấy lắm. Ta định nướng gà, nhưng vừa rồi ông ta cũng tỏ vẻ không vui. Ta đồ rằng nó gợi nhắc cho ông ta về con gà ngu xuẩn mà đi đâu ông ta cũng vác theo...”
Martha thảy một miếng pho-mát vào miệng và bắt đầu tập hợp nguyên liệu từ cơ man giỏ, xô chất đầy khoai tây, hành, củ cải đỏ và củ cải trắng. “Có thể món súp sẽ hợp lý,” bà trầm ngâm.
“Tớ đoán là các cậu chưa tìm ra bố,” Tom nói.
“Chưa,” tôi đáp.
“Tớ rất tiếc.” Tom nhìn xuống và đổi chân. Tôi đoán nó không chỉ cảm thấy có lỗi về bố, mà còn về những điều nó đã nói trước khi tôi đi.
“Không sao mà,” tôi nói. “Chúng tớ sẽ tìm thấy ông ấy. Ông ấy trốn khỏi tiệm sửa giày trong một chiếc giày của Đức vua.”
“Không ổn rồi,” Tom nói. “Nếu Vua Barf di nát ông ấy bằng ngón chân cái của lão thì sao?”
“Bố bọn em thông minh lắm,” Annabella nói. “Em chắc ông ấy sẽ ổn thôi.”
“Em nói đúng. Có lẽ ông ấy đã thoát khỏi chiếc giày rồi. Anh chỉ hy vọng Rufus sẽ không ăn ông ấy.”
“Rufus là ai cơ?” Annabella hỏi.
“Rufus kia kìa.” Tom chỉ về phía con vật lông màu cam đang vươn mình trên hai chân sau bên cạnh cái bàn, đôi mắt vàng to cộ hau háu dán vào mấy người tí hon đang đập hạt dẻ. Đuôi nó quất vun vút sang hai bên.
“Ôi, thật là một chú mèo đáng yêu!” Annabella nựng. Nó tới thẳng mép bàn và gọi. “Rufus! Ở đây này, meo meo! Tới đây nào, mèo ngoan!” Rufus hướng sự chú ý của nó tới Annabella. Nó cúi thấp đầu và trườn tới.
“Đúng là một con mèo ngoan. Tới đây!”
“Bells, anh sẽ không...”
Con mèo nhảy chồm lên và quào một bàn chân to tướng về phía Annabella, khiến con bé ré lên và ngã bổ chửng về đằng sau. Tom và tôi lăn ra cười ngặt nghẽo. Annabella trừng mắt nhìn chúng tôi, nhưng thật khó để tỏ ra nghiêm túc khi nó đang mặc một bộ váy hồng diêm dúa. Rufus nhảy chồm lên một lần nữa, nhưng lần này Annabella nhìn thẳng vào mặt nó và rít lên phì phì như một con mèo dại vô chủ. Rufus kêu meo meo và quay trở lại lò sưởi, đôi tai cụp xuống. Tom và tôi nhìn nhau. Giờ thì không đứa nào còn cười được nữa.
“Làm tốt lắm, cô bé hoa ạ,” Tom nói. “Chưa ai thuần phục được Rufus, kể cả bà Martha.”
“Em có cách riêng với các loài vật,” Annabella đáp. “Ở nhà em luôn luôn khiến lũ cừu đi theo em. Anh Jack không bao giờ làm được như thế.”
Những gì nó nói đều chính xác, nhưng thế thì sao chứ? Ít nhất tôi cũng không gào lên mỗi khi nhìn thấy rắn hay châu chấu.
“Vậy làm sao để chúng ta rời khỏi nhà bếp để đi tìm bố được?” Annabella hỏi.
“Chúng ta có thể cưỡi chuột,” tôi gợi ý.
“Tớ không biết lối nào đi xuyên qua tường đến những căn phòng của Đức vua cả,” Tom nói. “Bà Martha có thể gửi quỷ lùn đến ai đó sống trong tòa lâu đài”
“Nhưng chúng ta không thể cứ ngồi chờ đến lúc đó được,” tôi nói.
Thình lình Tom búng tay cái tách. “Nghĩ ra rồi! Rufus! Nó đi nhanh hơn lũ chuột nhiều, và chúng ta có thể đi tới bất cứ nơi nào chúng ta muốn mà không bị nhận ra. Sẽ chẳng ai để ý đến một con mèo.”
“Cậu đang nói cái gì thế?”, tôi hỏi.
“Ý tớ là chúng ta có thể cưỡi con Rufus! Đó sẽ là một cuộc phiêu lưu!”
“Cậu đang cố để bị ăn thịt lần nữa đấy à?”
“Chúng mình sẽ ngồi lên đằng sau cổ, nơi nó không thể với tới chứ!”
“Cậu điên rồi,” tôi nói.
“Em nghĩ phương án đó được đấy chứ,” Annabella nói.
“Mày đang đùa, đúng không?”, tôi hỏi. “Bells, con mèo đó vừa cố ăn mày đấy!”
“Sẽ ổn thôi, Ngón Chân Leng Keng à,” Annabella nói, mỉm cười tự mãn. “Em có thể hiểu được nếu anh thấy sợ hãi. Em và anh Tom có thể cưỡi nó, còn anh ở lại đây với bà Martha. Bọn em sẽ trở lại cùng bố trước khi anh nhận ra điều đó.”
Tôi trừng mắt và đá văng đôi giày lố bịch. “Tốt thôi. Các người muốn cưỡi mèo? Chúng ta sẽ cưỡi mèo.”
Tom hú lên và nhe răng cười. “Giờ thì chúng ta chỉ cần tìm thứ gì đó để nhử Rufus và làm sao lãng nó thôi. Giá chúng ta có một sợi dây thừng...”
“Như cái này phải không?” Annabella rút ra sợi dây bện bằng cỏ của nó từ một chiếc túi ẩn bên dưới một trong những tầng ren.
“Tuyệt cú mèo!” Tom nói. “Làm tốt lắm, Đầu Hoa ạ. Giờ chúng ta chỉ cần buộc nó vào đầu một thứ gì đó. Jack, cậu có thể đi tới giỏ đồ khâu của bà Martha lấy một chiếc kim đan được không?”
Tôi bất mãn trên suốt chặng đường đi tới giỏ đồ khâu, cho rằng đây là một ý tưởng kinh khủng. Khi tôi quay trở lại, Annabella đang cào sờn và đánh rối đầu mút của sợi dây thừng, còn Tom thì đang ba hoa với con bé về một trong những cuộc phiêu lưu của nó. Con bé phá lên cười giòn giã. Tôi bắt đầu cảm thấy nóng mặt. Ước gì Annabella cứ ở nhà với mẹ.
“Lấy được kim rồi,” tôi ngắt lời hai đứa nó.
“Tốt!” Tom nói. “Lên đường thôi.”
Tom buộc sợi dây thừng vào đầu của chiếc kim đan, và chúng tôi tập trung ở mép bàn. Annabella hạ thấp đầu rối của sợi thừng và nhẹ nhàng đu đưa nó qua lại. Rufus nhìn chằm chằm vào nó trong vài giây, tai và đuôi xoắn lại. Nó trườn về phía trước như một người thợ săn đang rình mồi. Annabella lúc lắc sợi dây thừng, và Rufus đi theo nó với sự chăm chú tuyệt đối. Con bé dừng tay, Rufus tiến đến gần hít ngửi. Nó dẫn dắt con mèo khổng lồ cho tới khi con vật đứng đúng vào vị trí dọc theo cái bàn.
“Đếm đến ba này,” Tom hô. “Một... hai... ba!”
Tom và Annabella nhảy xuống, hạ cánh gọn gàng lên lưng Rufus, riêng tôi rụt lại. Nhảy xuống từ chỗ cao chưa bao giờ là sở trường của tôi. Tôi ưng leo lên hơn.
“Anh Jack! Nhảy đi!” Annabella gọi lớn. “Nó bắt đầu di chuyển rồi đây này!”
Rufus vờn sợi dây thừng cỏ mà Annabella đang đung đưa trước mặt nó, mỗi lúc một tiến xa hơn khỏi cái bàn.
Bây giờ hoặc không bao giờ nữa, mà tôi thì không bao giờ để cho Annabella đối mặt với bọn khổng lồ mà không có tôi đâu! Tôi nhảy đại, nhưng do chân vẫn còn yếu nên bật chưa đủ xa. Tôi rơi xuống rất nhanh, nhưng con mèo lại không ở bên dưới tôi.
“Anh Jack!” Annabella thét lên. Rufus lùi lại vừa đủ, và tôi đáp xuống trên đuôi nó.
Nếu có một nơi nào đó mà bạn không bao giờ muốn ở lại, thì đó là chót đuôi của một con mèo khổng lồ. Rufus quay lại và phun phì phì, nhe ra hàm răng nhọn lởm chởm. Thế rồi nó bắt đầu đuổi theo cái đuôi của mình, cũng chính là tôi. Tôi níu chặt lấy cái đuôi để bảo toàn mạng sống khi bị văng tít mù theo vòng tròn, hết xuôi rồi đến ngược. Nồi niêu, xoong chảo, thực phẩm, lò sưởi... nhòa đi thành một dải mờ mờ.
Chẳng hiểu vì lý do gì, giữa lúc bị quay vun vút xung quanh, tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới chỉ là con mèo này đang trừng phạt mình thay cho tất cả lũ chuột, cóc, dế mèn và nhện - những con vật bé nhỏ tôi đã từng sử dụng trong các trò chơi khăm. Tôi rất xin lỗi! Vô cùng xin lỗi! Hãy để cho tôi được sống!
“Ôi Rufus, con mèo ngu ngốc này,” tôi nghe tiếng bà Martha nói. Hiển nhiên là bà chẳng hề nhận ra ba đứa trẻ cũng ngu ngốc chẳng kém đang bám lủng lẳng trên bộ lông của nó. “Biến khỏi chân tao và đi bắt chuột đi!” Bà đẩy Rufus khỏi cửa bếp, việc này ngay tức khắc buộc nó phải chấm dứt việc đuổi theo cái đuôi
“Anh Jack!” Annabella kêu lên. “Trèo lên đây!”
Trèo ư? Tôi biết leo trèo chứ, có điều chưa nhớ ra cách thôi. Tôi chóng mặt đến nỗi thậm chí còn chẳng nhớ nổi tên mình. Tôi tóm lấy một túm lông của Rufus và kéo mình về phía trước, rồi lại tóm lấy một túm khác nữa. Cứ thế tôi cũng lên được cổ nó, nơi Rufus không thể nhìn, cũng không thể cắn chúng tôi. Vạn vật vẫn xoay mòng mòng xung quanh, ruột gan phèo phổi của tôi rối beng vào nhau như rễ cây vậy.
“Tuyệt cú mèo!” Tom nói. “Có thích không cậu? Có thấy giống như được cưỡi trên một cơn lốc xoáy không?”
Tôi hít vào những hơi thật sâu. “Giống như bị một con mèo khổng lồ đuổi theo khi tớ đang bám vào đuôi nó ấy.”
“Nom cậu xanh lè,” Tom nhận xét.
“Em nghĩ anh ấy sắp nôn rồi,” Annabella nói.
“Cố đừng có nôn ra bộ lông đấy,” Tom bảo. “Chúng ta không muốn Rufus liếm lông trong khi vẫn đang ngồi trên đó đâu.”
“Tớ ổn mà,” tôi nói. “Chỉ đang cố điều hòa nhịp thở.”
Rufus kêu meo meo và đi loanh quanh vô hướng, như thể không biết nên làm gì tiếp theo.
“Đi câu mèo nào,” Tom nói. “Cô bé hoa, quăng sợi dây đi!”
“Rõ, thưa ngài!” Annabella hô, rồi vung cây kim đan cùng sợi dây thừng treo lơ lửng trước mặt Rufus. Rufus lao về phía trước, kéo theo cả ba đứa tôi, tay vẫn bám chắc vào bộ lông.
Chúng tôi đi mãi, dọc theo các hành lang dài thăm thẳm. Mỗi khi Rufus có dấu hiệu đi chậm lại, chúng tôi lại thu sợi thừng rồi ném nó ra lần nữa, và Rufus lại đuổi theo nó như một con chuột - hoặc là tôi.
Khi cơn chóng mặt đã thuyên giảm, tôi buộc phải thừa nhận rằng mèo là một phương tiện di chuyển tuyệt vời. Khoảnh khắc này đang còn đứng yên bất động, chớp mắt một cái nó đã tăng tốc chạy. Nó nhảy lên và tiếp đất đều nhẹ nhàng như ru, đến mức chúng tôi chẳng hề cảm thấy sự nỗ lực nào trong đó. Cưỡi trên lưng mèo đích thực vừa thú vị vừa khó đoán trước.
Không chỉ vậy, cưỡi mèo còn giúp chúng tôi có thể khám phá tòa lâu đài một cách chi tiết nhất.
Mèo là loại sinh vật có cái quyền đi lang thang bất cứ nơi nào nó muốn; bởi vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là bắt chuột, mà chuột thì có mặt ở tất cả mọi nơi cũng như bất cứ nơi đâu. Chúng tôi đi xuyên qua phòng ăn, lúc này đang trống trơn ngoại trừ một người hầu đang phủi bụi trên chiếc đèn chùm bằng vàng, và vài con tiên tí hon đang vo ve trước mặt cô ta.
“Tiên tí hon!” Annabella reo lên.
“Đừng kêu gọi sự chú ý của chúng ở nơi này!”, tôi rít lên, nhưng cô hầu gái đã chăm sóc chúng tận tình bằng cách vụt mạnh chúng bằng chiếc khăn vải. Chúng rơi lả tả xuống sàn nhà.
“Ôi, kinh khủng quá! Những sinh vật đáng thương!”
“Annabella nghĩ bọn tiên tí hon ngọt ngào lắm cơ.” Tôi đảo mắt với Tom.
Tom nhún vai. “Em ấy đã thuần hóa được Rufus. Có thể em ấy sẽ xử lý được cả tiên tí hon.”
Tôi quắc mắt, bực bội vì nó đứng về phía con bé.
Chúng tôi đi xuống một hành lang nữa, vào trong một căn sảnh vĩ đại. Trần nhà cao vời vợi đến mức tôi có ý trông đợi nhìn thấy mây ở trên đó. Những người hầu đang đánh bóng sàn nhà và một cái cầu thang bằng vàng khối khổng lồ. Tôi cứ ngỡ có một vài người tí hon đang cùng làm việc với những người hầu, nhưng chỉ sau khi bọn chúng cất cánh bay lên, tôi mới nhận ra rằng đó là các tiên tí hon khác.
“Đi lên cầu thang đi,” Annabella gợi ý. “Em nghĩ rằng những căn phòng hoàng gia ở hết trên đó.”
“Phải,” Tom nói. “Lúc quay lại chúng ta có thể trượt xuống trên các thanh tay vịn!”
Chúng tôi hướng sợi dây thừng về phía cái cầu thang vàng, và Rufus nhảy lên còn nhanh hơn tốc độ phi nước đại của một con tuấn mã. Tôi yêu lũ mèo khổng lồ!
Nhưng khi chúng tôi lên đến đỉnh cầu thang, Rufus không chịu hợp tác nữa. Bất chấp Annabella cứ đung đưa sợi dây thừng hết lần này đến lần khác, con mèo chỉ kêu ngoao ngoao buồn bã và không chịu di chuyển xa hơn.
“Đồ mèo lười!” Annabella mắng. Con bé cố gắng thúc nó tiến lên như một con ngựa, rồi giật giật bộ lông nó với tất cả sức lực, nhưng Rufus không thèm đáp ứng.
Nó đủng đỉnh đi tới một chiếc ghế bành vàng dựa vào tường, nhảy lên trên chỗ ngồi bọc đệm êm ái và cuộn lại thành một quả bóng lông vĩ đại.
“Anh đồ chừng nó mệt rồi,” tôi nói.
Annabella bắt đầu trèo xuống khỏi lưng Rufus.
“Mày định đi đâu thế?”, tôi hỏi.
“Chà, chúng mình sẽ không thể tìm thấy bố ở đây, đúng không?”
Con bé nói có lý, do đó chúng tôi trượt xuống khỏi cái đuôi của Rufus. Lúc này nó đã ngủ say, nên nó chẳng phản ứng gì hơn là đụng đậy một sợi ria khi chúng tôi tuột xuống các chân ghế và bước nhón chân dọc theo hành lang. Chúng đi men theo các bức tường, và núp kỹ mỗi khi nghe thấy các giọng nói hoặc bước chân.
Chúng tôi đến một cánh cửa, lách xuống dưới một vết nứt để xem những thứ bên trong. Chẳng có gì nhiều nhặn, ngoài một bộ da chó sói nguyên lông dài đến mức nó chạm đến eo của chúng tôi. Ba đứa tôi len lỏi xuyên qua nó như một cánh đồng lông lá. Cái đầu con sói đã được nhồi bông, nằm trên sàn nhà với hàm răng há rộng.
“Trông như thể nó sẽ nuốt chửng chúng mình ấy,” Annabella nói, giọng có chút sợ hãi.
“Vẫn tốt hơn là cắn em đứt ra làm đôi,” Tom nói.
Căn phòng thứ hai chất đầy đủ thể loại báu vật phủ bụi, nom như bị bỏ quên từ lâu. Những bức tranh họa các nhà quý tộc thời xưa, hàng chồng đồ đạc, sách vở, bình lọ và những món đồ trang trí quý giá khác bằng bạc, đồng và gỗ đươc chạm trổ hết sức công phu.
“Đây có lẽ là nơi họ chứa tất cả những món đồ không phải bằng vàng,” Tom nói. “Tớ đã được nghe kể về điều này. Vua Barf ghét bất cứ thứ gì không được làm từ vàng, nhưng đương nhiên lão ta cũng chẳng bao giờ từ bỏ các báu vật cả.”
Chúng tôi khám phá thêm nhiều căn phòng khác nhưng chẳng thu được gì. Đi tìm bố giống như mò kim đáy bể, một nhiệm vụ bất khả thi, nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn phát hiện được chút hứa hẹn.
“Những cánh cửa này bằng vàng này,” tôi nói, ấn móng tay vào chúng. “Vàng ròng.”
“Đây hẳn là phòng riêng của Vua Barf!” Tom nói.
Phải! Trái tim tôi nở lớn rồi lại xẹp xuống chỉ trong một khoảnh khắc. “Làm sao chúng ta vào được bây giờ?” Cánh cửa liền khít xuống sàn nhà, chẳng có gì khác hơn ngoài một khe hở mỏng dính. Đức vua đã tăng cường an ninh tối đa, có lẽ là để phòng ngừa bọn tiên tí hon.
“Có lẽ sẽ có đường vào ở căn phòng bên cạnh chăng?” Annabella gợi ý.
“Phải,” Tom nói. “Một hành lang bí mật chẳng hạn. Lâu đài nào chẳng có hành lang bí mật.”
Ba đứa tôi tiến tới cánh cửa bên cạnh, ở đây chúng tôi có thể lách qua cái khe bên dưới. Annabella và tôi không ngừng huyên thiên về những điều hai anh em sẽ làm khi tìm thấy bố.
“Bố sẽ nhấc bổng em lên và quay trong không khí,” Annabella nói.
“Bố sẽ vật lộn với anh dưới đất,” tôi nói.
“Bố sẽ kể chúng ta nghe chuyện về bọn khổng lồ.”
“Và chúng ta cũng sẽ kể bố nghe chuyện về khổng lồ, có điều lần này chúng ta sẽ có mặt trong đó!”
“Và các cậu sẽ về nhà sao?” Tom hỏi.
“Phải!” Annabella đáp, nhoẻn cười rạng rỡ.
“Và lũ khổng lồ sẽ không bao giờ làm phiền các cậu nữa, và mọi thứ sẽ trở nên hoàn hảo?” Có một sắc thái khinh miệt trong giọng nói của nó.
Annabella và tôi nhìn nhau.
Tom thở hắt ra. “Thật là ngu xuẩn. Tớ quay về với bà Martha đây.”
“Nhưng anh nói anh sẽ giúp chúng em mà,” Annabella nói. “Anh thông thuộc tòa lâu đài này hơn chúng em.”
Tom nhún vai. “Việc này chẳng có gì vui, mà anh thì đói rồi.”
“Đó là tất cả những gì cậu quan tâm? Trò vui và thức ăn?”
“Thì sao nào? Các cậu đâu thể sống thiếu thức ăn, và nếu việc không có gì vui, thì làm để làm gì?”
“Để tìm bố chúng tôi!” Annabella gào lên.
“Các cậu không hiểu sao? Kể cả nếu như tìm thấy bố và về được tới nhà, bọn khổng lồ sẽ lại tóm cổ các cậu trong chuyến cướp bóc tiếp theo, và có lẽ chúng sẽ bắt luôn cả mẹ các cậu nữa. Lúc bấy giờ các cậu sẽ làm gì? Lại tiếp tục đi kiếm bà ấy à? Các cậu chỉ lãng phí thời gian thôi.”
Tôi đã từng chứng kiến góc khuất này trong con người Tom trước đây, và tôi không thích nó một chút nào. Tệ hơn cả, Annabella lúc này đã òa lên khóc. Nó nấc lên nức nở theo từng hơi thở. Tôi trừng mắt nhìn Tom. “Quay trở lại với bà Martha đi. Mày không quan tâm đến việc tìm bố bọn tao!”
“Sao tao phải quan tâm chứ? Có phải bố tao đâu?”
“Thật tốt vì đó không phải là bố mày. Mày thì chắc cứ để mặc bọn khổng lồ bắt bố mình đi và hốc một cục pho-mát thật to để ăn mừng thôi!”
Trước khi kịp nhận ra điều gì đang diễn ra, tôi đã nằm ngửa trên sàn. Tom đấm thẳng vào bụng tôi, sau đó thọi hai cú vào mặt. Tôi gầm lên, lật Tom xuống và nện lại nó. Nó cào mặt và giật tóc tôi.
“Jack! Tom! Dừng lại đi!” Annabella kéo cánh tay tôi. “Dừng lại! Dừng lại ngay!”
Nhưng chúng tôi không nghe lời Annabella. Chúng tôi vẫn tiếp tục gầm gào, đấm đá và cào cấu nhau như hai con thú hoang, cho đến khi một thứ khác ngăn chúng tôi lại.
“Fee! Fee! Fum!”
Tom và tôi sững lại như hóa đá, đôi tay vẫn còn đang bóp cổ nhau. Chúng tôi ngước lên nhìn. Em bé người khổng lồ, Hoàng tử Archie đang ở đó, bò trên hai tay và đầu gối. Gương mặt bầu bĩnh của thằng bé đang ở ngay bên trên chúng tôi. Một dòng nước dãi nhểu xuống từ miệng nó và chảy dọc trơn nhớt trên cánh tay tôi. Thằng bé nhún nhảy và thở hào hển như một chú cún con đang kích động, rồi siết một bàn tay mũm mĩm, bóp dính cả ba đứa lại như những nắm bột.
“Fee! Fie! Fo! Fum!” Nó bi bô.