Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Phần 3 - Trường Đại Học Oxford - Chương 18 - Sương Mù Và Băng Giá
L
ee Scoresby đắp mấy tấm lông thú lên người Lyra. Cô cuộn tròn người lại gần Roger và chúng nằm ngủ bên nhau khi chiếc khinh khí cầu tiếp tục bay lên Bắc cực. Người lái khinh khí cầu kiểm tra các thiết bị hết lần này đến lần khác, nhai điếu xì gà chẳng bao giờ châm lửa, và nằm rúc sâu hơn vào những thứ đồ lông thú choàng quanh người.
“Cô bé này vô cùng quan trọng, phải vậy không?” Ông nói sau một lúc rất lâu.
“Hơn mức nó có thể biết.” Serafina Pekkala trả lời.
“Có phải thế có nghĩa là sẽ có thêm nhiều chuyện xảy trên con đường tìm kiếm? Bà có hiểu không, tôi đang nói đến tính mạng của một người đàn ông có đầu óc thực tế cần được cứu. Tôi không thể chấp nhận được việc bị nổ tung hay bắn tan thảnh vụn mà không có một sự thỏa thuận trước về bồi thường. Tôi không phải cố làm giảm tinh thần hăng hái của chuyến thám hiểm này, hãy tin tôi, thưa bà. Nhưng John Fan và những người Gypsy chỉ trả cho tôi một khoản phí đủ để chi tiêu cho bản thân và những vật dụng trên khinh khí cầu, tất cả chỉ có thế. Khoản đó không bao gồm phí bảo hiểm rủi ro chiến tranh. Để tôi nói cho bà biết, thưa bà, khi chúng ta thả Iorek Byrnison xuống Svalbard, đó sẽ được tính là một hành động chiến tranh.”
Ông búng một mẩu thuốc là ra ngoài một cách điệu nghệ.
“Vì thế tôi muốn biết chúng ta có thể chờ đợi gì trong cuộc hành trình đầy hỗn loạn và bất trắc này.” Ông kết thúc.
“Có thể sẽ phải chiến đấu,” Serafina Pekkala nói. “Nhưng trước đây ông đã từng chiến đấu rồi.”
“Đúng thế, khi đó tôi được trả tiền để làm vậy. Nhưng thực tế là, tôi đã nghĩ đay là một hợp đồng vận chuyển thuần túy, tôi được thanh toán tiền dựa trên hợp đồng đó. Giờ thì tôi đang thắc mắc không biết hành trình vận chuyển của tôi có trách nhiệm xa đến đâu. Liệu tôi có phải liều mạng các thiết bị của mình trong một cuộc chiến giữa các con gấu không, ví dụ là như vậy, hay liệu cô bé này có những kẻ thù tại Svalbard nóng tính như đám ở Bolvangar không. Tôi chỉ đề cập đến toàn bộ chuyện này qua hình thức đối thoại.”
“Ông Scoresby,” bà phù thủy nói, “tôi mong là mình có thể trả lời được câu hỏi của ông. Tất cả những gì tôi có thể nói là tất cả chúng ta, con người, các phù thủy, những con gấu đều đã nằm trong cuộc chiến, dù không phải ai trong chúng ta cũng nhận ra điều đó. Bất kể ông có gặp nguy hiểm ở Svalbard hay quay về với tình trạng không hề hấn gì, ông đã được chiêu mộ, được vũ trang, một chiến binh.”
“À, dường như đó là một kiểu bị dồn vào bước đường cùng. Dường như với tôi một người nên có quyền lựa chọn giữa cầm vũ khí hay không.”
“Chúng ta không có thêm chọn lựa nào trong việc đó hơn việc chọn giữa được sinh ra hay là không.”
“Ồ, dù sao, tôi cũng thích các chọn lựa.” ông ta nói. “Tôi muốn chọn công việc mình làm, nơi mình đến và thức ăn tôi ăn, những người bạn tôi giao du và truyện phiếm cùng. Thỉnh thoảng bà không mơ ước có được lựa chọn sao?”
Serafina Pekkala cân nhắc, rồi trả lời, “Có lẽ sự chọn lựa chúng ta nói đến không có ý nghĩa như vậy, ông Scoresby. Các phù thủy không sở hữu bất cứ thứ gì, vì thế chúng tôi không quan tâm đến việc giữ gìn của cải hay tạo ra lợi nhuận, còn về chọn lựa giữa cái này và cái khác, khi ông sống hàng trăm năm, ông sẽ biết rằng mọi cơ hội còn trở lại. Chúng tôi có những nhu cầu khác. Ông phải sửa chữa chiếc khinh khí cầu của mình và giữ nó trong điều kiện tốt, điều này tốn thời gian cũng như công sức, tôi biết thế; nhưng để chúng tôi có thể bay được, tất cả những gì cần làm là bẻ một cành thông mây, thứ đó có nhiều lắm. Chúng tôi không cảm thấy lạnh, vì thế chẳng cần gì đến quần áo ấm. Chúng tôi không có hình thức trao đổi nào khác ngoài sự giúp đỡ lẫn nhau. Nếu một phù thủy cần thứ gì đó, một phù thủy khác sẽ mang thứ đó đến. Nếu có một cuộc chiến, chúng tôi sẽ không suy xét cái giá của quyết định có nên chiến đấu hay không. Chúng tôi cũng không có ý tức gì về danh dự, không như những con gấu. Với con gấu, sự xúc phạm là điều cấm kỵ. Với chúng tôi... đó là điều không thể hình dung ra. Làm thế nào ông có thể xúc phạm được một phù thủy? Và nếu có làm thế thì có gì là ghê gớm?”
“Vâng, tôi đồng ý với bà về vấn đề đó. Khó khăn gian khổ, tôi cũng có thể vượt qua, tiếng tăm chẳng có gì đáng kể. Nhưng thưa bà, bà hiểu cho thế tiến thoái lưỡng nan của tôi, tôi hi vọng là thế. Tôi chỉ là một người lái khinh khí cầu bình thường, và tôi muốn sống phần cuối đời một cách thư thái. Mua một nông trại nhỏ, mấy đầu gia súc, vài con ngựa... Chẳng có gì ghê gớm, bà thấy không. Không có cung điện hay nô lệ hay những đống vàng. Chỉ là làn gió đêm trong vườn, một điếu xì gà và một cốc rượu uýt-ky ngô. Giờ thì rắc rối là ở chỗ, những thứ đó tốn tiền. Tôi thực hiện chuyến bay để đổi lấy tiền, sau mỗi hợp đồng tôi gửi lại một ít vàng về Ngân hàng Fargo Wells, khi đã gom đủ tiền, thưa bà, tôi sẽ bán chiếc khinh khí cầu này rồi đặt cho mình một chỗ trên con tàu hơi nước đến Cảng Galveston, và tôi sẽ chẳng bao giờ rời mặt đất lần nữa.”
“Còn có một khác biệt nữa giữa chúng ta, ông Scoresby. Một phù thủy sẽ ngừng thở ngay khi ngừng bay. Khi bay chúng tôi trở lên hoàn hảo nhất.”
“Tôi có nhận thấy, thưa bà, và tôi thấy ghen tỵ với bà. Nhưng tôi không có sự thỏa mãn như của bà. Với tôi bay chỉ là một công việc, tôi chỉ là một kỹ sư. Tôi cũng có thể chữa van cho một động cơ hơi gas hay nối các mạch điện. Nhưng tôi đã chọn công việc này, bà cũng biết đấy. Đó là sự lựa chọn tình nguyện của chính tôi. Tôi thấy nguy cơ chiến tranh mà tôi không được báo trước cũng là một loại vấn đề đấy.”
“Mâu thuẫn giữa Iorek Byrnison và vua của anh ta cũng là một phần trong đó.” Bà phù thủy nói. “Và định mệnh của đứa bé này là đóng một vai trò trong đó.”
“Bà nói đến định mệnh,” Lee Scoresby nói, “như thế nó đã được an bài. Tôi không chắc tôi thích nó hơn một cuộc chiến tranh tôi bị lôi kéo vào mà không hề biết trước. Sự tự lựa chọn của tôi đâu rồi, thưa bà? Và dường như với tôi, đứa trẻ này có nhiều sự tự do hơn bất cứ ai tôi từng gặp. Có phải bà muốn nói với tôi rằng đứa trẻ này là một loại đồ chơi lên dây cót đã được lên dây và xếp đặt một lịch trình nó không thể thay đổi?”
“Tất cả chúng ta đều có định mệnh. Nhưng tất cả chúng ta đều hành động như thể không phải thế,” bà phù thủy nói, “hoặc sẽ chết trong thất vọng. Có lột lời tiên tri kì lạ về đưa bé này: định mệnh của nó là mang lại kết thúc cho định mệnh. Nhưng nó phải làm thế mà không biết rằng mình đang làm, như thể đó là nó muốn làm thế chứ không phải là số phận. nếu người khác nói cho nó phải làm gì, mọi chuyện sẽ thất bại; cái chết sẽ bao chùm cả thế giới; đó sẽ là chiến thắng của nỗi tuyệt vọng, vĩnh viễn là như thế. Vũ trụ sẽ không còn gì ngoài một cỗ máy bên trong, câm lặng và trống rỗng không có sự sống, ý thức, cảm giác...”
Họ nhìn xuống Lyra, khôn mặt cô khi đang ngủ (trong chiếc mũ trùm đầu trông nó thật bé nhỏ) vẫn vương những nét bướng bỉnh nghiêm nghị.
“Tôi đoán phần nào trong nó cũng biết thế,” người lại khinh khí cầu nói. “Nó cũng suy tính trước, theo một cách nào đó. Thế còn cậu bé? Bà có biết cô bé đi cả quãng đường dài này để cứu nó khỏi tay bọn người độc ác đo không? Chúng là bạn với nhau hồi trước ở Oxford hay đâu đó. Bà có biết điều này không?”
“Có, tôi có biết. Lyra đang mang theo một vật vô cùng quan trọng, và dường như định mệnh đã dùng vật đó như một sứ giả để đưa nó đến gặp cha mình. Vì thế nó lặn lội đến đây để tìm bạn, không biết rằng bạn nó được đưa lên phương Bắc do định mệnh, nhằm khiến nó đi theo và đưa thứ gì đó cho cha mình.”
“Đó là điều bà đọc ra được, phải không?”
Lần đầu tiên bà phù thủy có vẻ không chắc chắn.
“Dường như mọi chuyện là như vậy... Nhưng chúng tôi không thể đọc được bóng tối, ông Scoresby ạ. Cũng rất có thể tôi nhầm.”
“Điều gì đã lôi kéo bà vào tất cả những chuyện này, nếu tôi được phép hỏi như vậy?”
“Tất cả những gì bọn người kia làm ở Bolvangar, chúng tôi đều cảm thấy xấu xa đến tận xương tủy. Lyra là kẻ thù của chúng, vì thế chúng tôi là bạn của cô bé. Chúng tôi chỉ biết có vậy. Nhưng còn có tình bạn giữa bộ tộc của tôi với người Gypsy, chuyện này liên quan đến việc Farder Coram cứu tôi thoát chết. Chúng tôi làm điều này vì họ yêu cầu. Và còn những mối ràng buộc với ngài Asriel.”
“Tôi hiểu. Vậy là bà đang kéo chiếc khinh khí cầu đến Svalbard vì lợi ích của những người Gypsy. Liệu tình bạn đó có đủ để kéo chúng tôi trở về hay không? Hay tôi sẽ phải chờ đợi một luồng gió tốt bụng, hay trông đời đặc ân của những con gấu? Một lần nữa, thưa bà, tôi đang chỉ dám yêu cầu một tinh thần bằng hữu.”
“Nếu chúng tôi có thể giúp ông quay trở về Trollesund, ông Lee Scoresby, chúng tôi sẽ giúp. Nhưng chúng tôi không biết chúng tôi sẽ gặp những chuyện gì ở Svalbard. Vị vua mới của những con gấu đã có rất nhiều cải cách; những cách thức cũ rất có lợi cho chúng tôi, cải cách mới có thể gây trở ngại cho việc hạ cánh. Tôi không biết Lyra sẽ tìm cách nào để đến được với cha mình. Tôi cũng không biết Iorek Byrnison có suy tính làm gì trong đầu, ngoại trừ việc số phận của anh ta gắn liền với cô bé.”
“Tôi cũng không biết, thưa bà. Tôi nghĩ nó gắn liền với cô bé này như một người bảo vệ. Cô bé giúp nó tìm lại bộ áo giáp sắt, bà biết đấy. Ai mà biết được những con gấu có cảm giác thế nào? Nhưng nếu quả thực có chuyện một con gấu yêu thương con người, thì tôi có thể nói nó yêu thương cô bé. Còn về chuyện hạ cánh xuống Svalbard, việc đó không bao giờ là dễ dàng cả. Tuy nhiên, nếu tôi vẫn có thể dựa vào bà để được kéo đi theo đúng hướng, tôi sẽ cảm thấy yên lòng hơn. Nếu có điều gì tôi có thể làm để đến đáp lại, xin bà cứ nói ra. Nhưng bà có thể nói cho tôi biết tôi ở phía bên nào trong cuộc chiến vô hình này không?”
“Cả hại chúng ta đều ở phía Lyra.”
“Ồ, việc đó thì không nghi ngờ gì rồi.”
Họ tiếp tục bay đi. Do phía dưới họ là màn mây dày đặc, không có cách nào đoán được tốc độ họ đang bay. Tất nhiên, thông thường, một chiếc khinh khí cầu đứng im tùy thuộc vào gió, di chuyển với tốc đọ mà bản thân không khí đang chuyển động; nhưng hiện tại, khi được kéo bởi phù thủy, chiếc khinh khí cầu lướt qua không khí, và duy trì chuyển động này, bởi chiếc túi khí gas khó điều khiển và không được phẳng phiu hay thuôn thuôn. Kết quả là, chiếc giỏ đu từ bên này sang bên kia, đung đưa và xóc nảy hơn nhiều so với một chuyến bay thông thường.
Lee Scoresby không quan tâm đến sự dễ chịu của mình bằng các thiết bị trên khinh khí cầu, ông dành thời gian kiểm tra lại chắc chắn chúng đã được cột chặt vào các thanh chống hay chưa. Căn cứ vào đồng hồ đo độ cao gần ba nghìn mét. Máy đo nhiệt độ chỉ vào hai mươi độ âm. Ông cảm thấy mình đang lạnh hơn thế, và không muốn bị tê cóng, vì thế ông trải một tấm vải buồm dùng như một chiếc trại dã ngoại lúc khẩn cấp, trải nó ra phía trước hai đứa trẻ đang ngủ để chắn gió, rồi nằm xuống quay lưng lại người chiến hữu của mình, Iorek Byrnison, và chìm vào giấc ngủ.
* * *
Khi Lyra tỉnh giấc, mặt trăng đã lên cao trên bầu trời, tất cả những tứ trong tầm mắt đều như được dát bạc, từ bề mặt cuồn cuộn của những đám mây phía dưới cho đến những vệt sương giá và nhũ băng bên gờ chiếc khinh khí cầu.
Roger vẫn đang ngủ, cả Lee Scoresby và con gấu cũng thế. Nhưng bên cạnh chiếc giỏ bà phù thủy vẫn đang bay nhanh.
“Chúng ta còn cách Svalbard bao xa?” Lyra hỏi.
“Nếu không gặp gió, chúng ta sẽ bay đến Svalbard trong khoảng mười hai tiếng đồng hồ hoặc khoảng đó.”
“Chúng ta sẽ đến đâu để hạ cánh được?”
“Còn phụ thuộc vào thời tiết. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải cố gắng tránh các mỏm đá. Tại đó có những sinh vật rình rập bất cứ thứ gì chuyển động. Nếu có thể, chúng ta có thể hạ cánh trong đất liền, cách xa cung điện của Iofur Raknison.”
“Điều gì sẽ xảy ra khi cháu tìm thấy ngài Asriel? Liệu ông ấy có muốn quay trở lại Oxford không, hay muốn thế nào? Cháu không biết có nên nói cho ông ấy rằng cháu biết ông ấy là cha cháu hay không. Có thể ông ấy vẫn muốn giả làm chú của cháu. Cháu không thực sự hiểu ông ấy lắm.”
“Ông ấy sẽ không muốn trở về Oxford đâu, Lyra. Dường như có điều gì đó cần làm ở một thế giới khác, Ngài Asriel là người duy nhất có thể bắc cây cầu nối liền giữa thế giới này và thế giới đó. Nhưng ông ấy cần thứ gì đó để giúp mình.”
“Chân-kế!” Lyra nói. “Ông Hiệu trưởng Jordan đã đưa nó cho cháu và nghĩ ông ấy muốn nói điều gì đó về Ngài Asriel, nhưng không bao giờ có cơ hội cả. Cháu biết ông ấy không thực sự muốn đầu độc Ngài Asriel. Có phải ông ấy sẽ đọc chiếc máy và biết cách làm thế nào để chế tạo được cây cầu không? Cháu cá là cháu có thể giúp ông ấy. Giờ thì cháu có thể đọc được nó giỏi như bất cứ ai.”
“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói, “ông ấy sẽ làm như thế nào, nhiệm vụ của ông ấy là gì, chúng ta không thể biết được, Có những thế lực nói chuyện với chúng ta, thì cũng có những thế lực ở phía sau chúng, và thậm chí có những bí mật ở tầng cao nhất.”
“Chân-kế có thể nói cho cháu biết! Cháu có thể đọc nó bây giờ!”
Nhưng trời quá lạnh, cô khó lòng có thể cầm được nó trên tay. Cô cuộn mình lại thật chặt và kéo chiếc mũ chùm đầu kín mít lại để tránh những cơn gió lạnh buốt, chỉ để lại một khe nhỏ để nhìn ra ngoài. Xa phía trên đầu, ở dưới một chút, sợi dây thừng dài căng ra từ chiếc vòng treo khinh khí cầu, được kéo bởi sáu hay bảy phù thủy đang ngồi trên cành thông mây của mình. Những ngôi sao sáng rực rỡ và lạnh lẽo như kim cương.
“Tại sao bà không cảm thấy lạnh, Serafina Pekkala?”
“Chúng tôi có cảm thấy lạnh, nhưng không quan tâm đến điều đó, vì chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng gì từ nó. Nếu chúng tôi quấn đồ quanh mình để tránh rét, chúng tôi sẽ không thể cảm thấy được những thứ khác, như sự rộn ràng của những vì sao, âm nhạc của Hiện tượng cực quang, hay tuyệt vời hơn cả, là cảm giác mượt mà như lụa của ánh trăng để trên da thịt mình. Nó đáng để chịu lạnh hơn cả thế này.”
“Cháu có thể cảm nhận được những điều đó không?”
“Không. Cháu sẽ chết nếu cởi những thứ đồ lông thú đó ra khỏi người. Hãy cứ cuộn mình thật chặt vào.”
“Những phù thủy sống được bao nhiêu năm, Serafina Pekkala? Farder Coram nói là hàng trăm năm. Nhưng trông bà chẳng già chút nào.”
“Ta đã ba trăm tuổi hoặc hơn thế nữa. Phù thủy cao tuổi nhất của chúng ta đã sống một nghìn năm. Một ngày nào đó, Yambe-Akka sẽ đến với bà ấy. Một ngày nào đó bà ấy cũng sẽ đến với ta. Bà ấy là nữ thần của cái chết. Bà ấy đến mỉm cười dịu dàng với ta, và ta biết đã đến lúc phải chết.”
“Có những phù thủy nam không? Hay chỉ có phù thủy nữ thôi?”
“Có những phù thủy nam phục vụ chúng ta, như ông lãnh sự tại Trollesund. Và có những người đàn ông chúng ta coi như người yêu hay chồng. Cháu còn nhỏ quá, Lyra, quá nhỏ để hiểu được chuyện này, nhưng dù sao ta cũng sẽ nói và cháu sẽ hiểu: những người đàn ông đi qua mắt chúng ra như những con bướm, những sinh linh theo mùa ngắn ngủi. Chúng ta yêu họ; họ dũng cảm, rạng rỡ, đẹp đẽ và thông minh; và họ gần như chết ngay lập tức. Họ chết nhanh chóng đến mức trái tim chúng ta liên tục tan nát trong đau đớn. Chúng ta mang thai những đứa con của họ, những đứa trẻ sẽ trở thành phù thủy nếu là nữ, là con người nếu ngược lại; rồi trong nháy mắt họ ra đi, biến mất. Những đứa con trai của chúng ta cũng vậy. Khi một cậu bé lớn lên, nó nghĩ nó bất tử. Nhưng mẹ của đứa bé biết là không phải. Những lần như thế lại càng thêm đau đớn, cho đến khi cuối cùng trái tim chúng ta tan nát. Có lẽ đó là khi Yambe-Akka đến với chúng ta. Bà ấy còn già hơn cả lãnh nguyên. Có lẽ, với bà ấy, cuộc đời của phù thủy cũng ngắn ngủi như cuộc đời của người đàn ông đối với chúng ta.”
“Bà có yêu Farder Coram không?”
“Có. Ông ấy có biết điều đó không?”
“Cháu không biết, nhưng cháu biết ông ấy yêu bà.”
“Khi cứu ta, ông ấy trẻ trung, cường tráng, tràn đầy sức sống và đẹp đẽ. Ta phải lòng ông ấy ngay từ phút đầu tiên. Ta có thể thay đổi tính cách của mình, ta có thể bỏ qua sự rộn ràng của những vì sao và giai điệu của Hiện tượng cực quang, ta có thể không bao giờ bay nữa—ta có thể từ bỏ tất cả những điều đó trong khoảnh khắc, không suy nghĩ, để trở thành bà chủ thuyền với một người Gypsy, nấu ăn cho ông ấy, ngủ chung gương với ông ấy và sinh con cho ông ấy. Nhưng cháu không thể thay đổi được việc cháu là ai, mà chỉ là việc cháu làm thôi. Ta là phù thủy, ông ấy là con người. Ta ở bên ông ấy đủ lâu để mang thai một đứa con của ông ấy—”
“Ông ấy không bao giờ kể về chuyện này cả. Đứa bé là con gái phải không? Một phù thủy?”
“Không. Một bé trai, nó chết trong một đại dịch bốn mươi năm về trước, thứ bệnh đến từ miền Đông. Đứa bé khốn khổ; nó lướt qua cuộc sống và ra khỏi đó như một con phù du. Việc này xé trái tim ta ra hàng trăm mảnh, như vẫn vậy. Việc này cũng đánh quỵ Coram. Rồi sau đó ta được gọi trở lại với những người của mình, vì Yambe-Akka đã đưa mẹ ta đi, và ta trở thành nữ hoàng của bộ tộc. Vì thế ta ra đi, như ta phải làm.”
“Bà không bao giờ gặp lại Farder Coram nữa sao?”
“Không bao giờ. Ta có nghe những chiến công lẫy lừng của ông ấy, nghe về chuyện ông ấy đã bị thương như thế nào trong tay bọn người Skraeling, với một mũi tên có thuốc độc, ta đã gửi thảo dược cùng những câu thần chú để giúp ông ấy hồi phục, nhưng ta không đủ mạnh mẽ để gặp ông ấy. Ta cũng nghe nói ông ấy đã đau khổ thế nào sau đó, sự khôn ngoan của ông ấy được bồi đắp như thế nào, ông ấy đã học tập và đọc nhiều sách như thế nào, ta tự hào về ông ấy, cùng những đức tính tốt của ông ấy. Nhưng ta luôn tránh xa, vì đó là những khoảng thời gian nguy hiểm với bộ tộc của ta, những cuộc chiến giữa các phù thủy rất đáng sợ, bên cạnh đó, ta nghĩ ông ấy đã quên ta. Đã tìm được một người vợ là con người...”
“Ông ấy chẳng bao giờ làm thế cả.” Lyra nói một cách chắc nịch. “Bà nên đến gặp ông ấy. Ông ấy vẫn còn yêu bà, cháu biết là như vậy.”
“Nhưng có thể ông ấy sẽ xấu hổ về tuổi tác của chính mình, ta không muốn làm ông ấy cảm thấy điều đó.”
“Có lẽ ông ấy sẽ cảm thấy như vậy. Nhưng bà nên gửi một thông điệp đến cho ông ấy, ít nhất là như vậy. Cháu nghĩ thế đấy.”
Serafina Pekkala không nói gì một lúc lâu. Pantalaimon biến thành một con nhạn biển và bay đến đậu bên chủ.
Rồi Lyra lại hỏi: “Tại sao con người lại có nhân tính, Serafina Pekkala?”
“Ai cũng hỏi như vậy, và không có ai biết câu trả lời. Cho đến khi còn tồn tại con người thì vẫn còn những con nhân tinh. Đó là điều làm cho chúng ta khác biệt với động vật.”
“Vâng! Đúng là chúng ta khác biệt với chúng... Như những con gấu ấy. Người ta nghĩ nó giống con người, rồi đột nhiên nó làm điều gì đó rất kì lạ hay độc ác mà con người không thể hiểu nổi... Nhưng bà có biết Iorek nói gì với cháu không, rằng anh ấy bộ áo giáp sắt cũng giống như con nhân tinh với loài người vậy. Đó là linh hồn của anh ấy, anh ấy nói thế. Nhưng điều này cũng lại khác so với con người, vì chính anh ấy đã tạo ra bộ áo giáp sắt cho chính mình. Họ cướp bộ áo giáp sắt đầu tiên của anh ấy khi bắt anh ấy đi đày, rồi anh ấy tìm được những mảnh kim loại của bầu trời và làm một bộ áo giáp sắt mới, như tạo ra một linh hồn mới. Chúng ta không thể tạo ra con nhân tinh. Rồi những người ở Trollesund chuốc cho anh ấy say rượu và ăn cắp nó mang đi, rồi cháu tìm được chỗ người ta giấu nó và anh ấy mang nó về... Nhưng điều cháu thắc mắc là, tại sao anh ấy lại đến Svalbard? Họ sẽ đánh anh ấy. Có thể họ sẽ giết anh ấy... Cháu yêu quý Iorek. Cháu yêu anh ấy rất nhiều và ước gì anh ấy đừng đến đây.”
“Anh ta đã nói với cháu anh ta là ai chưa?”
“Chỉ nói mỗi tên thôi. Tên anh ấy là do ông Lãnh sự ở Trollesund nói cho chúng cháu biết.”
“Anh ta thuộc dong dõi hoàng gia đấy. Anh ta là một hoàng tử. Thực ra, nếu không phạm tội. giờ đây anh ta đã là vua rồi.”
“Anh ấy nói với cháu vua của những con gấu là Iofur Raknison.”
“Iofur Raknison trở thành vua sau khi Iorek Byrnison bị đi đày. Iofur là một hoàng tử, tất nhiên. Ông ta không có được vương quyền nhưng ông ta thông minh như con người. Ông ta lôi kéo đồng minh và có những thỏa thuận. Ông ta không sống theo cách của những con gấu, trong một pháo đài tuyết, mà trong một cung điện xây dựng theo kiểu mới. Ông ta đàm phán để trao đổi đại sứ với các quốc gia của con người và phát triển các mỏ than với sự trợ giúp từ máy móc của loài người... Ông ta rất khôn ngoan và xảo quyệt. Có người nói ông ta đã kích động khiến Iorek phạm vào tội đi đày này, còn những người khác nói, thậm chí nếu ông ta không làm thế, ông ta cũng khiên họ nghĩ là ông ta đã làm. Vì chuyện này làm tăn thêm danh tiếng về mánh khóe và sự quỷ quyệt của ông ta.”
“Iorek đã làm gì? Bà biết không, một lí do để cháu yêu Iorek, đó là cha cháu cũng làm những điều anh ấy làm và bị trừng phạt. Dương như với cháu, họ rất giống nhau. Iorek nói anh ấy đã giết một con gấu khác, nhưng không bao giờ kể mọi chuyện xảy ra như thế nào.”
“Chuyện xảy ra là vì một con gấu cái. Con gấu đực mà Iorek Byrnison giết đã không thể hiện những tín hiệu run sợ thông thường khi rõ ràng là Iorek Byrnison mạnh hơn. Những con gấu bao giờ cũng nhận thấy một sức mạnh lấn át từ con gấu khác và run sợ trước sức mạnh đó, nhưng vì một lí do nào đó con gấu này lại không làm như vậy. Có người nói Iofur Raknison đã xúi giục, hay đưa cho anh ta một loại thảo dược gây nhầm lẫn nào đó. Dù thế nào, con gấu kia cũng khăng khăng cố chấp, và Iorek Byrnison dã cho phép cơn thịnh nộ chế ngự mình. Vụ án không có gì là phức tạp, đáng ra con gấu kia chỉ nên bị thương, không nên bị giết.”
“Nếu không anh ấy đã là vua,” Lyra nói. “Và cháu đã nghe được điều gì đó về Iofur Raknison từ Giáo sư Palmerian ở Jordan, vì ông ấy đã lên phương Bắc và gặp ông ta. Ông ấy nói... giá mà cháu nhớ được ông ấy nói gì... Cháu nghĩ là giáo sư nói ông ta đã lừa đảo để có được ngai vang hay sao đó... nhưng bà biết không, Iorek Byrnison từng một lần nói với cháu rằng một con gấu không thể bị lừa, anh ấy đã cho cháu thấy rằng cháu không thể lừa nổi anh ấy. Nghe có vẻ như cả hai bọn họ đã bị lừa, anh ấy và con gấu kia. Có thể chỉ có gấu mới lừa được gấu, có thể loài người không thể lừa được chúng. Ngoại trừ... những người ở Trollesund, họ đã lừa anh ấy phải không? Khi họ chuốc cho anh ấy say và ăn cắp bộ áo giáp sắt của anh ấy?”
“Khi những con gấu xử sự như con người, có thể chúng cũng bị lừa,” Serafina Pekkala nói. “Khi những con gấu xử sự như những con gấu, có thể chúng không bị lừa. Thường thì không có con gấu nào có thể uống rượu. Iorek Byrnison uống để quên đi nỗi hổ thẹn bị đi đày, chính vì thế người ở Trollesund mới lừa được anh ta.”
“À, đúng rồi.” Lyra nói, gật gật đầu. Cô hài lòng với ý kiến này. Sự ngưỡng mộ của cô đối với Iorek Byrnison dường như là không có giới hạn, cô rất sung sướng khi có thể khẳng định được về sự cao quý của nó. “Bà thật là thông minh,” cô nói. “Nếu bà không nói có lẽ cháu chẳng bao giờ biết cả. Cháu nghĩ có lẽ bà còn thông minh hơn cả bà Coulter.”
Họ tiếp tục bay, Lyra nhai một mẩu thịt hải cẩu cô tìm thấy trong túi áo.
“Serafina Pekkala,” một lúc sau cô nói, “Bụi là gì vậy? Vì dường như với cháu, tất cả những rắc rối này đều do Bụi gây ra, mà chẳng có ai nói với cháu nó là gì cả.”
“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói với cô. “Các phù thủy không có gì phải lo lắng về Bụi. Tất cả những gì ta có thể nói là nơi nào còn có các thầy tu thì ở đó còn có sự sợ hãi về Bụi. Bà Coulter không phải là một thầy tu, tất nhiên là thế, nhưng bà ta là một mắt xích quan trọng của Tổng giáo giám mục, chính bà ấy là người lập nên Ủy ban Tôn giáo và thuyết phục Giáo hội chi tiền cho những hoạt động diễn ra tại Bolvangar, vì bà ta quan tâm đến Bụi. Chúng tôi không thể hiểu được những cảm nhận của bà ta về nó. Nhưng có rất nhiều chuyện chúng ta chẳng bao giờ hiểu được. Chúng ta nhìn thấy người Tartar đục những cái lỗ trên xương sọ, chúng ta chỉ có thể thắc mắc về sự kỳ quặc của việc đó. Vì thế có thể Bụi là kì lạ, và chúng ta thắc mắc về nó, nhưng chúng ta không bực dọc xé cái gì đó ra để nghiên cứu nó. Hãy để việc đó cho Giáo hội.”
“Giáo hội?” Lyra hỏi. Có điều gì đó gợi lại trong cô: cô nhớ lại cuộc nói chuyện với Pantalaimon, trong Vùng đầm lầy, về cái gì đó có thể đang khiến những chiếc kim của Chân-kế chuyển dịch và họ nghĩ đến chiếc máy đo ánh sáng để trên mái trần cao tại Học viện Thánh Gabriel, làm thế nào các hạt cơ bản có thể làm xoay chiếc chong chóng gió. Người Trợ lễ biết rõ về mối liên hệ giữa các hạt cơ bản và tôn giáo.
“Có thể là như vậy.” Cô nói và gật đầu. “Rốt cuộc thì người ta đều giữ bí mật tất cả những thứ thuộc về Giáo hội. Nhưng hầu hết những thứ thộc về Giáo hội đều cũ kỹ. Bụi thì không cũ, theo những gì cháu được biết. Cháu tự hỏi không biết ngài Asriel có nói với cháu—”
Cô lại ngáp dài.
“Tốt hơn là cháu nằm xuống,” cô nói với Serafina Pekkala, “nếu không có lẽ cháu bị tê cóng mất.”
“Lúc ở dưới đất cháu đã bị lạnh. Nhưng cháu chưa bao giờ ở một nơi lạnh như thế này. Cháu nghĩ cháu sẽ chết mất nếu không khí còn lạnh thêm.”
“Vậy hãy nằm xuống và cuộn mình trong lớp lông thú.”
“Vâng, cháu sẽ làm thế. Nếu cháu phải chết, thà chết ở trên này còn hơn ở dưới đấy, nếu có ngày đó. Cháu nghĩ khi người ta đặt chúng cháu dưới lưỡi dao đó, cháu tưởng đã... Cả hai bọn cháu đều nghĩ thế. Ôi, thật là khủng khiếp. Nhưng giờ bọn cháu sẽ nằm xuống. Hãy đánh thức chúng cháu khi đến đó nhé,” cô nói và ngả người xuống đống lông thú, khắp người mỏi nhừ, đau nhức bởi không khí lạnh ghê gớm. Cô nằm thật sát cạnh Roger đang ngủ.
Và rồi bốn nhà du hành tiếp tục đi. Họ thiếp đi trong chiếc khinh khí cầu phủ đầy băng tuyết, bay về phía những mỏm đá và sông băng, những mỏ than và những pháo đài tuyết ở Svalbard.
o O o
Serafina Pekkala gọi người lại khinh khí cầu, ông thức dậy ngay lập tức người lảo đảo vì lạnh, nhưng qua chuyển động của chiếc giỏ, ông nhận thấy có gì không ổn. Nó đang lắc lư dữ dội khi những cơn gió mạnh thổi qua chiếc túi đựng khí, những phù thủy đang kéo những sợi dây thừng khó lòng giữ được nó. Nếu họ thả tay ra, chiếc khinh khí cầu có thể văng đi ngay lập tức, liếc mắt vào la bàn, ông tính toán nó có thể văng về phía Nova Zembla với tốc độ gần một trăm dặm một giờ.
“Chúng ta đang ở đâu?” Lyra nghe thấy ông gọi. Cô cũng đang lơ mơ, cảm thấy khó chiu bởi chuyển động của khinh khí cầu, và lạnh đến nỗi khắp người tê cóng.
Cô không nghe được tiếng bà phù thủy trả lời, nhưng qua chiếc mũ chùm mở ra một nửa, cô nhìn thấy, trong ánh sáng cảu một ngọn đèn cồn, Lê Scoresby đang giữ thanh chống và kéo sợi dây thừng ròng trên chiếc túi khí. Ông ghì chặt và nhìn lên đêm tối đang lồng lộn trước khi vòng sợi dây vào chiếc vòng treo.
“Tôi sẽ xả một ít khí ra.” Ông hét lên với Serafina Pekkala. “Chúng ta sẽ xuống thấp. Chúng ta đang ở trên cao quá.”
Bà phù thủy hét to đáp lại, nhưng Lyra vẫn không nghe được. Roger cũng đã tỉnh dậy. Tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ to đến nỗi đủ để đánh thức người ngủ say nhất, chưa nói đến sự rung và xóc nảy người. Nhân tinh của Roger và Pantalaimon bám chặt vào nhau như những con khỉ đuôi sóc, Lyra cố tập trung vào việc nằm im để không nhảy lên vì hoảng sợ.
“Không sao đâu,” Roger nói, nghe giọng có vẻ vui vẻ hơn cô rất nhiều. “Chúng ta sẽ hạ cánh sớm thôi rồi dốt lửa và sưởi ấm. Mình có mấy que diêm trong túi. Mình thó được trong nhà bếp ở Bolvangar đấy.”
Chiếc khinh khí cầu đã hạ xuống xuống chút ít. Những mảnh vụn và đám bùi nhùi bay đầy vào trong giỏ, rồi tất cả mọi thứ đều tói mịt. Nó như một màn sương dày đặc nhất. Lyra từng nhìn thấy. Sau một lúc có tiếng hét của Serafina Pekkala, người lái khinh khí cầu tháo sợi dây thừng cuộn quanh chiếc cọc và thả ra. Nó rút lên trên qua tay ông, tiếng kẽo kẹt và tiếng gió rít, Lyra cảm nhận thấy một cú đập mạnh ở cao phía trên đầu.
Lee Scoresby nhìn thấy đôi mắt đang mở to của cô.
“Đó là chiếc van khí,” ông hét to, “nó giữ khí gas bên trong. Khi chúng ta kéo nó xuống, khí sẽ thoát ra từ phía trên, chúng ta mất độ cao và đi xuống.”
“Thế chúng ta đã gần…”
Cô chưa kịp nói hết câu, vì một điều khủng khiếp đã xảy ra. Một sinh vật to bằng nửa người thường, có đôi cánh bằng da thịt và chân có móng vuốt đang bò lên thành giỏ về phía Lee Scoresby. Nó có đầu dẹt, hai mắt lồi và cái miệng nhái rộng ngoác, từ mình nó bốc lên một thứ mùi hôi thối thật tởm lợm. Lyra không có thời gian để hét lên, trước khi Iorek Byrnison lao tới và quật nó văng đi. Nó rơi khỏi giỏ và biến mất sau một tiếng rít.
“Kền kền núi.” Iorek nói ngắn gọn.
Tiếp theo đó, Serafina Pekkala xuất hiện và bám vào một bên thành giỏ, nói gấp gáp.
“Những con kền núi đang tấn công. Chúng tôi sẽ đưa chiếc khinh khí cầu xuống dưới đất, và sau đó chúng ta sẽ phải tự bảo vệ mình. Chúng...”
Nhưng Lyra không nghe thấy tiếng bà nói gì tiếp theo, vì có tiếng giăng xé, và tất cả nghiêng sang một bên. Rồi một luồng gió đẩy mạnh cả ba người vào một bên khinh khí cầu nơi treo bộ áo giáp sắt của Iorek Byrnison. Iorek đặt một bàn tay to lớn lên giữ nó vì chiếc giỏ đang lắc lư dữ dội. Serafina Pekkala đã biến mất. Những âm thanh thật ghê rợn; vượt lên trên tất cả những âm thanh khác là tiếng rít của những con ma núi. Lyra nhìn thấy chúng lao qua, và ngửi thấy mùi hôi hám bốc lên từ chúng.
Tiếp theo là một cú chao đảo nữa, rồi nó đột ngột ném mọi người xuống sàn, rồi chiếc giỏ lao xuống với một tốc độ đáng sợ, xoay vòng liên tục. Có cảm giác như nó bị giằng khỏi khinh khí cầu và đang rơi xuống không gì ngăn lại nổi; tiếp đến là những cú lắp lư và va chạm khác, chiếc giỏ đang tròng trành dữ dội từ bên này sang bên kia như thể họ đang nảy lên trên những bức tường đá.
Cảnh tượng cuối cùng có thể nhìn thấy là Lee Scoresby đang bắn khẩu súng lục vào mặt một con kền núi; rồi cô nhắm chặt mắt lại, bíu chặt lấy bộ lông Iorek Byrnison trong cơn hoảng hốt tột cùng. Những tiếng gầm, tiếng rít, tiếng gió gào thét, tiếng kẽo kẹt của chiếc giỏ như một con vật đang bị thương, khắp nowi tràn ngập những âm thanh khủng khiếp và hoang dại.
Tiếp đến là một cú lắc mạnh chưa từng thấy, cô thấy mình văng ra ngoài. Bàn tay đang bám của cô rời ra, tim cô như thể bật ra ngoài khi cô hạ cánh trong tình trạng không biết đâu là trên đâu là dưới, khuôn mặt ẩn sau chiếc mũ chùm đầu buộc chặt của cô bám đầy bụi, những thứ khô, lạnh, trong suốt.
Đó là tuyết, cô đã rơi xuống một đống tuyết. Cô ê ẩm đến nỗi gần như không suy nghĩ được nữa. Cô nằm thẳng đờ nhiều giây rồi mệt mỏi nhổ tuyết ra khỏi miệng, cô vũng vẫy yếu ớt cho đến khi có chút không gian để thở.
Dường như không có chỗ nào bị đau nghiêm trọng, cô chỉ cảm thấy rất khó thở. Cô thận trọng thử di chuyển, nhúc nhích chân, bàn tay, cánh tay, cẳng chân và ngẩng đầu lên. Cô nhìn được rất ít vì chiếc mũ chùm đầu vẫn dính đầy tuyết. Cô cố gắng hết sức, hai bàn tay nặng như chì, gạt tuyết ra và nhìn quanh. Cô nhìn thấy một thế giới màu xám, xám nhạt, xám đen, những mảng tuyết bay qua, bay lại như những hồn ma.
Những âm thanh duy nhất cô nghe thấy được là những tiếng rít xa xa của bọn kền núi, tiếng gió đập váo vách núi gần đó.
“Iorek!” cô kêu lên. Giọng cô yếu ớt và run rẩy. Cô thử lại nhưng không có tiếng đáp. “Roger!” cô gọi, cũng không có lời đáp.
Có lẽ cô chỉ còn một mình trong thế giới này, nhưng tất nhiên là không bao giờ như thế. Pantalaimon bò ra khỏi áo choàng của cô trong hình dạng một con chuột để làm bạn với cô.
“Mình đã kiểm tra Chân-kế,” nó nói. “Ổn cả. Không có chỗ nào bị vỡ.”
“Chúng mình bị lạc rồi, Pan!” Cô nói. “Cậu có trông thấy những con kền núi đó không? Lee Scoresby đã bắn chúng à? Chúa cứu rỗi nếu chúng mò xuống tận đây...”
“Tốt hơn là chúng mình phải tìm chiếc giỏ,” nó nói, “có lẽ là vậy.”
“Chúng mình tốt hơn chớ nên gọi to,” cô nói. “Mình vừa làm thế, nhưng có lẽ tốt hơn đừng, phòng trường hợp chúng nghe được. Uớc gì biết được bọn mình đang ở đâu.”
“Có thể bọn mình sẽ không thích nếu biết nơi này là đâu,” nó giảng giải. “Có thể chúng ta đang ở dưới chân một vách núi không có đường ra, và có những con kền núi đứng trên đỉnh sẽ nhìn thấy chúng ta một khi sương tan.”
Cô nhìn ra xung quanh sau khi đã nghỉ ngơi thêm mấy phút nữa và nhận thấy mình đã rơi vào một khoảng trống giữa hai ngọn núi phủ đầy tuyết. Băng giá bao trùm mọi nơi; một bên là tiếng gió đập vào vách đá cách vài chục mét, dù có vẻ đã giảm đi chút ít. Cô chỉ nhìn được hai đến ba mét trong bóng tối, ngay cả đôi mắt tinh như cú vọ của Pantalaimon cũng chẳng giúp ích được gì.
Cô chật vật tìm đường, bò và trườn trên những mỏm đá sắc thô ráp và nhận thấy chẳng có gì khác ngoài núi đá và băng tuyết, không thấy dấu hiệu nào của chiếc khinh khí cầu hay của những người ngồi trên đó.
“Họ không thể đều biến mất được.” Cô thì thầm.
Pantalaimon mò mẫm thêm một chút trong hình dạng mèo hoang và đụng vào bốn túi cát đã vỡ ra, cát bên trong đã đông cứng lại.
“Những bao cát.” Lyra nói. “Chắc ông ấy đã ném nó xuống để lại bay lên.”
Cô nuốt mạnh cục nước bọt trong cổ họng, hoặc nỗi sợ hãi trong ngực, hoặc cả hai.
“Ôi Chúa ơi, mình sợ quá,” cô nói. “Mình hi vọng họ an toàn.”
Pantalaimon quay trở lại vòng tay cô và biến thành một con chuột, bò vào mũ chùm của chủ nơi không ai nhìn thấy, cô nghe thấy một âm thanh, có gì đó đang đạp vào vách đá và quay lại nhìn.
“Iorek!”
Nhưng cô ghìm lại không nói hết, vì đó hoàn toàn không phải Iorek Byrnison. Đó là một con gấu lạ mặc một bộ áo giáp sắt đánh bóng, những hạt sương đọng trên đó đã đóng băng, và một chiếc lông vũ cắm trên chiếc mũ sắt đội đầu.
Họ vẫn đứng, cách nhau khoảng chục mét, cô nghĩ số phận mình thực sự đã kết thúc.
Con gấu mở miệng và rống lên. Một tiếng dội lại từ những vách đá và còn rung động từ rất xa phía trên. Từ trong màn sương mù hiện lên một con gấu, rồi một con nữa. Lyra vẫn đứng im, nắm chặt bàn tay lại.