Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.9
M
ỗi ngày khi làm việc nhà – lúc nào cũng đi lại, cũng bận rộn, Isabel luôn biết rõ Lucy đang ở đâu, cứ như con bé được buộc vào cô bằng một sợi dây tình cảm vô hình. Cô không bao giờ nổi nóng – sự kiên nhẫn của cô đối với Lucy không có giới hạn. Khi thức ăn bị rơi xuống sàn nhà, khi bàn tay dơ bẩn quẹt khắp tường, cô không một tiếng la mắng, không bao giờ nhìn con tỏ ý khiển trách. Nếu Lucy tỉnh giấc lúc nửa đêm, òa khóc, Isabel nhẹ nhàng dỗ con, trìu mến. Cô đón nhận món quà cuộc sống mang đến. Nhận luôn cả gánh nặng đi kèm.
Buổi chiều khi con đã ngủ, cô lại ra chỗ những cây thánh giá ở mũi đất. Đây là nhà nguyện của riêng cô, một nơi chốn thiêng liêng, nơi cô cầu nguyện được dìu dắt, mong làm một người mẹ tốt. Cô cũng cầu nguyện, theo một cách xa xôi hơn, cho cả Hannah Roennfeldt. Cô cầu cho Hannah sẽ không còn dằn vặt với quá khứ. Ở đây, Hannah chỉ là một ý niệm xa xôi. Hannah không phải là người thật, có cuộc sống thật trong khi Lucy… Isabel biết mọi vẻ trên gương mặt con bé, biết từng tiếng khóc. Isabel quan sát từng ngày cái phép màu đó – con bé lớn lên, đổi thay, như món quà dần mở ra theo thời gian. Một tính cách rõ rệt định hình, khi con bé bắt đầu học nói, bắt đầu nói lên cảm giác của mình, bộc lộ mình là ai.
Isabel ngồi trong cái nhà nguyện không hề có tường hay cửa sổ, hay vị mục sư nào cả để tạ ơn Chúa. Nếu có lúc nào đó ý nghĩ về Hannah Roennfeldt len đến, cô chỉ có một phản ứng duy nhất. Cô không thể đưa đứa bé này đi xa – cô không có quyền đánh cược với hạnh phúc của Lucy. Còn Tom thì sao? Tom là một người tốt. Tom không làm gì sai, lúc nào cũng vậy: cô có thể an tâm về điều đó. Rồi cuối cùng anh ấy sẽ chấp nhận mọi thứ.
Nhưng giữa hai người đã xuất hiện một khoảng cách mong manh, nhưng không thể lấp đầy: một thứ vành đai trắng mỏng như khói, vô hình.
***
Dần dần nhịp sống trên Janus trở lại như xưa, cuốn Tom vào với những thứ nghi lễ nhỏ nhặt. Đôi khi thức dậy giữa những giấc chiêm bao đen tối, với những chiếc nôi vỡ tan, những chiếc la bàn mất phương hướng, anh lại cố nén cảm giác khó chịu đó xuống, chờ ánh nắng ngày mới làm nó tan đi. Sự cô quạnh ru anh bằng thứ âm nhạc của dối gian.
***
“Con biết hôm nay là ngày gì không hả Lucy?” Isabel vừa hỏi Lucy vừa kéo chiếc áo len qua khỏi đầu con, rồi kéo hai cánh tay ra khỏi tay áo. Đã sáu tháng kể từ khi họ trở lại Janus hồi tháng Giêng năm 1928.
Lucy nghiêng đầu một chút. “Ummm…” con bé đáp, tìm cách câu giờ.
“Gợi ý nha?”
Con bé gật đầu.
Isabel mang tất cho con. “Thôi mà, chân kia nữa. Đúng rồi. Được rồi, má gợi ý là nếu con ngoan thì tối nay biết đâu sẽ được ăn cam…”
“Thuyền!” con bé hét lên, tuột khỏi đầu gối của Isabel rồi nhảy quanh nhà, một chiếc giày dưới chân còn chiếc kia vẫn cầm trong tay. “Thuyền tới! Thuyền tới!”
“Đúng rồi. Vậy nên giờ mình phải dọn dẹp nhà cửa thật đẹp còn đón Ralph và Bluey nữa!”
“Dạ!” Lucy reo lên rồi chạy vào bếp, nói với Tom, “Alf và Booey tới nè, ba ơi!”
Tôm ôm con, hôn nó. “Giỏi vậy! Con tự nhớ hay có ai nhắc hả?”
“Má nói,” con bé khai thật, nhe răng cười rồi loay hoay nhảy xuống, đi tìm Isabel.
Không lâu sau hai má con mặc áo đi ủng đủ lệ bộ, đi ra chuồng gà. Lucy còn cầm theo một chiếc giỏ bé xíu, kiểu giống y giỏ của Isabel.
“Giống biểu diễn thời trang quá,” Tom trêu hai má con trên đường trở lại nhà xưởng.
“Thà mặc ấm còn hơn đẹp mà lạnh,” Isabel nói, hôn anh vội vàng. “Hai má con em đi nhặt trứng đây.”
Bên trong chuồng gà, Lucy dùng cả hai tay để nhặt từng quả trứng. Công việc chỉ mất vài giây với Isabel lại được con bé xem như một thứ nghi lễ nghiêm trang. Lucy áp mỗi quả trứng vào má rồi báo cáo “Vẫn còn ấm!” hay “Lạnh ngắt!”, tùy quả, rồi mới đưa cho Isabel để bỏ vào giỏ, giữ lại quả trứng cuối cùng cho vào trong giỏ của nó. Rồi “Cảm ơn, Daphne. Cảm ơn, Speckle…” con bé đi một vòng cảm ơn mỗi con gà mái đã góp trứng.
Ra vườn rau, Lucy giữ cán cuốc khi Isabel đào khoai.
“Má thấy hình như có một củ…” Isabel nói, rồi chờ con bé tìm ra mảng màu sáng giữa đám đất đá.
“Kia kìa!” Lucy reo lên, đặt tay xuống lỗ đất rồi moi lên một hòn đá.
“Gần đúng rồi.” Isabel mỉm cười. “Chỗ ngay cạnh đó thì sao? Ngay gần đó đó.”
“Củ hoai!” Lucy ngọng nghịu mỉm cười, giơ phần thưởng lên cao khỏi đầu. Đất cát rơi vào tóc nó, vào mắt nó. Con bé mếu máo.
“Để má coi,” Isabel dỗ dành, chùi hai tay vào bộ áo liền quần đang mặc rồi mới xem mắt con bé. “Được rồi, giờ con chớp mắt cho má. Hết rồi đó Lucy à.” Con bé tiếp tục mở mắt rồi chớp mắt.
“Hết rồi,” cuối cùng nó reo lên. Sau đó, “Nhiều củ hoai nữa!” và cuộc tìm kiếm lại bắt đầu.
Trong nhà Isabel lau sàn ở mỗi phòng, dồn hết bụi vào một đống trong góc, chuẩn bị hốt. Cô trở ra bếp xem chiếc bánh mì trong lò đã được chưa, khi quay vào cô thấy một đường đất chạy khắp nhà, hẳn do Lucy đã cố hốt đám bụi.
“Nhìn nè má, Lucy giúp má nè!”
Isabel nhìn dấu vết đám bụi trong nhà rồi thở dài. “Đúng là Lucy giúp má…” Bồng con lên, cô nói tiếp. “Cảm ơn con. Con gái má ngoan quá. Giờ mình quét một lần nữa cho thiệt sạch luôn được không?” Cô lắc đầu, lẩm bẩm, “Lucy Sherbourne, lớn lên thành nội trợ đảm đang, đúng không hả?”
Lát sau Tom đứng ở bậc cửa. “Con bé xong chưa?”
“Rồi,” Isabel đáp. “Đã rửa mặt, rửa tay sạch sẽ. Không còn ngón tay dơ hầy nữa.”
“Vậy thì đi thôi nhóc con.”
“Đi lên lầu hả ba?”
“Ừ, đi lên lầu.” Con bé đi theo sau anh ra tháp đèn. Đến chân cầu thang, nó đưa tay lên để anh nắm lấy từ phía sau. “Được rồi, thỏ con, đếm nhé. Một, hai, ba,” cả hai đi lên cầu thang thật chậm. Tom đếm to mỗi bước đi, mãi sau khi Lucy đã chán không đếm nữa.
Lên đến đỉnh tháp, trong phòng ngắm, Lucy đưa tay ra, ngọng nghịu “Ấm nhòm”. Tom nói, “Để ba cho con xem ống nhòm. Giờ leo lên bàn đã.” Anh đặt con bé trên mấy tấm bản đồ, rồi đưa chiếc ống nhòm cho nó, hai tay giữ lấy sức nặng của món đồ giúp con.
“Con thấy gì không?”
“Mây.”
“Ừ đúng rồi, nhiều mây quá. Có thấy thuyền không?”
“Không.”
“Con chắc không đó?” Tom bật cười. “Vậy làm sao ba để Lucy gác đèn được. Đằng kia là gì vậy? Thấy chưa? Theo ngón tay ba chỉ đó.”
Con bé đong đưa chân rồi reo lên. “Alf và Booey! Trái cam.”
“Má nói tối nay sẽ có cam đúng không? Mong là có cam thật.”
Hơn một tiếng đồng hồ sau chiếc thuyền tiếp tế mới cập bờ.
Tom và Isabel đứng trên cầu tàu, Lucy ngồi trên vai Tom.
“Cả một ủy ban đón tiếp luôn!” Ralph gọi với.
“Chào ông!” Lucy reo lên. “Người ta! Chào ông, chào Alf, chào Boo.”
Bluey nhảy xuống cầu tàu, chụp lấy dây thừng Ralph vừa quăng lên. “Coi chừng đó Lucy,” cậu ta nhắc đứa nhỏ đang đứng dưới đất. “Đừng dính vô dây thừng.” Cậu nhìn Tom. “Trời đất, con nhỏ lớn nhanh quá! Không còn là em bé Lucy nữa rồi!”
Ralph bật cười. “Con nít đâu có nhỏ hoài được.”
Bluey cột dây xong. “Tại vài tháng mình mới thấy Lucy một lần, nên thấy nó lớn nhanh. Con nít trong thị trấn thì ngày nào cũng thấy nên không thấy tụi nó lớn nhanh như vậy.”
“Rồi tự dưng một ngày thành ra như cậu đấy!” Ralph trêu. Khi bước lên cầu tàu, lão giữ thứ gì đó trong bàn tay sau lưng. “Giờ có ai giúp tôi dỡ hàng không?”
“Con nè!” Lucy nói.
Ralph nháy mắt nhìn Isabel rồi đưa ra một hộp quả đào từ sau lưng. “Vậy cho con khiêng cái này nặng lắm, nặng ghê lắm.”
Lucy đưa cả hai tay ra đỡ lấy món đồ hộp.
“Trời, Lucy, cẩn thận đó! Đem vô nhà đi.” Isabel quay sang nhìn đám đàn ông. “Bác coi có thứ gì cháu mang vào được không.” Ralph leo ra từ phía sau lấy thư từ và mấy gói đồ nhẹ. “Cháu đi vào trước đây. Để cháu đặt ấm nước.”
Sau bữa trưa, những người lớn ngồi uống nốt trà trên bàn ăn, Tom nói, “Sao thấy Lucy im ắng quá…”
“Hmmm,” Isabel đáp. “Con nhỏ đang vẽ cho xong bức tranh để gởi cho ba má. Để em đi xem.” Nhưng cô chưa kịp ra khỏi phòng thì Lucy bước vào bếp, mặc chiếc váy lót của Isabel kéo lê dưới sàn nhà, mang thêm đôi giày có gót của cô và chuỗi hạt màu xanh mà mẹ cô đã gởi theo thuyền lúc sáng.
“Lucy!” Isabel la lên. “Con lục đồ của má hả?”
“Không có,” con bé đáp, mắt tròn xoe.
Isabel đỏ mặt. “Cháu có bao giờ ăn mặc vậy đi quanh nhà đâu,” cô nói với mấy vị khách. “Thôi mà Lucy, cảm lạnh bây giờ. Để má mặc đồ lại cho con. Rồi má sẽ nói chuyện con dám lục đồ má. Còn dám nói dối nữa.” Cô bước ra khỏi phòng, mỉm cười, không để ý thấy sắc mặt thoáng đổi khác của Tom khi nghe thấy những lời cuối cùng.
***
Lucy hớn hở đi chập chững theo sau Isabel nhặt trứng. Con bé mê mẩn nhìn đám gà con mới nở, lâu lâu lại thêm vài con mới. Nó áp gà con vào cằm, để cảm thấy đám lông vàng mịn như tơ. Khi giúp mẹ nhổ cà rốt hay củ cải, thỉnh thoảng con bé lại kéo quá mạnh, ngã nhào ra sau, đất cát lấm lem. “Lucy – Goosy!” Isabel bật cười. “Ngồi dậy đi con.”
Bên cây đàn dương cầm, con bé ngồi trong lòng Isabel, lóng ngóng chật vật gõ ầm ầm lên phím đàn. Isabel nắm lấy ngón trỏ của con, giúp nó đánh bài “Ba con chuột mù.” Con bé nói, “Má để con tự đánh,” rồi lại bắt đầu chơi thứ nhạc inh tai của mình.
Con bé ngồi hàng giờ trên sàn bếp, nguệch ngoạc bằng bút chì màu trên mặt sau của những mẫu đơn CLS đã hết hạn, vẽ ra những hình rối rắm ngẫu nhiên, rồi chỉ tay vào đó và nói, “Má nè, ba nè, Lulu ở Hải đăng nè.” Với con bé, tòa tháp đèn cao gần bốn chục thước đằng sau cũng hết sức bình thường. Tòa tháp đèn làm nền tranh, có thêm một ngôi sao trong đó. Ngoài những từ như “chó” và “mèo” – là những khái niệm có phần xa lạ mà Lucy phải học từ sách vở, con bé giờ đã rành rọt nào là “thấu kính”, “lăng kính” rồi cả “khúc xạ.” “Ngôi sao của con đó,” con bé mách với Isabel tối hôm đó, khi nó chỉ tay vào tranh. “Của ba cho con đó!”
Con bé hay kể chuyện cho Tom nghe, chuyện cá, chuyện hải âu, chuyện tàu thuyền. Khi cả nhà đi dạo dưới biển, nó thích nắm tay Tom một bên, Lucy một bên rồi đu lên giữa hai người. “Lulu ở Hải đăng!” là câu con bé tích nói nhất, nó cứ nhắc lại mỗi khi vẽ hình mình trong những bức tranh nguệch ngoạc, hay kể chuyện có mình trong đó.
***
Đại dương không hề ngừng nghỉ. Không biết khởi đầu và cũng chẳng hay kết thúc. Con gió cũng không bao giờ xong việc. Đôi khi nó biến đâu mất, nhưng chỉ để lấy đà từ nơi nào đó, rồi quay lại vần vũ hòn đảo, như để chứng minh một điều mà Tom không bao giờ hiểu được. Sự sống trên đảo tính theo thang đo của những người khổng lồ. Thời gian theo hàng triệu năm; những hòn đá từ xa trông như những viên xúc xắc thả vào bờ biển thực ra là những vách núi rộng hàng trăm feet, đã bao thiên niên kỷ chịu sóng liếm, ngả nghiêng rồi xếp thành lớp lớp thẳng đứng.
Tom ngắm Lucy bà Isabel đang nghịch nước trong Bể Thiên Đàng. Con bé thích mê trò đập nước, vị mằn mặn và cả con sao biển màu xanh rực rỡ nó vừa bắt được. Anh ngắm ngón tay của Lucy giữ chặt lấy con sao biển. Gương mặt nó sáng lên, hớn hở tự hào, như thể tự tay nó làm ra con vật đó vậy. “Ba coi nè. Sao biển của Lucy đó!” Tom thấy thật khó khăn khi tập trung nghĩ đến cả hai thứ khung thời gian đó: sự hiện hữu của hòn đảo và sự sống của một đứa trẻ.
Anh thấy kinh ngạc rằng cuộc đời nhỏ bé của đứa con gái có ý nghĩa với anh còn nhiều hơn cả những thiên niên kỷ trước đó. Anh vất vả cố hiểu cảm xúc của chính mình – anh thấy vừa êm dịu vừa có chút bất an khi con bé hôn anh, chúc anh ngủ ngon, hay khi nó đưa cho anh xem chỗ đầu gối bị trầy xước, để được hôn một cái cho hết đau – thứ phép màu chỉ cha mẹ mới có.
Với Isabel, Tom cũng bị giằng xé giữa khát khao có cô, giữa tình yêu và cái cảm giác khiến anh không thở được. Hai cảm giác đó chà xát lẫn nhau, không thể dàn hòa.
Đôi khi, một mình ngồi trong tháp đèn, anh bắt gặp mình đang nghĩ về Hannah Roennfeldt. Cô ấy dong dỏng cao? Hay đẫy người? Liệu trên gương mặt Lucy có nét nào của cô ấy không? Mỗi khi Tom cố mường tượng ra Hannah, anh chỉ thấy hai bàn tay che lấy một gương mặt đang nức nở. Anh rùng mình, rồi trở lại với công việc đang làm dở.
Đứa trẻ này khỏe mạnh, hạnh phúc, được yêu thương. Nó sống trong cái thế giới nhỏ bé, vượt ra ngoài tầm với của báo chí và tai tiếng. Vượt cả ra khỏi tầm với của thực tế cuộc sống. Cũng có lúc trong vài tuần Tom dường như tin được vào câu chuyện về một gia đình bình thường, hạnh phúc. Câu chuyện như một thứ ma túy mê muội.
***
“Không được để ba biết. Đợi khi nào má cho mới được nói.”
Lucy nhìn Isabel, vẻ mặt nghiêm trang. “Lucy sẽ không nói,” con bé đáp, gật đầu. “Má cho con ăn bánh đi?”
“Đợi má một chút. Để gói cho xong đã.” Chuyến tiếp tế tháng Chín năm 1928 còn mang thêm một số gói đồ khác mà Bluey đã tuồn vào nhà cho Isabel trong khi Ralph mải đánh lạc hướng Tom, loay hoay dỡ hàng. Tổ chức sinh nhật bất ngờ cho Tom không hề dễ chút nào: cô phải viết thư cho mẹ hàng tháng trước đó, ghi nguyên một danh sách. Vì Tom là người giữ tài khoản ngân hàng, cô phải hứa lần tới lên bờ sẽ trả tiền lại cho mẹ.
Mua quà cho Tom vừa khó vừa dễ: có gì anh cũng vui, nhưng anh thực cũng không muốn gì cả. Ban đầu cô định mua một chiếc bút máy Conway Stewart và tập sách Wisden mới nhất[1]: một thứ hữu dụng, một thứ giải trí. Khi cô hỏi Lucy con bé muốn tặng ba món quà gì, đêm đó hai má con ngồi ngoài trời, con bé quấn lọn tóc quanh ngón tay, nghĩ một lát rồi nói. “Tất cả mấy ngôi sao.”
[1] Wisden Cricketers’ Almanack: Tập sách tham khảo về môn cricket xuất bản hàng năm ở Anh quốc, được xem là “kinh thánh” của người hâm một môn thể thao này.
Isabel bật cười. “Má không biết mình có kiếm được món đó không, Luce à.”
Đứa bé tỏ ra phật ý. “Nhưng Lulu muốn vậy mà!”
Một ý tưởng chợt nảy đến. “Hay là mình tặng ba bản đồ các ngôi sao – một tập thiên văn đồ chẳng hạn?”
“Đúng rồi!”
Giờ đây trước mặt hai mẹ con là cuốn sách dày cộp. Isabel hỏi. “Con muốn viết gì vô đó?” Cô giữ cây viết, ngón tay bám lấy ngón tay của Lucy, viết mấy chữ run run, theo ý Lucy, “Tặng ba của con, thương ba mãi mãi…”
“Nữa,” Lucy nài nỉ.
“Gì nữa kia?”
“Thêm ‘mãi mãi’ nữa. Mãi mãi và mãi mãi…”
Isabel cười, dòng chữ “mãi mãi và mãi mãi và mãi mãi” chạy như con sâu trên trang giấy. “Rồi viết gì nữa? Hay viết là Ký tên: Lucy, con gái cưng của ba?”
“Ký tên: Lulu ở Hải đăng.”
Con bé bắt đầu viết nhưng chóng chán, trèo xuống khỏi người Isabel khi đang viết dở.
“Má viết cho xong đi,” nó ra lệnh như không.
Vậy là Isabel viết cho hết chỗ ký tặng, mở ngoặc thêm vào (Isabel Sherbourne, thư ký và quản gia của người vừa ký ở trên.)
Khi Tom mở gói quà, anh lóng ngóng vì Lucy đã đưa tay bịt mắt anh lại, anh nói, “Là một cuốn sách…”
“Là tập bảng đò!” Lucy reo lên.
Tom nhận lấy món quà. “Thiên văn đồ Brown’s, minh họa các sao sáng, kèm chỉ dẫn tìm sao để chỉ đường, dùng trong các kỳ sát hạch của Cục thương mại.” Anh mỉm cười dịu dàng, rồi quay sang nhìn Isabel. “Lucy giỏi quá, biết tự mình chuẩn bị quà nữa sao?”
“Đọc đi ba. Ở trong đó. Lulu có viết đó.”
Anh mở sách, thấy dòng chữ ký tặng dài ngoằn ngoèo. Anh vẫn mỉm cười, nhưng có gì đó ở mấy chữ “Mãi mãi và mãi mãi và mãi mãi…” khiến anh thấy nhói lòng. Mãi mãi là một khái niệm không tưởng, nhất là với đứa trẻ này, ở nơi đây. Anh đặt môi lên đầu Lucy. “Đẹp quá, Lulu ở Hải đăng à. Đây là món quà dễ thương nhất mà ba từng được tặng.”