It's so amazing when someone comes into your life, and you expect nothing out of it but suddenly there right in front of you, is everything you ever need.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 761
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18
ột hôm, cha ta, Hoàng đế Padishah, cầm lấy tay ta, và theo những cách mà mẹ đã dạy ta, ta cảm thấy cha đang bối rối. Cha dẫn ta xuống Sảnh Chân dung nơi có bức chân ngã ảnh của Công tước Leto Atreides. Ta chú ý đến sự giống nhau đặc biệt giữa họ - cha ta và người đàn ông trong tranh - cả hai đều có gương mặt gầy, tao nhã, đôi mắt lạnh lẽo nổi bật trên những đường nét sắc nhọn. "Này Công chúa con," cha ta nói, "ta muốn con trưởng thành hơn vào thời điểm người đàn ông này chọn vợ." Hồi đó cha ta bảy mươi mốt tuổi nhưng trông ông không già hơn người đàn ông trong ảnh, còn ta mới mười bốn tuổi, tuy nhiên ta vẫn nhớ ngay lúc ấy mình đã suy đoán rằng cha ta thầm ước Công tước là con ông, và ông căm ghét những lý do chính trị cần thiết đã khiến họ thành kẻ thù.
- trích "Trong Gia tộc cha ta" của Công chúa Irulan
Cuộc chạm trán đầu tiên giữa Tiến sĩ Kynes và những người mà ông được lệnh phải phản bội đã khiến ông sửng sốt. Ông tự hào rằng mình là một nhà khoa học mà đối với ông truyền thuyết chẳng qua là các đầu mối thú vị chỉ dẫn tới những cội nguồn văn hóa. Tuy nhiên cậu bé khớp với lời tiên tri cổ một cách quá ư chính xác. Nó có "đôi mắt dò hỏi", và cái kiểu cách "vừa thẳng thắn vừa kín đáo".
Tất nhiên lời tiên tri vẫn có chỗ mơ hồ, nó không nói rõ Mẹ Tạo hóa sẽ mang Nhà tiên tri theo với Người hay sẽ tạo ra Nhà tiên tri trên sân khấu. Tuy nhiên, có một sự tương ứng kỳ quặc giữa lời tiên tri với những người này.
Họ gặp nhau vào giữa buổi sáng bên ngoài tòa nhà hành chính của sân đáp tàu. Một chiếc tàu chim chẳng có gì đáng chú ý đậu gần đấy, kêu vo vo ở chế độ trực chiến giống như con sâu buồn ngủ. Một vệ sĩ Atreides đứng cạnh nó, gươm tuốt trần, lá chắn bảo vệ gây nhiễu loạn nhẹ bầu không khí quanh anh ta.
Kynes nhếch mép cười trước cái mẫu hình lá chắn đó, ông nghĩ: Ở điểm này thì Arrakis có một sự ngạc nhiên dành cho họ đây!
Nhà sinh thái học giơ tay ra hiệu cho đội bảo vệ Fremen của ông rút lui. Ông sải bước về phía lối vào tòa nhà - một cái lỗ tối om trên mặt đá phủ nhựa. Quá lộ liễu, cái tòa nhà bằng đá nguyên khối này, ông nghĩ. Thật không phù hợp cho một sào huyệt.
Những chuyển động ở lối vào thu hút sự chú ý của ông. Ông dừng lại, tranh thủ lúc này để chỉnh áo choàng và bộ sa phục nơi vai trái.
Cánh cửa ra vào mở rộng ra. Đội bảo vệ Atreides xuất hiện nhanh như chớp, tất cả đều trang bị vũ khí đến tận răng - nào là súng bắn phi tiêu chậm, nào gươm, nào tấm chắn. Từ đằng sau họ một người đàn ông cao lớn bước ra, nét mặt chim ưng, da và tóc sẫm màu. Ông ta mặc áo choàng jubba có phù hiệu Atreides trên ngực, và cái cách ông ta mặc nó đã tiết lộ rằng ông ta không quen với loại quần áo này. Nó dính sát vào hai bên ống quần bộ sa phục, thiếu sự nhịp nhàng đu đưa theo bước chân.
Đi bên cạnh người đàn ông là một thiếu niên có mái tóc sẫm màu giống ông ta, nhưng khuôn mặt tròn hơn. Cậu thiếu niên có vẻ nhỏ con so với cái tầm mười lăm mà Kynes biết vốn là tuổi cậu. Nhưng thân hình trẻ trung đó mang dáng vẻ chỉ huy, toát lên sự tự tin đĩnh đạc, như thể cậu ta nhìn và thấu hiểu mọi chuyện xung quanh trong khi những người khác thì không. Cậu mặc áo choàng cùng kiểu với áo người cha, tuy nhiên sự thoải mái ung dung khiến người ta nghĩ cậu bé đó vẫn luôn mặc những kiểu quần áo như thế.
"Mahdi sẽ ý thức về những thứ mà người khác không thể nhìn thấy," lời tiên tri nói.
Kynes lắc đầu, tự nhủ: Bọn họ chỉ là con người thôi.
Đến cùng hai người này, cũng mặc quần áo sa mạc giống họ, còn có một người mà Kynes nhận ra - Gurney Halleck. Kynes hít một hơi sâu để làm lắng dịu nỗi oán giận dành cho Halleck, người đã chỉ dẫn tường tận cho ông biết phải cư xử như thế nào đối với Công tước và người thừa kế tước Công.
"Ông có thể gọi Công tước là 'thưa Chúa công' hoặc 'Thưa Ngài'. 'Tôn ông' cũng được, nhưng cách xưng hô này thường dùng trong những trường hợp trang trọng hơn. Cậu con trai thì có thể gọi là 'Thiếu chủ' hoặc 'Công tử'. Công tước là người khoan dung, nhưng ngài không cho phép có chút suồng sã nào."
Và Kynes nghĩ trong lúc quan sát nhóm người tiến lại gần: Họ sẽ sớm biết trên Arrakis ai mới là chủ. Ra lệnh lão Mentat kia tra vấn ta suốt cả nửa đêm ư? Trông chờ ta dẫn họ đi khảo sát mỏ khai thác hương dược ư?
Ý nghĩa trong những câu hỏi của Hawat bám riết lấy Kynes. Họ muốn các căn cứ của Đế quốc. Và rõ ràng họ biết về các căn cứ đó nhờ Idaho.
Ta sẽ buộc Stilgar gửi đầu Idaho đến cho lão Công tước này, Kynes tự nhủ.
Nhóm người của Công tước chỉ còn cách vài bước, những đôi chân xỏ bốt sa mạc nghiến lạo xạo trên cát.
Kynes cúi mình. "Xin kính chào Công tước."
Trong khi tiến lại gần người đàn ông đứng đơn độc bên chiếc tàu chim, Leto quan sát ông ta: cao, gầy, áo choàng sa mạc rộng lùng thùng, mặc sa phục, đi bốt cổ thấp. Mũ trùm đầu của người đàn ông lật ra sau, khăn che mặt lơ lửng một bên mũ, để lộ mái tóc hung dài, bộ râu lơ thơ. Đôi mắt màu-xanh-trong-màu-xanh khó dò hỏi dưới hàng lông mày rậm. Phần còn lại của những vết biến màu tối thẫm làm hoen bẩn hốc mắt ông ta.
"Ông là nhà sinh thái học," Công tước nói.
"Ở đây chúng tôi thích cái từ cổ xưa này hơn, thưa Chúa công," Kenes nói. "Nhà hành tinh học."
"Cứ xưng hô như ông muốn," Công tước nói. Ông nhìn xuống Paul. "Này con, đây là Phán quan Phụ trách Thay đổi, người phân xử các cuộc tranh cãi, ở đây ông ấy chịu trách nhiệm trông coi việc tuân thủ các tục lệ trong khi chúng ta tiếp quản thái ấp này." Ông nhìn Kynes. "Đây là con trai ta."
"Chào Thiếu chủ," Kynes nói.
"Ông là người Fremen à?" Paul hỏi.
Kynes mỉm cười. "Cả sietch và làng mạc đều thừa nhận tôi, thưa Thiếu chủ. Nhưng tôi là người phục vụ Hoàng đế, nhà hành tinh học Hoàng gia."
Paul gật đầu, cảm thấy ấn tượng sâu sắc trước vẻ mạnh mẽ của người đàn ông này. Halleck đã chỉ cho Paul thấy Kynes từ ô cửa sổ trên cao của tòa nhà hành chính: "Người đàn ông đứng dưới kia cùng đội hộ tống người Fremen - người đang đi về phía tàu chim ấy."
Paul đã quan sát Kynes bằng ống nhòm một lúc, lưu ý nét mặt nghiêm nghị, khuôn miệng ngay ngắn, vầng trán cao. Halleck đã ghé vào tai Paul nói: "Một gã kỳ quặc. Có một cách nói chính xác - cắt ra mà không để lại một vết xơ nào ở mép - sắc như dao cạo."
Còn Công tước đứng đằng sau họ nói: "Một mẫu người khoa học."
Giờ đây, chỉ đứng cách người đàn ông vài bước chân, Paul cảm nhận được uy lực trong con người Kynes, sức ảnh hưởng của cá nhân ông ta, như thể ông ta mang trong mình dòng máu hoàng gia, là một nhà chỉ huy bẩm sinh.
"Ta biết bọn ta phải cám ơn ông về những bộ sa phục và áo choàng mà ông gửi tặng," Công tước nói.
"Tôi hy vọng là chúng vừa vặn, thưa Chúa công," Kynes nói. "Người Fremen đã cắt may sát nhất theo số đo mà người của Ngài, ông Halleck đây, đã đưa cho tôi."
"Ta đã quan tâm khi ông nói ông không thể đưa bọn ta vào sa mạc trừ phi bọn ta mặc những quần áo này," Công tước nói. "Ta có thể mang theo nhiều nước. Bọn ta không có ý định đi lâu ngày và sẽ có lực lượng không quân yểm trợ - là đội hộ tống mà ông thấy đang ở ngay trên đầu đấy. Chưa chắc bọn ta sẽ buộc phải hạ cánh."
Kynes nhìn ông chằm chằm, quan sát cái thân hình chứa đầy nước đó. Ông ta lạnh lùng nói: "Ngài đừng bao giờ nói về khả năng này nọ trên Arrakis. Hãy chỉ nói về xác suất những điều có thể xảy ra."
Halleck cứng rắn. "Phải xưng hô với Công tước là Thưa Chúa công hoặc Thưa Ngài!"
Leto dùng tay ra hiệu cho Halleck dừng lại bằng tín hiệu riêng giữa họ, rồi nói: "Ở đây cách xưng hô này còn xa lạ, Gurney. Chúng ta phải chiếu cố cho ông ấy."
"Thưa vâng."
"Bọn ta mang ơn ông, Tiến sỹ Kynes," Leto nói. "Bọn ta sẽ ghi nhớ về những bộ quần áo này và về sự quan tâm đối với sức khỏe của bọn ta."
Bất chợt bị thôi thúc từ bên trong, Paul nhớ lại câu trích dẫn trong Kinh thánh Toàn Nhân loại Màu Cam, bèn nói: "'Món quà là phúc lành của dòng sông'."
Những lời đó vang lên trong bầu không khí tĩnh lặng. Đang ngồi nghỉ ngơi, đội hộ tống Fremen mà Kynes cho nán lại trong bóng râm của tòa nhà hành chính liền bật dậy, thì thầm trong tâm trạng phấn khích thấy rõ. Một người kêu lên: "Lisan al-Gaib!"
Kynes quay người, đưa tay làm một tín hiệu cắt ngang cộc lốc, xua đội bảo vệ đi. Họ lùi lại, càu nhàu rồi bước ra xa, đi vòng quanh tòa nhà.
"Thật thú vị," Leto nói.
Kynes hướng cái nhìn chằm chằm nghiêm nghị vào Công tước và Paul rồi nói: "Hầu hết dân sa mạc bản địa ở đây là một lũ mê tín. Đừng chú ý đến họ. Họ không gây hại gì cả." Nhưng ông nghĩ về những lời trong truyền thuyết: "Họ sẽ chào đón Người bằng những Từ Thiêng và món quà của Người sẽ là một phúc lành."
Sự đánh giá của Leto về Kynes - một phần dựa trên bản báo cáo miệng ngắn gọn (thận trọng và đầy nghi ngờ) của Hawat - bất giác trở nên hoàn toàn sáng tỏ: kẻ này quả thực là người Fremen. Kynes đến cùng đội hộ tống người Fremen, điều đó chỉ có thể hiểu rằng người Fremen đang thử nghiệm quyền tự do họ mới có trong việc ra vào những khu vực đô thị - nhưng có vẻ nó là một đội hộ tống danh dự. Và xét theo cung cách hành xử thì Kynes là người cao ngạo, quen tự quyết, miệng lưỡi và thái độ của ông ta chỉ được kiểm soát bởi sự nghi ngờ của chính ông ta. Câu hỏi của Paul thẳng thắn và thích đáng.
Kynes đã trở thành như người bản xứ.
"Chúng ta đi thôi chứ, thưa Chúa công?" Halleck hỏi.
Công tước gật đầu. "Ta sẽ bay trên tàu chim của ta. Kynes có thể ngồi cùng ta ở ghế trước để chỉ đường cho ta. Ông và Paul ngồi ghế sau."
"Xin đợi một lát," Kynes nói. "Nếu ngài cho phép, thưa Ngài, tôi phải kiểm tra độ an toàn của bộ quần áo ngài mặc."
Công tước định nói, nhưng Kynes chặn lại: "Tôi quan tâm đến xương thịt của chính tôi cũng như của ngài... thưa Chúa công. Tôi biết rõ cổ họng ai sẽ bị xẻ toạc ra nếu có sự chẳng lành xảy ra với cha con ngài trong lúc hai người nằm trong sự chăm sóc của tôi."
Công tước cau mày nghĩ: Thời điểm này mới tế nhị làm sao! Nếu ta từ chối thì có thể xúc phạm ông ta. Trong khi đây có thể là một người có giá trị với ta đến mức không thể lường hết. Tuy nhiên... có nên để ông ta vào trong tấm chắn của ta, chạm vào người ta khi ta biết quá ít về ông ta không?
Những suy nghĩ vụt qua đầu ông cùng với quyết định bám theo sát gót. "Bọn ta ở trong tay ông," Công tước nói. Ông bước lên, phanh áo choàng ra, thấy Halleck kiễng chân lên, trong tư thế sẵn sàng đầy cảnh giác, nhưng vẫn không rời vị trí. "Nếu ông có lòng tốt như thế," Công tước nói, "ta sẽ rất cảm kích nếu được nghe lời giảng giải về bộ quần áo này từ một người sống gắn bó mật thiết với nó."
"Tất nhiên rồi," Kynes nói. Ông đưa tay xuống dưới tấm áo choàng, sờ lên những miếng xi trên vai bộ sa phục, vừa nói vừa kiểm tra bộ quần áo. "Về cơ bản nó là một micro-sandwich - một bộ lọc và hệ thống trao đổi nhiệt hiệu suất cao." Ông chỉnh những miếng xi ở vai áo. "Lớp tiếp xúc với da có những lỗ nhỏ li ti. Mồ hôi thoát qua đó, làm mát cơ thể... quá trình làm bay hơi gần như bình thường. Hai lớp kế tiếp..." Kynes kéo căng ngực áo cho vừa vặn, "... gồm những sợi dây nhỏ trao đổi nhiệt và kết tủa muối. Muối được tái chế."
Công tước nhấc hai tay lên khi Kynes ra hiệu, rồi nói: "Thú vị thật."
"Hãy thở sâu," Kynes nói.
Công tước làm theo.
Kynes quan sát những tấm xi dưới nách, điều chỉnh một tấm. "Những chuyển động của cơ thể, đặc biệt khi thở," ông nói, "cùng một số hoạt động thấm lọc cung cấp lực bơm." Ông nới lỏng ngực áo ra một chút. "Nước tái chế luân chuyển đến các túi hứng, ngài hút nước từ túi hứng thông qua chiếc ống này, chỗ cái kẹp ở cổ áo."
Công tước cúi cằm xuống sát ngực để nhìn phần đầu của ống hút. "Thật hiệu quả và tiện lợi," ông nói. "Một công trình xuất sắc."
Kynes quỳ xuống, quan sát những tấm xi ở ống quần. "Nước tiểu và phân được xử lý trong những miếng lót đùi," ông nói rồi đứng lên, sờ bộ phận điều chỉnh cổ áo, nhấc một miếng vành cổ rời ở đó lên. "Giữa sa mạc rộng lớn không có gì che chắn, ngài hãy bịt bộ lọc này ngang qua mặt, cái ống này nằm trong lỗ mũi có những đầu ống để đảm bảo vừa khít. Hơi thở đi vào qua bộ lọc ở miệng, đi ra qua ống ở mũi. Với một bộ quần áo Fremen loại tốt, trong một ngày ngài sẽ không mất nhiều hơn một ngụm độ ẩm - ngay cả khi ngài bị mắc kẹt trong Erg Lớn."
"Một ngụm một ngày," Công tước nói.
Kynes ấn ngón tay vào miếng đệm trán của bộ quần áo rồi nói: "Cái này có thể hơi cọ vào da. Nếu nó làm ngài khó chịu, xin hãy bảo tôi. Tôi có thể đệm thêm vào cho chặt hơn một chút."
"Cám ơn ông," Công tước nói. Ông cử động hai vai dưới lớp áo trong lúc Kynes bước lùi lại, nhận thấy bây giờ chiếc áo đã có vẻ vừa hơn - khít hơn và ít gây khó chịu hơn.
Kynes quay sang Paul. "Nào, hãy để ta ngắm cho cháu, cậu bé."
Một người được đấy, nhưng ông ta sẽ phải học cách xưng hô đúng mực với cha con ta, Công tước nghĩ.
Paul đứng yên khi Kynes kiểm tra kỹ bộ sa phục. Có một cảm giác kỳ lạ khi mặc bộ quần áo có bề mặt trơn mượt, nhiều nếp gấp này. Trong trạng thái tiền ý thức của cậu, cậu biết chắc chắn mình chưa từng mặc sa phục bao giờ. Thế nhưng, dưới sự hướng dẫn vụng về của Gurney, mỗi thao tác điều chỉnh những bộ phận gắn vào bộ quần áo của cậu đều dường như thật tự nhiên, theo bản năng. Khi cậu siết ngực áo để tác dụng bơm từ hoạt động thở đạt được mức tối đa, cậu hiểu những gì cậu làm và tại sao phải làm thế. Khi chỉnh cổ áo và những miếng đệm trán cho chặt, cậu biết làm thế là để ngăn ngừa những vết rộp da do cọ xát.
Kynes thẳng người lên, lùi lại đằng sau với vẻ bối rối.
"Trước đây cháu đã mặc sa phục rồi à?" ông hỏi.
"Đây là lần đầu tiên."
"Vậy có ai đó đã giúp cháu điều chỉnh nó?"
"Không ạ."
"Đôi bốt sa mạc của cháu được cài theo lối xỏ chân ở mắt cá. Ai dạy cháu làm như thế?"
"Đó là... có vẻ làm như thế là đúng."
"Chắc chắn là đúng rồi."
Và Kynes xoa má, nghĩ về câu truyền thuyết: "Cậu bé sẽ biết những phương pháp của ngươi như thể cậu ta sinh ra là đã biết chúng rồi."
"Chúng ta thật lãng phí thời gian," Công tước nói. Ông ra hiệu về phía chiếc tàu chim đang đợi, rồi ông dẫn đường, gật đầu đáp lễ với đội bảo vệ chào mình. Ông trèo lên tàu, thắt dây an toàn, kiểm tra các bộ điều khiển và thiết bị. Chiếc tàu kêu cót két khi những người khác trèo lên.
Kynes thắt dây an toàn, tập trung vào sự thoải mái tiện nghi của chiếc tàu bay - sự xa hoa êm ái của đệm bọc màu xanh xám, những thiết bị bóng loáng, cảm nhận về không khí trong phổi được lọc và làm sạch khi cửa đóng lại và quạt thông khí quay vù vù sinh động.
Thật êm ái! ông nghĩ.
"Tất cả đã sẵn sàng, thưa Chúa công," Halleck nói.
Leto nạp điện cho các cánh, cảm thấy chúng khum lại và đập xuống - một lần, hai lần. Họ được đưa lên độ cao mười mét, bộ cánh hơi dang thẳng ra, và động cơ rít lên đẩy họ lao vút lên trời gần như theo đường thẳng đứng.
"Về hướng Đông Nam bên trên Tường Chắn," Kynes nói. "Đó là nơi tôi đã bảo sa chủ của ông tập trung thiết bị."
"Được rồi."
Công tước chao nghiêng lao vào giữa nhóm tàu yểm trợ. Các tàu kia di chuyển vào vị trí bảo vệ trong khi bay về phía Đông Nam.
"Việc thiết kế và sản xuất những bộ sa phục này cho ta thấy một sự tinh vi cao độ," Công tước nói.
"Một ngày nào đó tôi có thể chỉ cho ngài xem một xưởng sản xuất của sietch," Kynes nói.
"Ta sẽ thấy rất thú vị," Công tước nói. "Ta nhận thấy những bộ sa phục đó cũng được sản xuất trong một vài thành phố đồn trú."
"Hàng nhái chất lượng thấp mà thôi," Kynes nói. "Bất cứ người Xứ Cát nào coi trọng làn da đều mặc quần áo do người Fremen sản xuất."
"Và loại quần áo này giúp người ta chỉ lãng phí nước ở mức một hớp một ngày?"
"Hoàn toàn thích hợp, trán ngài được bịt chặt, mọi bộ phận đều được niêm kín một cách hợp lệ, lượng nước thất thoát chủ yếu là qua lòng bàn tay ngài," Kynes nói. "Ngài có thể đeo găng tay đồng bộ nếu không sử dụng đôi tay vào những việc quan trọng, nhưng hầu hết người Fremen ngoài sa mạc đều chà xát tay bằng chất dịch tiết ra từ lá loài cây bụi creosote. Nó ngăn sự đổ mồ hôi."
Công tước liếc mắt sang bên trái nhìn khung cảnh gập ghềnh của Tường Chắn - những kẽ nứt sâu của đá bị làm biến dạng, những mảng màu nâu vàng bị cắt ngang bởi các đường đen của đứt đoạn địa chất. Trông như thể có người nào đó thả mảnh đất này rơi từ trên không trung xuống và để mặc nó vỡ tan ở đó.
Họ bay qua một vùng trũng nông, nhìn thấy rõ một đường cát xám từ hẻm núi hướng ra phía Nam kéo tới, vắt ngang lòng chảo. Cát kéo thành từng vệt giống như ngón tay đan vào khu đất trũng - một vùng châu thổ khô cằn in rõ lên khối đá màu sẫm.
Kynes ngồi dịch về phía sau, nghĩ về cái thân hình chứa đầy nước mà ông đã cảm thấy bên dưới sa phục. Bọn họ mang thắt lưng đeo tấm chắn trên áo choàng, súng bắn phi tiêu giắt ở thắt lưng, bộ thu phát tín hiệu khẩn cấp to cỡ đồng xu trên dây gai nhỏ vòng quanh cổ. Hai cha con Công tước đều mang dao đút trong vỏ giấu nơi cổ tay, vỏ dao có vẻ mòn nhiều. Những người này gây cho Kynes ấn tượng về một sự kết hợp kỳ lạ giữa sức mạnh vũ trang và sự mềm dẻo. Họ có một tư thế đĩnh đạc, khác hẳn bọn Harkonnen.
"Khi báo cáo với Hoàng đế về sự thay đổi chính quyền ở đây, ông sẽ nói rằng bọn ta đã tuân theo các tục lệ chứ?" Leto hỏi. Ông liếc nhìn Kynes, rồi quay trở lại lộ trình trước mặt.
"Nhà Harkonnen ra đi; ngài đến," Kynes nói.
"Và mọi thứ diễn ra đúng cách chứ?" Leto hỏi.
Một thoáng căng thẳng ngắn ngủi hiện lên trong nét căng cơ dọc quai hàm Kynes. "Là nhà hành tinh học và Phán quan Phụ trách Thay đổi, tôi là một thần dân ngay thẳng của Đế quốc... thưa Chúa công."
Công tước mỉm cười cứng rắn. "Nhưng cả hai chúng ta đều hiểu rõ thực tại."
"Tôi xin nhắc nhở ngài rằng Hoàng đế ủng hộ công việc của tôi."
"Thực thế sao? Thế công việc của ông là gì vậy?"
Trong sự im lặng ngắn ngủi, Paul nghĩ: Cha đang ép Kynes quá đáng. Paul liếc Halleck, nhưng người chiến binh hát rong đang nhìn chằm chằm quang cảnh cằn cỗi bên ngoài.
Kynes nói kiên quyết: "Tất nhiên ngài ám chỉ công việc của tôi với tư cách nhà hành tinh học."
"Đúng thế."
"Chủ yếu là nghiên cứu động thực vật ở vùng khô hạn... vài công việc địa chất - khoan và nghiên cứu lõi hành tinh. Ngài không bao giờ có thể thực sự hiểu thấu các khả năng của cả một hành tinh."
"Ông cũng nghiên cứu tỉ mỉ về hương dược?"
Kynes quay lại, và Paul để ý thấy nét dứt khoát hiện trên má ông.
"Một câu hỏi tò mò, thưa Chúa công."
"Này Kynes, hãy nhớ rằng nơi này giờ đây là thái ấp của ta. Những phương thức của ta khác với của bọn Harkonnen. Ta không quan tâm liệu ông có nghiên cứu hương dược hay không, miễn là ta được chia sẻ những gì ông khám phá." Ông liếc sang nhà hành tinh học. "Bọn Harkonnen không khuyến khích việc nghiên cứu về hương dược, phải không?"
Kynes nhìn lại ông, không nói gì.
"Ông có thể trả lời thẳng thắn mà không cần lo sợ cho làn da của ông," Công tước nói.
"Triều đình quả thật cách xa rồi," Kynes lẩm bẩm. Và ông nghĩ: Cái kẻ xâm lược ứ đầy nước này trông đợi điều gì? Hắn nghĩ ta ngu ngốc đến mức đứng vào hàng ngũ của hắn chắc?
Công tước cười tủm tỉm, chú ý vào lộ trình. "Ta nhận ra âm điệu gay gắt trong giọng nói của ông, thưa ông. Bọn ta lặn lội đến đây cùng một lũ những tên sát thủ thuần phục, đúng không nào? Và bọn ta mong đợi ông nhận ra ngay là bọn ta khác xa với bọn Harkonnen hay sao?"
"Tôi đã thấy lời tuyên truyền mà ngài cho tràn ngập các sietch và thị trấn," Kynes nói. "'Hãy yêu quý Ngài Công tước tài giỏi tử tế!' Quân đoàn của ngài..."
"Có ngay đây!" Halleck quát. Ông lập tức thôi nhìn ra ngoài cửa sổ, chồm về phía trước.
Paul đặt tay lên vai Halleck.
"Gurney!" Công tước nói. Ông liếc về phía sau. "Người này đã sống một thời gian dài dưới chế độ Harkonnen."
Halleck ngồi lùi lại. "Vú em."
"Vị Hawat của ngài thật tế nhị," Kynes nói, "nhưng mục đích của anh ta cũng khá rõ ràng."
"Vậy thì ông sẽ mở những căn cứ đó ra cho bọn ta chứ?" Công tước hỏi.
Kynes sẵng giọng: "Chúng thuộc quyền sở hữu của Hoàng đế."
"Nhưng chúng không được sử dụng."
"Chúng có thể được sử dụng."
"Hoàng đế có đồng tình không?"
Kynes ném cái nhìn trừng trừng nghiêm khắc vào Công tước. "Arrakis có thể là vườn Địa đàng nếu kẻ cai trị biết quan tâm đến những việc khác chứ không chỉ lui cui đào bới tìm hương dược!"
Ông ta không trả lời câu hỏi của ta, Công tước nghĩ. Rồi ông nói: "Cái hành tinh này trở thành Địa đàng bằng cách nào nếu thiếu tiền đây?"
"Tiền là cái gì," Kynes hỏi, "nếu nó không mua được những sự giúp đỡ mà ngài cần?"
Chà chà, thế đấy! Công tước nghĩ. Rồi ông nói: "Chúng ta sẽ tranh luận vấn đề này vào dịp khác. Ngay lúc này thì ta nghĩ chúng ta sắp tới mép Tường Chắn rồi. Ta sẽ tiếp tục đi theo hướng này chứ?"
"Vẫn hướng này," Kynes thì thầm.
Paul nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên dưới họ, khu đất nhấp nhô bắt đầu dựng đứng lên thành những nếp gấp lộn xộn kéo về phía một bình nguyên đá khô cằn và một thềm đá hình lưỡi dao. Qua khỏi thềm đá, những nếp gấp hình móng tay của các đụn cát diễu hành về phía chân trời, đây đó ở đằng xa có một vết mờ xỉn, một vết sẫm hơn cho biết đó là một cái gì đó không phải cát. Có thể là đá lộ thiên. Trong bầu không khí nóng đến mụ mị cả đầu óc này, Paul không thể biết chắc được.
"Dưới đó có loài thực vật nào không?" Paul hỏi.
"Một vài," Kynes nói. "Sinh đới của vùng này phần lớn là những thứ mà chúng tôi gọi là bọn ăn cắp nước bé nhỏ - được thích nghi để đột kích nhau giành độ ẩm, nuốt lấy nuốt để một chút sương còn sót lại. Vài khu vực của sa mạc tràn ngập sự sống. Nhưng tất cả bọn chúng đã học được cách sống còn dưới những điều kiện khắc nghiệt như thế. Nếu cậu bị mắc kẹt ở dưới đấy, cậu sẽ phải sống theo cách đó nếu không cậu sẽ chết."
"Ông định nói là phải ăn cắp nước của nhau?" Paul hỏi. Lối nghĩ ấy đã xúc phạm cậu, giọng nói của cậu lộ rõ cảm xúc đó.
"Phải thế thôi," Kynes nói, "nhưng đó không hẳn là ý tôi muốn nói. Mọi người thấy đấy, khí hậu của tôi đòi hỏi người ta phải có thái độ đặc biệt đối với nước. Người ta có ý thức về nước mọi nơi mọi lúc. Người ta không lãng phí bất cứ thứ gì chứa hơi ẩm."
Và Công tước nghĩ: "... khí hậu của tôi!"
"Vòng về hướng Nam lệch thêm hai độ nữa, thưa Chúa công," Kynes nói. "Có một ngọn gió thổi từ hướng Tây đến."
Công tước gật đầu. Ông đã nhìn thấy bụi nâu cuồn cuộn ở đằng kia. Ông chao một vòng, để ý thấy cánh của các tàu hộ tống phản chiếu màu cam sữa từ ánh sáng khúc xạ của bụi khi họ quay đầu để theo kịp ông.
"Lái như thế sẽ tránh được rìa bão," Kynes nói.
"Đám cát đó hẳn là rất nguy hiểm nếu ta bay vào trong," Paul nói. "Nó cắt được những kim loại bền nhất thật sao?"
"Ở độ cao này thì không phải cát mà là bụi," Kynes nói. "Hiểm họa ở đây là mất tầm nhìn, nhiễu loạn, đường hút khí bị tắc."
"Hôm nay chúng ta sẽ nhìn thấy mỏ hương dược thực sự à?" Paul hỏi.
"Rất có khả năng," Kynes nói.
Paul ngồi lùi lại. Cậu đã sử dụng những câu hỏi và siêu ý thức để làm điều mẹ cậu gọi là "vào sổ" con người này. Giờ thì cậu đã có Kynes - âm điệu của giọng nói, từng chi tiết của nét mặt và điệu bộ. Một nếp gấp không tự nhiên của ống tay áo choàng bên trái tiết lộ rằng ông ta có một con dao nằm trong vỏ giấu ở cánh tay. Chỗ thắt lưng phồng ra lạ thường. Người ta nói dân sa mạc thường đeo một mảnh vải dài làm thắt lưng và nhét vào đó những món đồ nhỏ cần thiết. Có lẽ những chỗ cộm lên kia là do một dây thắt lưng như thế - chắc chắn không phải do giấu thắt lưng đeo tấm chắn. Một chiếc ghim đồng chạm trổ hình giống như con thỏ rừng cài trên cổ áo choàng của Kynes. Một chiếc ghim khác nhỏ hơn có hình tương tự cài nơi góc chiếc mũ trùm đầu được lật ra đằng sau, rũ xuống hai vai.
Halleck vặn vẹo người trên ghế bên cạnh Paul, vươn người ra phía sau để lấy chiếc đàn baliset ra khỏi ngăn sau. Kynes nhìn quanh khi Halleck lên dây đàn, rồi lại hướng sự chú ý vào lộ trình bay.
"Cậu muốn nghe gì, cậu chủ?" Halleck hỏi.
"Tùy thầy chọn, Gurney," Paul nói.
Halleck ghé tai xuống sát miếng gỗ tăng âm, vừa gảy đàn vừa khẽ hát:
"Cha ông chúng con uống dịch tần bì trong sa mạc,
Ở những nơi thiêu đốt có cơn lốc thổi.
Ôi Chúa công, xin hãy bảo vệ chúng con khỏi chốn khủng khiếp kia!
Bảo vệ chúng con... ôi ôi ôi, bảo vệ chúng con
Khỏi mảnh đất cháy khát cằn khô."
Kynes liếc Công tước, nói: "Ngài du hành với một đội hộ tống đầy đủ mà gọn nhẹ thật, thưa Chúa công. Tất cả họ đều nhiều tài đến thế sao?"
"Gurney hả?" Công tước tủm tỉm. "Gurney là người độc nhất vô nhị. Ta thích ông ấy đi cùng ta là do cặp mắt ông ấy. Đôi mắt ông ấy hiếm khi bỏ sót cái gì."
Nhà hành tinh học cau mày.
Không bỏ lỡ nhịp trong điệu hát, Halleck ngắt lời:
"Tôi như một con cú sa mạc, ô!
À á! tôi như một con cú sa ma...a...ạc!"
Công tước với tay xuống, nhặt chiếc micro từ bảng thiết bị, bật lên rồi nói: "Chỉ huy gọi Hộ tống Gemma. Vật thể đang bay hướng chín giờ, Khu B. Các anh có nhận dạng được không?"
"Chỉ là một con chim thôi," Kynes nói và thêm vào: "Mắt ngài tinh thật."
Loa phóng thanh kêu tanh tách, rồi sau đó: "Đội hộ tống Gemma. Vật thể được nghiên cứu dưới sự khuếch đại đầy đủ. Nó là một con chim lớn."
Paul nhìn theo hướng đã xác định, thấy một đốm nhỏ phía xa: một chấm nhỏ chuyển động liên tục, và nhận ra cha cậu hẳn căng thẳng đến thế nào. Mọi giác quan đều ở trạng thái cảnh giác cao độ.
"Ta không biết có những con chim lớn đến thế từ xa bay vào sa mạc," Công tước nói.
"Có khả năng đó là chim đại bàng," Kynes nói. "Rất nhiều sinh vật đã thích nghi với nơi này."
Chiếc tàu chim lướt bên trên vùng đá trơ trụi. Paul nhìn xuống từ độ cao hai ngàn mét, thấy cái bóng gấp nếp của chiếc tàu và đội hộ tống. Mặt đất bên dưới họ dường như bằng phẳng, song những nếp gấp của cái bóng nói lên điều khác hẳn.
"Đã từng có ai đi ra khỏi sa mạc chưa?" Công tước hỏi.
Halleck ngừng chơi nhạc. Ông ngả người về phía trước để đón câu trả lời.
"Từ sâu trong sa mạc thì không," Kynes nói. "Đã vài lần có người đi ra từ vùng thứ hai. Họ sống sót nhờ vượt những vùng núi đá mà sâu cát ít khi lui tới."
Âm sắc trong giọng nói của Kynes làm Paul chú ý. Cậu cảm thấy giác quan của mình trở nên cảnh giác theo đúng cách chúng đã được huấn luyện.
"À, sâu cát," Công tước nói. "Một lúc nào đó chắc ta sẽ nhìn thấy một con."
"Hôm nay ông có thể nhìn thấy," Kynes nói. "Ở đâu có hương dược, ở đó có sâu cát."
"Luôn luôn sao?" Halleck hỏi.
"Luôn luôn."
"Có mối quan hệ giữa hương dược và sâu cát à?" Công tước hỏi.
Kynes quay lại, và Paul nhìn thấy môi ông ta mím lại khi nói. "Bọn chúng bảo vệ những vùng cát có hương dược. Mỗi con sâu cát có một... lãnh thổ. Vì với hương dược... ai biết được? Những mẫu sâu cát mà chúng tôi đã nghiên cứu khiến chúng tôi ngờ rằng có những sự trao đổi hóa học phức tạp bên trong chúng. Chúng tôi tìm thấy dấu vết của axit clohyđric trong các ống dẫn của chúng, nhiều dạng axit phức tạp hơn ở những chỗ khác. Tôi sẽ đưa cho các vị xem công trình nghiên cứu của tôi về vấn đề này."
"Không dùng tấm chắn để bảo vệ được sao?" Công tước hỏi.
"Tấm chắn á!" Kynes cười nhếch mép. "Kích hoạt tấm chắn trong vùng sâu cát là ngài bít luôn đường sống của mình đó. Bọn sâu cát phớt lờ những tuyến phòng ngự, chúng đi vòng quanh từ xa để tấn công tấm chắn. Không người nào đeo tấm chắn mà sống sót được trước sự tấn công như thế."
"Người ta bắt sâu cát bằng cách nào?"
"Cú giật điện áp cao chém đứt từng khúc tròn là cách giết và bảo quản sâu cát duy nhất mà người ta biết," Kynes nói. "Chất nổ có thể khiến chúng choáng váng và cắt chúng đứt ra, nhưng mỗi khúc tròn lại có cuộc sống riêng. Trừ vũ khí nguyên tử ra, tôi biết không một chất nổ nào đủ mạnh để phá hủy hoàn toàn một con sâu cát lớn. Chúng sống dai một cách đáng kinh ngạc."
"Tại sao không thử tiêu diệt chúng hoàn toàn?" Paul hỏi.
"Quá đắt," Kynes nói. "Có quá nhiều khu vực nên không kham nổi."
Paul ngả người vào trong góc. Năng lực khám phá sự thật của cậu, ý thức về sắc thái giọng nói, cho cậu biết Kynes đang nói dối và chỉ chia sẻ một nửa sự thật. Cậu nghĩ: Nếu có mối quan hệ giữa hương dược và sâu cát, thì đó là giết sâu cát sẽ phá hủy luôn hương dược.
"Sẽ không ai phải rời sa mạc sớm," Công tước nói. "Hãy cài bộ thu phát nhỏ này vào cổ, nhờ vậy nếu ai gặp sự cố thì sẽ có người đến cứu. Tất cả thợ của chúng ta sẽ được đeo chúng ngay bây giờ. Chúng ta đang cài đặt một dịch vụ giải cứu đặc biệt."
"Rất đáng khen," Kynes nói.
"Giọng của ông cho thấy ông không đồng tình," Công tước nói.
"Đồng tình? Tất nhiên là tôi đồng tình, nhưng thiết bị đó không có ích lắm đâu. Tĩnh điện từ những cơn bão cát che chắn rất nhiều tín hiệu. Bộ thu phát sẽ bị chập mạch. Ngài biết là trước đây người ta cũng đã thử dùng ở đây rồi. Điều kiện ở Arrakis rất khắc nghiệt đối với thiết bị. Và nếu một con sâu cát săn đuổi ngài thì sẽ không có nhiều thời gian đâu. Thông thường, ngài có không quá mười lăm hoặc hai mươi phút."
"Ông muốn khuyên ta điều gì?" Công tước hỏi.
"Ngài hỏi lời khuyên của tôi là gì à?"
"Đúng vậy, với tư cách nhà hành tinh học."
"Ngài sẽ làm theo lời khuyên của tôi chứ?"
"Nếu ta thấy hợp lý."
"Rất tốt, thưa Chúa công. Đừng bao giờ đi một mình."
Công tước chuyển sự chú ý ra khỏi bộ điều khiển. "Chỉ thế thôi sao?"
"Chỉ thế thôi. Đừng bao giờ đi một mình."
"Điều gì sẽ xảy ra nếu người ta bị tách khỏi đội vì bão và lực ép?" Halleck hỏi. "Không thể làm bất cứ điều gì sao?"
"Bất cứ điều gì cũng sẽ choán quá nhiều không gian," Kynes nói.
"Nếu là ông thì ông sẽ làm gì?" Paul hỏi.
Kynes quay người nhìn chằm chằm vào cậu bé một cách nghiêm khắc, rồi lại chuyển sự chú ý về phía Công tước. "Tôi sẽ chú ý giữ gìn bộ sa phục nguyên vẹn. Nếu đang ở bên ngoài vùng sâu cát hoặc trong vùng đá, tôi sẽ ở lại tàu. Nếu đã bước xuống một vùng cát trống trải, tôi sẽ chạy ra xa tàu càng nhanh càng tốt. Cỡ một nghìn mét là khá ổn. Sau đó tôi sẽ trốn trong áo choàng. Sâu cát sẽ ăn chiếc tàu, song nó có thể bỏ quên tôi."
"Sau đó thì sao?" Halleck hỏi.
Kynes nhún vai. "Chờ đến khi sâu cát đi khỏi."
"Chỉ thế thôi sao?" Paul hỏi.
"Khi sâu cát đã rời đi, người ta có thể ra khỏi chỗ trốn," Kynes nói. "Các vị phải đi thật khẽ, tránh cát trống, trũng cát có sa triều - đi về phía vùng đá gần nhất. Có rất nhiều vùng như thế. Làm thế các vị sẽ thoát."
"Cát trống?" Halleck hỏi.
"Là cát ở thể kết chặt lại," Kynes nói. "Ngay cả bước chân nhẹ nhất cũng khiến nó phát ra tiếng động như tiếng trống. Bọn sâu cát luôn di chuyển đến nơi đó."
"Thế còn trũng cát có sa triều?" Công tước hỏi.
"Một số chỗ lún trong sa mạc bị bụi tràn vào trong suốt nhiều thế kỷ. Có vài chỗ lún lớn đến nỗi chúng phân thành nhiều dòng và nhiều ngọn triều. Ai không thận trọng mà bước vào đấy là sẽ bị nuốt chửng."
Halleck ngồi lùi về phía sau, lại tiếp tục gảy đàn. Ngay sau đó, ông hát:
"Thú hoang sa mạc rình sẵn đó,
Đợi những người vô tội đi qua.
À...í...a, đừng có nhử những vị thần sa mạc,
Vì e bạn tìm một mộ bia cô độc
Những hiểm nguy của..."
Ông chợt ngừng hát, chúi người ra phía trước. "Phía trước có mây bụi, thưa Chúa công."
"Ta thấy rồi, Gurney."
"Đó là cái chúng ta tìm kiếm," Kynes nói.
Paul ngồi thẳng người lên quan sát hướng trước mặt, cậu nhìn thấy một đám mây vàng dâng lên cuồn cuộn ở dưới thấp trên bề mặt sa mạc, cách tàu hơn ba mươi ki lô mét về phía trước.
"Một trong các con bọ khai thác của ngài," Kynes nói. "Nó nằm trên bề mặt kia, thế có nghĩa là trên hương dược. Đám mây là cát thải cuộn lên khi hương dược đã được lấy ra bằng lực ly tâm. Không có đám mây nào khác giống nó."
"Phía trên nó có tàu lượn," Công tước nói.
"Tôi thấy hai... ba... bốn tàu cảnh vệ," Kynes nói. "Họ đang chờ vết sâu cát."
"Vết sâu cát?" Công tước hỏi.
"Một gợn cát di chuyển về phía con bọ khai thác. Họ cũng sẽ đặt những máy dò địa chấn trong khu vực đó. Lũ sâu cát thỉnh thoảng lại trườn quá sâu làm nổi lên gợn cát." Kynes liếc ngang liếc dọc khắp bầu trời. "Lẽ ra phải có một chiếc tàu thồ bay vòng quanh, nhưng tôi không nhìn thấy."
"Bọn sâu cát luôn luôn xuất hiện chứ?" Halleck hỏi.
"Luôn luôn."
Paul chúi người ra phía trước, chạm vào vai Kynes. "Mỗi con sâu cát chiếm cứ một vùng đất rộng cỡ nào?"
Kynes cau mày. Cậu bé đặt những câu hỏi như người trưởng thành.
"Tùy kích thước của từng con sâu cát."
"Dao động trong khoảng nào?" Công tước hỏi.
"Những con lớn có thể kiểm soát một vùng rộng cỡ ba, bốn trăm ki lô mét vuông. Những con nhỏ..." Ông bỏ lửng câu nói khi Công tước nhấn phanh tàu. Con tàu giật nảy lên khi bộ phận đuôi của nó kêu xì xì rồi im lặng. Những mẩu cánh cụt vươn dài ra, khum thành hình chén trong không khí. Máy bay trở thành một tàu chim hoàn chỉnh khi Công tước lái nó chao nghiêng, vừa giữ cho bộ cánh vỗ nhẹ nhàng vừa chỉ tay trái về hướng Đông cách xa bọ khai thác hương dược.
"Kia có phải vết sâu cát không?"
Kynes nghiêng người sang chỗ Công tước nhìn vào điểm đó.
Paul và Halleck xúm lại, nhìn về cùng một hướng, và Paul để ý thấy đội hộ tống do động tác đột ngột của tàu chỉ huy nên đã vọt lên phía trước, nhưng bây giờ họ đang quành trở lại. Bọ khai thác hương dược nằm phía trước họ, cách vài ba ki lô mét.
Ở chỗ Công tước chỉ, các cồn cát hình lưỡi liềm lan tỏa những gợn sóng tối thẫm về phía chân trời, một cái gò di động kéo dài - một sóng cát dồi lên có đỉnh - như đường thẳng cắt ngang qua chúng, trải dài về phía xa. Nó gợi Paul nhớ đến đường đi của một con cá lớn làm nước xáo động khi bơi ngay dưới mặt nước.
"Sâu cát," Kynes nói. "Một con lớn." Ông ngả người ra sau, chộp lấy chiếc micro trên bảng điều khiển, chọn một tần số mới. Liếc về phía bản đồ hệ thống đường dây trên những con lăn bên trên đầu họ, ông nói vào micro: "Gọi con bọ ở Delta Ajax chín. Cảnh báo vết sâu cát. Con bọ ở Delta Ajax chín. Cảnh báo vết sâu cát. Xin đáp lại." Ông chờ đợi.
Loa trên bảng điều khiển phát ra những tiếng lách cách do nhiễu khí quyển, sau đó có một giọng nói: "Ai gọi Delta Ajax chín? Hết."
"Họ có vẻ khá bình tĩnh," Halleck nói.
Kynes nói vào micro: "Phi đội ngoài danh sách - cách phía Bắc và phía Đông của các anh khoảng ba ki lô mét. Vết sâu cát đang tiến về phía vị trí các anh, theo ước lượng sẽ tiếp xúc với nó trong khoảng hai mươi lăm phút nữa."
Một giọng nói trầm sâu phát ra từ loa: "Đây là Chỉ huy Tàu cảnh vệ. Xác nhận đã trông thấy. Sẵn sàng cho tình thế khó khăn khi đụng độ." Ngừng một lát, rồi lại tiếp: "Đụng độ trong khoảng hai mươi trừ sáu phút nữa. Đó là ước lượng rất sát. Ai ở trên phi đội ngoài danh sách đó? Hết."
Halleck tắt thiết bị rồi lao vào giữa Kynes và Công tước. "Đây có phải tần số hoạt động hợp thức không, Kynes?"
"Đúng. Có chuyện gì à?"
"Ai đang nghe chúng ta nói?"
"Chỉ có nhóm thợ trong vùng này. Giảm độ nhiễu xuống đi."
Loa lại kêu lách cách, rồi: "Đây là Delta Ajax chín. Ai sẽ nhận được tiền thưởng vì phát hiện ra cái vết đó? Hết."
Halleck liếc Công tước.
Kynes nói: "Căn cứ vào khối lượng hương dược, có một khoản tiền thưởng dành cho bất cứ người nào đưa ra cảnh báo đầu tiên về sâu cát. Họ muốn biết..."
"Nói cho họ biết ai là người đầu tiên phát hiện dấu vết của con sâu cát này," Halleck nói.
Công tước gật đầu.
Kynes ngập ngừng, rồi cầm micro lên: "Tàu cảnh vệ xác nhận là Công tước Leto Atreides. Công tước Leto Atreides. Hết."
Giọng nói phát ra từ loa đều đều và hơi méo vì đột ngột xuất hiện nhiễu khí quyển: "Chúng tôi biết và cám ơn."
"Giờ thì hãy bảo họ chia nhau số tiền thưởng đó," Halleck ra lệnh. "Bảo họ Công tước muốn thế."
Kynes hít một hơi sâu rồi nói: "Công tước muốn các anh chia tiền thưởng cho mọi người trong nhóm. Các anh nghe thấy không? Hết."
"Chúng tôi xác nhận và xin cám ơn," giọng trong loa phát ra.
Công tước nói: "Ta quên chưa nói là Gurney rất có năng khiếu trong những mối quan hệ công chúng."
Kynes hướng cái cau mày khó hiểu về phía Halleck.
"Việc này tỏ rõ cho nhóm người đó biết rằng Công tước quan tâm đến sự an toàn của họ," Halleck nói. "Tin tức sẽ lan truyền. Nó có mặt trên dải tần số hoạt động - bọn gián điệp Harkonnen không có khả năng nghe được." Ông nhìn lướt qua đội yểm trợ bên ngoài. "Chúng ta là một đội khá mạnh. Một sự mạo hiểm tốt."
Công tước chao nghiêng tàu, hướng về phía đám mây cát đang phun lên từ chỗ con bọ khai thác. "Bây giờ điều gì sẽ xảy ra?"
"Có một chiếc tàu thồ đâu đó gần đây," Kynes nói. "Nó sẽ đến cẩu con bọ đi."
"Nếu tàu thồ bị hỏng thì sao?" Halleck hỏi.
"Sẽ mất vài thiết bị," Kynes nói. "Hãy bay sát bên trên con bọ, thưa Chúa công; ngài sẽ thấy chuyện này thú vị đấy."
Công tước quắc mắt, bận rộn với những bộ điều khiển khi họ bay vào bầu khí quyển hỗn loạn bên trên con bọ.
Paul nhìn xuống, thấy cát vẫn phun ra từ con vật khổng lồ làm bằng chất dẻo và kim loại ở bên dưới họ. Trông nó giống như một con bọ cánh cứng lớn màu xanh và nâu vàng có nhiều băng chuyền trên những cánh tay tỏa ra khắp xung quanh. Cậu nhìn thấy một cái đầu vòi khổng lồ hình phễu lộn ngược thọc vào trong bãi cát sẫm màu phía trước nó.
"Xét theo màu sắc thì lớp đất này có hàm lượng hương dược cao," Kynes nói. "Họ sẽ tiếp tục làm việc đến phút cuối."
Công tước nạp thêm năng lượng cho các cánh, làm chúng cứng hơn để hạ tàu chếch xuống và lượn tròn thâm thấp bên trên con bọ. Một cái liếc mắt về phía trái và phía phải cho thấy đội yểm trợ vẫn giữ vững độ cao và đang lượn tròn trên đầu.
Paul quan sát đám mây vàng phun ra từ những miệng vòi con bọ, nhìn ngang qua sa mạc về phía vết sâu cát đang tới gần.
"Chúng ta không nghe thấy họ gọi tàu thồ sao?" Halleck hỏi.
"Họ thường bay trên một tần số khác," Kynes nói.
"Chúng ta không có hai tàu thồ trực chiến cho mỗi con bọ sao?" Công tước hỏi. "Có hai mươi sáu người trên cái máy dưới kia, chưa nói đến giá trị của thiết bị."
Kynes nói: "Người ta không có đủ..."
Ông bỏ lửng câu nói khi chiếc loa phát ra giọng giận dữ: "Có ai thấy chiếc tàu thồ không? Nó không trả lời."
Chiếc loa phát ra tiếng lách cách do méo tạp âm, bị một tín hiệu đột ngột át đi, sau đó thì im lặng, rồi giọng nói đầu tiên cất lên: "Lần lượt báo cáo! Hết."
"Đây là Chỉ huy Tàu cảnh vệ. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy thì chiếc tàu thồ ở khá cao, đang vòng về phía Tây Bắc. Giờ thì tôi không thấy. Hết."
"Tàu cảnh vệ một: không thấy. Hết."
"Tàu cảnh vệ hai: không thấy. Hết."
"Tàu cảnh vệ ba: không thấy. Hết."
Im lặng.
Công tước nhìn xuống. Bóng con tàu của ông đang vượt qua con bọ. "Chỉ có bốn Tàu cảnh vệ, đúng không?"
"Chính xác," Kynes nói.
"Toán chúng ta có năm tàu," Công tước nói. "Tàu của chúng ta lớn hơn. Ta có thể chứa thêm mỗi tàu ba người. Mấy tàu cảnh vệ của họ thì phải chở thêm được mỗi chiếc hai người."
Paul nhẩm tính rồi nói: "Còn sót ba người."
"Tại sao họ không có hai tàu thồ cho mỗi con bọ hả?" Công tước quát ầm lên.
"Người ta không có đủ thiết bị bổ sung," Kynes nói.
"Lại càng thêm lý do để ta nên bảo vệ những gì ta đang có!"
"Cái tàu thồ đó đi đâu mới được chứ?" Halleck hỏi.
"Có lẽ nó buộc phải hạ cánh xuống nơi nào đó ngoài tầm nhìn," Kynes nói.
Công tước chộp lấy micro, ngón tay cái ngập ngừng trên công tắc. "Làm sao họ để lạc mất con tàu đó được chứ?"
"Họ mải chú ý vào mặt đất để tìm vết sâu cát," Kynes nói.
Công tước bật công tắc, nói vào micro: "Công tước đây. Chúng tôi đang bay xuống để đưa nhóm Delta Ajax chín đi. Yêu cầu tất cả Tàu cảnh vệ tuân theo. Đội Tàu cảnh vệ hạ cánh xuống mặt phía Đông. Chúng tôi sẽ phụ trách phía Tây. Hết." Ông với tay xuống dưới, ấn tần số chỉ huy riêng của ông, nhắc lại mệnh lệnh cho đội tàu yểm trợ, rồi đưa micro lại cho Kynes.
Kynes trở lại tần số hoạt động và một giọng nói như nổ tung ra từ chiếc loa: "... gần đầy hương dược rồi! Chúng tôi lấy gần đầy hương dược rồi! Chúng tôi không thể rời chỗ đó vì con sâu cát khốn khiếp! Hết."
"Hương dược khốn khiếp!" Công tước quát lên. Ông lại chộp lấy micro nói: "Hương dược thì bao giờ chúng ta cũng có thể lấy thêm. Đội tàu của chúng tôi chứa được tất cả các anh trừ ba người. Hãy bốc thăm hoặc quyết định kiểu gì cũng được, để xem ai sẽ đi. Nhưng các anh phải đi, đó là lệnh!" Ông dập mạnh micro vào tay Kynes, lầm bầm: "Xin lỗi," khi Kynes lắc lắc một ngón tay bị đau.
"Còn bao nhiêu thời gian?" Paul hỏi.
"Chín phút," Kynes đáp.
Công tước nói: "Tàu này mạnh hơn các tàu khác. Nếu chúng ta cất cánh bằng phản lực với độ mở ba phần tư các cánh thì có thể nhét thêm một người nữa."
"Cát ấy mềm lắm," Kynes nói.
"Nếu thêm bốn người trên tàu mà cất cánh bằng phản lực thì e làm gãy cánh mất, thưa Chúa công," Halleck nói.
"Tàu này thì không," Công tước nói. Ông quay trở lại bảng điều khiển khi chiếc tàu lượn ngay sát con bọ. Những chiếc cánh cụp xuống khiến tàu khựng lại, vụng về trượt ngang cách cỗ máy không quá hai mươi mét.
Con bọ giờ đã im bặt, cát không còn phụt ra từ các vòi phun. Chỉ có một tiếng ùng ục cơ khí khe khẽ phát ra từ nó, càng nghe rõ hơn khi Công tước mở cửa tàu ra.
Ngay lập tức, mùi quế - nồng nặc, cay xè - xộc vào mũi họ.
Với tiếng vỗ cánh ầm ĩ, các tàu cảnh vệ lượn xuống mặt cát phía bên kia con bọ. Đội yểm trợ của Công tước thì sà xuống đỗ thành hàng cùng tàu của ông.
Paul nhìn xưởng khai thác bên ngoài, nhận thấy khi đứng bên cạnh nó tất cả các tàu chim đều hóa ra nhỏ bé biết bao - những con muỗi mắt bên cạnh một con bọ chiến binh.
"Gurney, ông và Paul ném cái ghế sau kia ra ngoài đi," Công tước nói. Ông dùng tay quay cho các cánh tàu mở ra ba phần tư, định góc cho chúng, kiểm tra các bộ điều khiển phụ phản lực. "Họ làm cái quái gì mà không chịu ra khỏi cái máy đó chứ?"
"Họ hy vọng tàu thồ sẽ xuất hiện," Kynes nói. "Họ vẫn còn vài phút nữa." Ông liếc về phía Đông.
Tất cả mọi người đều quay nhìn về một hướng, không thấy vết sâu cát, nhưng bầu không khí trĩu nặng cảm giác lo lắng.
Công tước cầm micro, bấm tần số chỉ huy rồi nói: "Hai tàu ném máy phát tấm chắn bảo vệ ra. Theo thứ tự. Làm thế mỗi tàu sẽ chở thêm được một người. Chúng ta không thể để lại bất kỳ người nào cho con quái vật đó." Ông trở lại tần số hoạt động, quát lên: "Được rồi, nhóm Delta Ajax chín! Ra ngoài! Ngay bây giờ! Đây là lệnh của Công tước! Hai người một, nếu không ta sẽ dùng súng laze cắt con bọ đó ra thành từng khúc đấy!"
Một cánh cửa sập kêu đánh tách rồi mở ra gần mặt trước con bọ, một cánh nữa đằng sau, một cánh nữa trên đỉnh. Đám người nhào ra, trượt rồi bò xuống mặt cát. Ra cuối cùng là một người cao lớn mặc chiếc áo choàng lao động vá víu. Anh ta nhảy xuống băng chuyền rồi xuống cát.
Công tước treo micro lên bảng điều khiển, lao ra ngoài bậu cánh hét to: "Mỗi tàu hai người."
Người mặc áo choàng vá víu liền tách người trong đội mình thành từng cặp hai người, đẩy họ về phía các tàu đang đợi ở phía bên kia.
"Bốn người lên đây!" Công tước hét lên. "Bốn người lên tàu đằng sau!" Ông chỉ tay vào một tàu hộ tống ngay phía sau ông. Các vệ sĩ vừa vần chiếc máy phát tấm chắn ra khỏi tàu. "Bốn người nữa lên tàu đằng kia!" Ông chỉ vào một chiếc tàu hộ tống khác đã ném máy phát đi. "Những tàu khác mỗi chiếc ba người! Chạy nhanh lên, cái đám thợ cát này!"
Người đàn ông cao lớn đếm xong số người trong đội mình, liền đi băng qua cát, theo sau là ba người nữa.
"Tôi nghe thấy tiếng sâu cát, nhưng không nhìn thấy nó," Kynes nói.
Khi đó những người khác cũng nghe thấy - tiếng trượt cọ vào cát, từ xa vọng lại và mỗi lúc một to hơn.
"Làm ăn kiểu gì mà lôm côm quá thể," Công tước làu bàu.
Đội tàu bắt đầu vỗ cánh rời khỏi mặt cát. Nó gợi Công tước nhớ về cái lần trong khu rừng nhiệt đới ở hành tinh quê hương ông, cái gì đó thình lình xuất hiện trong một khoảng rừng trống, và lũ chim ăn thịt thối bay vù lên từ xác một con bò rừng.
Những người thợ khai thác hương dược trèo lên hông tàu, bắt đầu bò vào phía sau Công tước. Halleck giúp kéo họ vào ghế sau.
"Vào đây, các cậu bé!" ông cáu kỉnh. "Hai người một!"
Paul bị những người thợ đẫm mồ hôi dồn vào một góc, cậu ngửi thấy mồ hôi túa ra vì khiếp sợ, nhìn thấy hai người trong số họ chỉnh lại cổ áo bộ sa phục quá xộc xệch. Cậu ghi thông tin này vào bộ nhớ để dành cho hành động sau này. Cha cậu sẽ phải ra lệnh siết chặt kỷ luật về sa phục hơn. Những người này có khuynh hướng trở nên cẩu thả nếu ta không giám sát những việc như thế.
Người thợ cuối cùng hổn hển bước vào ghế sau, nói. "Sâu cát! Nó gần như xuất hiện cạnh chúng tôi rồi! Đồ trời đánh thánh vật!"
Công tước dịch vào trong ghế, cau mày nói: "Theo ước lượng ban đầu chúng ta vẫn còn gần ba phút nữa trước khi đụng độ. Đúng không, Kynes?" Ông đóng cửa chỗ mình lại, kiểm tra.
"Gần đúng, thưa Chúa công," Kynes nói, và ông nghĩ: Tay công tước này đúng là người điềm tĩnh.
"Tất cả đều an toàn, thưa Chúa công," Halleck nói.
Công tước gật đầu, nhìn chiếc tàu hộ tống cuối cùng cất cánh. Ông điều chỉnh bộ phận đánh lửa, nhìn lướt qua các cánh và thiết bị thêm một lần nữa, ấn chuỗi nút kích hoạt động cơ phản lực.
Con tàu cất cánh đẩy Công tước và Kynes lún sâu vào trong ghế, ép cả những người ngồi ghế sau. Kynes quan sát cung cách Công tước xử lý bộ điều khiển - nhẹ nhàng, chắc chắn. Bây giờ con tàu đã thực sự cất cánh, còn Công tước quan sát các thiết bị, đưa mắt nhìn các cánh ở phía trái và phía phải.
"Tàu nặng quá, thưa Chúa công," Halleck nói.
"Vẫn vừa sức chứa của con tàu này," Công tước nói. "Ông không thực sự nghĩ rằng ta dám mạo hiểm chở lượng hàng này, phải không Gurney?"
Halleck cười toét miệng nói: "Không hề dù chỉ một chút, thưa Ngài."
Công tước cho tàu chao nghiêng theo một đường vòng dài nhàn nhã, cất lên cao phía trên con bọ.
Paul chen vào một góc cạnh cửa sổ, nhìn chằm chằm xuống cỗ máy im lìm trên cát. Vết sâu cát đột ngột bị cắt ngang cách con bọ bốn trăm mét. Lúc này xung quanh con bọ hình như có sự nhiễu động trong cát.
"Bây giờ con sâu cát đang ở dưới con bọ," Kynes nói. "Mọi người sắp được chứng kiến một sự kiện ít ai được thấy."
Lúc này bụi đã che mờ lớp cát quanh con bọ. Cỗ máy to lớn bắt đầu nghiêng sang bên phải. Một xoáy cát khổng lồ bắt đầu định hình ở đó, bên phải con bọ. Nó di chuyển càng lúc càng nhanh hơn. Cát và bụi mù mịt trong không gian hàng trăm mét xung quanh.
Rồi họ nhìn thấy nó!
Một cái lỗ to xuất hiện trên cát. Ánh mặt trời lóe lên từ những cái răng giống như nan hoa màu trắng lấp lánh bên trong lỗ. Paul ước lượng đường kính của cái lỗ chí ít cũng gấp hai lần chiều dài con bọ. Cậu quan sát cỗ máy trượt vào cái lỗ đang mở hoác kia trong làn sóng cát bụi cuồn cuộn. Cái lỗ hút nó xuống.
"Chúa ơi, con quái vật kinh khủng quá!" người ngồi cạnh Paul thì thầm.
"Chén sạch hương dược của chúng ta!" người khác làu bàu.
"Ai đó sẽ phải trả giá cho chuyện này," Công tước nói. "Ta hứa như thế."
Dựa vào vẻ kiên quyết tột độ trong giọng nói của cha, Paul cảm thấy một sự tức giận sâu sắc. Cậu nhận ra mình cũng chia sẻ điều đó. Đây đúng là sự lãng phí vô đạo đức!
Trong sự im lặng nối theo đó, họ nghe Kynes nói.
"Chúa phù hộ cho Ngài Tạo và nước của Ngài," Kynes thì thầm. "Chúa phù hộ cho việc đến và đi của Ngài. Cầu cho chuyến đi của Ngài tẩy sạch thế giới này. Cầu cho Ngài gìn giữ thế giới này cho thần dân Ngài."
"Ông đang nói gì thế?" Công tước hỏi.
Nhưng Kynes lại im lặng.
Paul liếc đám người đang xúm xít quanh cậu. Họ nhìn chằm chằm sợ sệt vào gáy Kynes. Một người trong bọn họ thì thầm: "Liet".
Kynes quay người, quắc mắt giận dữ. Người đó lùi lại, bối rối.
Một người khác trong số những người được cứu thoát bắt đầu ho - ho khan khù khụ. Ngay sau đó, anh ta hổn hển: "Quỷ tha ma bắt cái xó địa ngục này đi!"
Người đàn ông Xứ Cát dáng cao lớn, người cuối cùng rời khỏi con bọ, nói: "Im đi, Coss. Cậu càng nói thì chỉ càng ho dữ hơn thôi." Ông ta ngọ nguậy giữa đám người cho đến khi có thể nhìn xuyên qua họ tới gáy của Công tước. "Ngài là Công tước Leto, chắc chắn vậy rồi," ông ta nói. "Xin gửi đến Ngài lời cảm tạ chân thành vì đã cứu mạng chúng tôi. Chúng tôi đã sắp tận số ở chỗ đó thì vừa hay ngài tới."
"Im lặng, anh kia, để cho Công tước lái tàu," Halleck càu nhàu.
Paul liếc Halleck. Cậu cũng đã nhìn thấy những nếp nhăn căng thẳng ở góc quai hàm cha. Mọi người đều bước thật khẽ mỗi khi Công tước đang trong cơn giận dữ.
Leto bắt đầu đưa tàu chầm chậm thoát khỏi đường bay vòng tròn rộng trong thế chao nghiêng, dừng lại khi thấy dấu hiệu di chuyển mới trên cát. Con sâu cát đã rúc xuống thật sâu và bây giờ, gần chỗ con bọ đã đứng ban nãy, có thể nhìn thấy hai dáng người đang di chuyển từ chỗ cát lún ra xa về hướng Bắc. Họ dường như lướt trên mặt cát, gần như không làm bốc bụi lên khiến lộ ra dấu vết họ đi.
"Ai ở dưới đó?" Công tước quát lên.
"Hai gã đến dự cho vui, thưa Cung tước," người Xứ Cát nói.
"Tại sao không nghe nói gì đến họ?"
"Bọn họ đã liều thì tự chịu lấy thôi, thưa Cung tước," người Xứ Cát nói.
"Thưa Chúa công," Kynes nói, "những người này biết rõ, trong vùng có sâu cát, dù có làm gì để cứu những người mắc kẹt trên sa mạc đi nữa thì cũng chẳng ích gì lắm."
"Chúng ta sẽ gửi một tàu từ căn cứ đến giúp họ!" Công tước cáu kỉnh.
"Xin theo ý ngài, thưa Tướng công," Kynes nói. "Nhưng có khả năng khi tàu đến được đây thì chẳng còn ai để cứu nữa."
"Dù thế nào thì chúng ta sẽ vẫn gửi một tàu đến," Công tước nói.
"Họ ở phía bên phải gần chỗ con sâu tới," Paul nói. "Họ sẽ thoát ra bằng cách nào đây?"
"Mép hố lún xuống khiến người ta dễ bị nhầm lẫn về khoảng cách," Kynes nói.
"Ngài đang lãng phí nhiên liệu ở đây, thưa Chúa công," Halleck đánh bạo nói.
"Ừ, Gurney."
Công tước lái tàu vòng về phía Tường Chắn. Đội hộ tống đang vòng vòng tại vị trí cảnh vệ trên cao bèn hạ xuống, chiếm giữ những vị trí bên trên và hai bên tàu Công tước.
Paul suy nghĩ về những gì người Xứ Cát và Kynes đã nói. Cậu cảm thấy những sự thật nửa vời, những lời nói dối không thể nhầm lẫn. Rõ ràng những người ở trên bãi cát đó đã lướt đi trên mặt đất, di chuyển theo một cách hiển nhiên là được tính toán sao cho không thu hút con sâu trồi lên từ trong lòng cát.
Người Fremen! Paul nghĩ. Còn ai khác có thể tự tin trên cát như thế? Còn ai khác có thể ung dung làm chủ tình huống ngay cả khi bị bỏ ngoài sự quan tâm lo lắng của mọi người - bởi họ không coi đó là nguy hiểm? Họ biết cách sống ở đây!Họ biết cách đánh lừa sâu cát!
"Người Fremen đang làm gì trên con bọ đó vậy?" Paul hỏi.
Kynes quay phắt lại.
Người Xứ Cát cao lớn trố mắt nhìn Paul - màu xanh trong màu xanh trong màu xanh. "Cậu bé này là ai?" ông ta hỏi.
Halleck bước lại đứng chắn giữa người Xứ Cát và Paul rồi nói: "Đây là Paul Atreides, người thừa kế của Công tước."
"Sao cậu ta lại bảo có người Fremen trên con bọ của chúng ta?" ông ta hỏi.
"Họ khớp với miêu tả," Paul nói.
Kynes khịt khịt mũi. "Cậu không thể nói đó là người Fremen chỉ bằng cách nhìn vào họ!" Ông ta nhìn người Xứ Cát. "Ông. Ông nói đi, những người đó là ai?"
"Bạn của một trong mấy người kia," người Xứ Cát nói. "Chỉ là những người bạn từ một thị trấn muốn nhìn thấy cát chứa hương dược."
Kynes quay đi. "Người Fremen!"
Nhưng ông đang nhớ về câu trong truyền thuyết: "Lisan al-Gaib sẽ nhìn thấu mọi ngón bịp."
"Giờ thì họ chết rồi, chắc chắn thế, cậu Cung tử à," người Xứ Cát nói. "Chúng ta không nên nói xấu về họ."
Nhưng Paul nhận thấy sự lừa dối trong giọng họ, cảm thấy cái mối đe dọa vốn khiến Halleck lấy tư thế bảo vệ theo bản năng.
Paul nói khô khốc: "Chết ở một nơi như thế thì kinh khủng quá."
Kynes nói, không quay đầu lại: "Một khi Thượng đế đã quyết định cho một kẻ phải chết ở một nơi cụ thể, Người sẽ khiến cho những mong muốn của anh ta dẫn đường cho anh ta đến đó."
Leto quay người nhìn chằm chằm nghiêm khắc vào Kynes.
Và Kynes, cũng nhìn chằm chằm đáp lại, thấy lo lắng vì một thực tế mà ông quan sát được ở đây: Vị Công tước này quan tâm đến nhóm thợ hơn là đến hương dược. Ông ta dám mạo hiểm mạng sống của mình và của con trai để cứu những người này. Ông ta cho qua việc mất con bọ khai thác hương dược chỉ bằng một cử chỉ. Mối đe dọa đối với tính mạng của nhóm thợ làm ông ta nổi cơn thịnh nộ. Một lãnh tụ như thế xứng đáng với lòng trung thành cuồng tín. Khó mà đánh bại được ông ta.
Ngược lại với ý chí và tất cả những chỉ trích trước đây của mình, Kynes thú nhận với chính mình: Ta thích vị Công tước này.
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát